1. Thực trạng về việc xâm phạm quyền tác giả trên internet tại Thái Lan và các quy định pháp luật điều chỉnh vấn đề này
Việc gia tăng một cách nhanh chóng lượng người sử dụng internet là xu hướng chung của thế giới và Thái Lan cũng không phải là ngoại lệ của xu hướng đó. Vào thời điểm cuối năm 2009, chỉ có khoảng 30% dân số Thái Lan tức khoảng hơn 18.000.000 người sử dụng internet, nhưng đến năm 2016 đã có tới gần 44.000.000 người Thái Lan. chiếm 65% dân số sử dụng internet[1]. Thái Lan cũng có hơn 20 nhà cung cấp dịch vụ internet. Người sử dụng internet có thể thông qua bốn kênh (dial up, high speed/broad band, ADSL, 3G/4G) để truy cập internet. Các loại hình kinh doanh có sử dụng internet cũng tăng lên một cách nhanh chóng, ví dụ như trong thị trường trò chơi thì trên 80% là các “games online”.
Ứng với sự phát triển nhanh chóng của internet thì việc xâm phạm quyền tác giả trên intemet cũng tăng lên mạnh mẽ. Có thống kê nói rằng, khoảng 90% các nội dung ca nhạc có thể sử dụng trên internet là vi phạm pháp luật[2]. Hầu hết người tiêu dùng Thái Lan không mua tác phẩm thông qua các bảng địa phát hành chính thức mà sử dụng tác phẩm qua việc tải xuống các nội dung trên internet một cách trái luật. Trong bối cảnh đó, Đoàn đại diện thương mai Hoa Kỳ đã đánh giá Thái Lan là “nước ưu tiên giám sát” và nhấn mạnh việc theo dõi bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ tại đây. Liên minh quyền sở hữu trí tuc quốc tế cũng đã yêu cầu Chính phủ Thái Lan phải có đối sách phù hợp.
Có thể nói rằng, không có ngành sản xuất nào của Thái Lan không chịu ảnh hưởng của việc xâm phạm quyền tác giả trên internet do trong bối cảnh hiện nay, sự xâm phạm đó đang xảy ra hằng ngày với mọi đối tượng của các ngành sản xuất. Ví dụ, sự xâm phạm quyền tác giả trong lĩnh vực âm nhạc, phim ảnh đang xảy ra hàng ngày và không chỉ có vậy, xâm phạm quyền tác giả trong lĩnh vực trò chơi điện tử, xâm phạm quyền tác giả với các tác phẩm in cũng đang liên tục phát sinh. Cụ thể là trong lĩnh vực âm nhạc, đối tượng bị xâm phạm quyền tác giả online chiếm tới 90% thị trường, Thái Lan có tới hơn 4.000 trang web cung cấp dịch vụ tại nhạc trái pháp luật[3].
Hiện tại ở Thái Lan, các loại vụ việc xâm phạm quyền tác giả dưới đây là phổ biến nhất:
Mạng đồng đẳng (P2P), trang web liên kết sâu (Deep link site); đây là loại vụ việc xâm phạm trong đó có sự phát tán rộng rãi phim ảnh trên mạng internet.
Trang web chia sẻ thông tin ngang hàng (Bit Torrent Site)/Trang web theo dõi (Tracker Site): đây là phương pháp được sử dụng để thúc đẩy việc truyền phát nội dung các bộ phim hay các chương trình ti vi. Ở Thái Lan hiện có khoảng trên 100 trang web chia sẻ thông tin ngang hàng và có hai loại người sử dụng là người xem (Viewer User) và thành viên (Member User - là người sử dụng có trả phí thành viên từ 200 đến 3.000 bạt Thái Lan để có thể tải xuống nhiều nội dung trên mạng).
Bảng thông báo điện tử: phương thức này thường được sử dụng cho việc tải xuống, đăng tải tác phẩm xâm hại quyền tác giả. Cũng có những bảng thông báo điện tử nhận sự hỗ trợ từ các quảng cáo để tồn tại.
Ngoài ra, còn có các phương thức qua các trang mạng xã hội miễn phí (Free SNS), Blog, Cyber lock, lan truyền các phần mềm trò chơi điện tử xâm phạm quyền tác giả bằng cách sử dụng các “game room” hoặc quán cà phê chưa nhận được giấy phép hoạt động.
Đa số người dân Thái Lan chưa có nhận thức đầy đủ về mối quan hệ giữa quyền tác giả với đời sống nói chung. Vì vậy, ở Thái Lan đang có nhiều cơ quan tổ chức các hoạt động tuyên truyền giáo dục cho người dân về quyền tác giả như Cục Sở hữu trí tuệ của Bộ Thương mại (DIP), Hiệp hội các nhà sản xuất phim ảnh Thái Lan (TDOA), Đại học Băng Cốc, Cảnh sát Vương quốc Thái Lan, Hiệp hội phím ảnh Hoa Kỳ (MPAA), Hiệp hội thời trang Băng Cốc vv.. Trước năm 2015, ở Thái Lan không có luật riêng để xử lý các vi phạm quyền tác giả trên internet. Thái Lan không có Luật trách nhiệm ISP như ở Nhật Bản, hay Trung Quốc có nghĩa là các vi phạm quyền tác giả trên internet đều được xử lý theo quy định của Luật Quyền tác giả nói chung. Tức là các quy định về quyền tài sản của quyền tác giả (quyền sao chép, quyền trình chiếu, quyền công diễn, quyền truyền thông tới công chúng, quyền số hóa, quyền triển lãm, quyền dịch, v.v...) và quyền nhân thân của quyền tác giả (quyền công bố, quyền ghi tên quyền bảo đảm sự toàn vẹn, v.v...) Thái Lan đã sửa đổi Luật Quyền tác giả năm 1994 vào năm 2015. Luật Quyền tác gia năm 2015 đã khắc phục được nhược điểm của Luật Quyền tác giả năm 1994 khi đã có thêm các quy định về trách nhiệm của ISP đối với các vi phạm trên môi trường internet. Hiện nay, Thái Lan chưa gia nhập Hiệp ước về quyền tác giả năm 1996 của WIPO (WCT) hay Hiệp ước về biểu diễn và bản ghi âm năm 1996 của WIPO (WPPT). Tuy nhiên, hiện nay Thái Lan cũng đã thảo luận việc sửa đổi luật theo hướng gia nhập cả hai điều ước quốc tế này.
2. Bảo hộ quyền tác giả trước các xâm phạm trên internet
Trách nhiệm của người xâm phạm
Trong trường hợp tác giả bị thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền tác giả trên internet trước năm 2015 mặc dùkhông có cơ sở pháp lý rõ ràng nhưng các biện pháp sau có thể được thực hiện: (i) Truy cứu trách nhiệm hình sự thông qua cơ quan nhà nước (Ví dụ như Cục Xử lý tố phạm công nghệ (TCSD) và Cục Xử lý tội phạm kinh tế (ECD) của Cảnh sát Vương quốc Thái Lan); (ii) Yêu cầu ISP xóa bỏ trang thông tin có nội dung xâm phạm quyền tác giả thông qua các tổ chức tư nhân (Ví dụ như Hiệp hội các nhà sản xuất phim ảnh Thái Lan (TDCA)); (iii) Tác giả tự mình yêu cầu ISP xóa bỏ thông tin xâm phạm quyền của mình.
Các biện pháp này không phải được áp dụng lần lượt mà tác giả bị thiệt hại có thể sử dụng kết hợp các phương pháp để chống lại hành vi vi phạm.
Về trách nhiệm dân sự: theo quy định trước khi sửa đổi Luật Quyền tác giả năm 1994, thì tác giả có thể khởi kiện dân sự đối với bản thân người có hành vi vi phạm. Có nghĩa là trong trường hợp có thể xác định được người đã thực hiện hành vi vi phạm quyền tác giả trên internet (sao chép, đăng tải) hay chủ trang web (webmaster) và những người này cư trú tại Thái Lan thì tác giả có thể khởi kiện dân sự để truy cứu trách nhiệm dân sự. Nhưng với cách truy cứu trách nhiệm dân sự như trên thì trong nhiều trường hợp sẽ rất khó khăn xác định người vi phạm.
Trong trường hợp khởi kiện dân sự tại Tòa án sử hữu trí tuệ và thương mại quốc tế (IPIT) thì thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế và luật áp dụng được xác định như sau đầu tiên, nếu trang web được quan lý vận hành bởi doanh nghiệp có trụ sở tại Thái Lan và có thể truy cập được tại Thái Lan thì tác phẩm được coi là phát hành tại Thái Lan. Do đó, IPIT sẽ áp dụng Luật Quyền tác giả Thái Lan đối với doanh nghiệp Thái Lan có trách nhiệm trong việc vi phạm quyền tác giả. Tiếp theo, nếu trong trường hợp trang web được quản lý, vận hành bởi doanh nghiệp có trụ sở tại Thái Lan và có một số nội dung không thể truy cập tại Thái Lan, nhưng trang web được thiết lập bởi ISP có trụ sở tại Thái Lan thì IPIT cũng có thẩm quyền và sẽ áp dụng Luật Quyền tác giả Thái Lan để giải quyết vụ việc xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Còn nếu trang web được quản lý vận hành bởi doanh nghiệp có trụ sở tại Thái Lan không thể truy cập được tại Thái Lan và cũng không được thiết lập bởi ISP có trụ sở tại Thái Lan thì IPIT vẫn có thẩm quyền xét xử, nhưng luật áp dụng sẽ là luật của nước nơi tác phẩm được phát hành hoặc nước nơi ISP tồn tại. Nhưng cũng cần lưu ý rằng hiện nay không có quy định riêng về thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế và luật áp dụng với vụ việc xâm phạm quyền tác giả trên internet vàcũng chưa có án lệ nào tại Thái Lan về vấn đề này[4].
Về truy cứu trách nhiệm hình sự - Yêu cầu cơ quan nhà nước điều tra cưỡng chế ở Thái Lan, cơ quan liên quan tới xử lý hành vi vi phạm quyền tác giả trên internet là Cục Xử lý tội phạm công nghệ (TCSD) và Cục Xử lý tội phạm kinh tế (BCD) của Cảnh sát Vương quốc Thái Lan. Do đó, việc yêu cầu điều tra cưỡng chế có thể được gửi đế TCSD hoặc ECD. Cho đến nay thì việc điều tra cường cha đối với hành vi vi phạm quyền tác giả trên internet chưa được thực hiện nhiều nhưng trong trường hợp có thể xâ định được địa điểm thực tế đang tiến hành quản lý vận hành trang web thì có thể điều tra với địa điểm này và cũng có thể tịch thu máy tính cá nhân và các trang thiết bị có liên quan được sử dụng để quản lý, vận hành trang web. Đặc biệt là nếu máy chủ (server) của ISP được sử dụng như web chủ để đăng tải các bản copy lậu thì server đó có thể bị TCSD hay ECD tịch thu như một chứng cứ của vụ việc. Trong năm 2011, đã có một số vụ việc tịch thu máy chủ diễn ra[5].
Cơ chế tự chủ động với vi phạm quyền tác giả trên internet; tại Thái Lan có các tổ chức nghề nghiệp đang hoạt động trong việc phòng, chống xâm phạm quyền tác giả trên internet như Hiệp hội các nhà sản xuất phim anh (TECA), Liên minh kinh doanh phần mềm (BSA)... Trong trường hợp bị thiệt hại do sự xâm phạm quyền tác giả trên internet thì chủ sở hữu quyền tác giả có thể trao đổi với các tổ chức này và có thể nhận được các hỗ trợ sau:
Một là, thúc ép ISP xóa bỏ trang thông tin vi phạm quyền tác giả: việc thúc ép này sẽ do cả tổ chức công và tự thực hiện. Theo một thống kê của Liên minh quyền sở hữu trí tuệ quốc tế (IPA) thì năm 2009 các hiệp hội nhà sản xuất âm nhạc, bản ghi âm tại Thái Lan đã gửi 749 cánh bảo tới ISP và chủ web, trong đó có 645 vụ đã xóa bỏ trung thông tin vi phạm (chiếm 86%)[6]. Trong năm 2008, số cảnh báo đưa ra cũng là 749 yêu cầu nhưng có tới 712 vụ việc xóa bỏ thông tin (chiếm 95%)[7]. Và tại TEOA, từ tháng 01 năm 2011 đến cuối tháng 10 năm 2011 đã đưa ra 444 yêu cầu và tổng cộng có 318 vụ đã xóa thông tin vi phạm (chiếm 71,6%)[8]. BSA cũng đã thực hiện thành công nhiều yêu cầu xóa bỏ website phát tán các phần mềm kinh doanh bất hợp pháp. Qua đây có thể thấy tỷ lệ đáp ứng yêu cầu xóa bỏ thông tin vi phạm khá cao và đều là sự tự giác của ISP chứ không phải mệnh lệnh cưỡng chế theo quy định của pháp luật Thái Lan lúc bấy giờ.
Hai là, yêu cầu sự đồng ý từ “cyberlocker site”: TECA đã thành công trong việc thỏa thuận với một số "cyberlocker site” trong việc không tiếp nhận file MP3[9] được dùng cho chuyển đổi tác phẩm. Nhưng cũng có ý kiến cho rằng vì có thể dễ dàng thay đổi tên file nên sự thỏa thuận trên cũng chưa hẳn bảo đảm được sự không tồn tại của các file MP3.
3. Trách nhiệm của ISP
Trước khi Luật Quyền tác giả sửa đổi năm 2015 được ban hành, trong trường hợp có tác phẩm bị sao chép, đáng tại trên chương trình (server) do ISP quản lý thì cá nhân đã thực hiện hành vi sao chép và đăng tải đó sẽ trở thành chủ thể của quan hệ xâm phạm quyền tác giả. Còn ISP thì không được quy định là chủ thể chịu trách nhiệm pháp lý và cũng không có nghĩa vụ xóa trang thông tin vi phạm hay cung cấp thông tin người có hành vi xâm phạm. Điều này áp dụng cho cả phần mềm trao đổi file như P2P hay diện toán đám mây (cloud computing).
Có thể thấy hệ thống pháp luật của Thái Lan về bảo hộ quyền tác giả trên internet trước năm 2015 chưa đầy đủ và đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Do chế độ pháp luật chưa hoàn thiện nên các chính sách liên quan xử lý xâm phạm quyền tác giả trên internet cũng chưa đầy đủ nhưng cũng không phải là hoàn toàn không có giải pháp nào. Việc xóa bỏ các trang thông tin có nội dung xâm phạm quyền tác giả bởi các tổ chức nghề nghiệp hay sự điều tra cưỡng chế bởi cơ quan cảnh sát theo quy định của Luật Quyền tác giả cũng đã được tiến hành. Theo quy định của pháp luật Thái Lan trước khi sửa đổi Luật Quyền tác giả năm 1994 thì ISP không có trách nhiệm gì với các vi phạm quyền tác giả xảy ra trên internet. Do đó, việc xóa bỏ trang thông tin vi phạm xét cho cùng là sự phối hợp tự giác chứ không phải nghĩa vụ của ISP
Việc xóa bỏ trang thông tin vi phạm quyền tác giả là biện pháp hữu hiệu để thực hiện chấm dứt hành vi viphạm quyền tác giả. Mặt khác, việc xóa bỏ trang thông tin vi phạm vẫn đang được tiến hành trong tình trạng điều kiện, thủ tục xóa bỏ chưa được quy định hoàn chỉnh trong luật. Do đó, có tình trạng trang thông tin bị xóa bỏ vẫn còn chưa xác định rõ được có phải thực tế đang xâm phạm quyền tác giả hay không. Nếu cuối cùng trang thông tin đó chứng minh không có sự vi phạm quyền tác giả thì ISP đã xóa bỏ nó có thể chịu trách nhiệm do vi phạm hợp đồng đã ký với chủ trang thông tin. Chính vì những vấn đề đó đặt ra yêu cầu với Thái Lan là phải sửa đổi Luật Quyền tác giả và hoàn thiện chế định về trách nhiệm của ISP trong đó quy định rõ điều kiện, trình tự, thủ tục xóa bỏ trang thông tin vi phạm quyền tác giả. Trên thực tế cũng chưa có tranh chấp nào phát triển tới mức phải đưa ra giải quyết tại tòa án về hành vi xóa bỏ[10], do đó tòa án cũng không có ý kiến cụ thể nào về vấn đề này.
Việc ISP xóa bỏ trang thông tin vi phạm với tư cách hành vi phối hợp với chủ sở hữu quyền tác giả không phải là hành vi được tiến hành thường xuyên, và chủ sở hữu quyền tác giả cũng không thể có được thông tin từ ISP về họ tên, địa chỉ IP để xác định người có hành vi vi phạm. ISP cũng có thể từ chối việc nêu danh tính của chủ website.
Và việc nhờ Cảnh sát Vương quốc Thái Lan cung cấp thông tin danh tính và địa chỉ IP để xác định người có hành vi vi phạm trên thực tế cũng gặp nhiều khó khăn. Cảnh sát Vương quốc Thái Lan cũng được cho là không có xu hướng thực hiện các thủ tục yêu cầu Tòa án ra lệnh cung cấp thông tin với ISP[11].
Mặc dù, việc xóa thông tin vi phạm quyền tác giả là sự phối hợp tự nguyện của ISP như đã trình bày, nhưng trên thực tế khi chủ sở hữu quyền tác giả có yêu cầu xóa thì thực hiện theo trình tự như sau: đầu tiên là chủ sở hữu quyền tác giả sẽ gửi giấy yêu cầu cho ISP. Trong giấy yêu cầu phải thể hiện các nội dung như chứng minh về quyền sở hữu của người yêu cầu với đối tượng bị xâm hại và nội dung yêu cầu ISP xóa thông tin xâm phạm quyền tác giả đó. Để có chứng cứ chứng minh người yêu cầu là chủ sở hữu quyền tác giả hợp pháp, người yêu cầu xóa thông tin xâm phạm quyền tác giả có thể sử dụng các chứng cứ sau để chứng minh cho quyền sở hữu hợp pháp của mình với đối tượng của quyền tác giả đang bị xâm phạm:
Một là, bản sao Giấy đăng ký quyền tác giả do Cục sở hữu trí tuệ (DIP) cấp; Hai là, trong trường hợp không đăng ký tại DIP thìcó thể cung cấp một trong các giấy tờ như:
(1) Bản saogiấy đăng ký quyền tác giả được cấp bởi cơ quan khác
(2) Quyết định của Tòa án tuyên bố người yêu cầu là chủ sở hữu hợp pháp quyền tác giả;
(3) Bản nháp, lời tựa, điều tra bối cảnh;
(4) Các loại tài liệu có liên quan khác mà người yêu cầu xác lập ở mức độ tạo ra tác phẩm như bản thảo v.v..
Giấy đăng ký quyền tác giả do DIP cấp có khả năng giúp suy đoán chủ sở hữu quyền tác giả, tuy nhiên không có nghĩa là quyền tác giả phát sinh, tồn tại hoàn toàn theo sự đăng ký đó. Do đó, khi yêu cầu ISP xóa trang thông tin xâm phạm quyền tác giả thì người yêu cầu vẫn có thể sử dụng giấy đăng ký quyền tác giả này làm căn cứ để chứng minh cho quyền sở hữu hợp pháp của mình, nhưng không có nghĩa là bắt buộc phải có giấy đăng ký đó. Xét cho cùng, đây cũng chỉ là một loại tài liệu để giải thích với ISP rằng chính người yêu cầu là chủ sở hữu của quyền tác giả. Mặc dù vậy thì giấy đăng ký quyền tác giả là tài liệu cần thiết để cơ quan cảnh sát khởi tố vụ án xâm phạm quyền tác giả và để chính chủ sở hữu quyền tác giả khởi kiện dân sự.
Cho đến năm 2015, các quy định của pháp luật về bảo hộ quyền tác giả trên internet chưa đầy đủ như đã trình bày ở trên. Trước tình hình đó đã có một số nước gửi yêu cầu tới Chính phủ Thái Lan phải hoàn thiện hệ thống pháp luật để có thể xử lý thích đúng các hành vi xâm phạm quyền tác giả trên internet. Nội dụng các yêu cầu tập trung vào việc pháp diễn hóa trách nhiệm xóa bỏ. thông tin xâm phạm quyền tác giả của ISP, hệ thống hóa TCSD... Đáp lại yêu cầu đó, Thái Lan đã tiến hành sửa đổiLuật Quyền tác giả và đã được Quốc hội nước này thông qua ngày 31 tháng 01 năm 2015 và có hiệu lực từ ngày 0 tháng 8 năm 2015[12]. Luật Quyền tác giả năm 2015 của Thái Lan được sửa đổi theo hướng áp dụng các tiêu chuẩn bảo hộ theo yêu cầu của các điều ước quốc tế như WCT, WPPT. Có nghĩa là trong Luật Quyền tác giả năm 2015 Thái Lan đã đưa vào các điều khoản để quy định trách nhiệm của ISP quy định hành vi lẩn tránh áp dụng các biện pháp kỹ thuật của tác giả.
Mục đích bao gồm: 1) Giải quyết vi phạm quyền tác giả trên mạng bằng cách cung cấp cơ chế để giải quyết các vi phạm trực tuyến, bao gồm trách nhiệm của ISP; 2) Thông qua việc cấm các biện pháp bảo vệ công nghệ (TPMs) và bảo vệ thông tin quản lý quyền (RMI), các nghĩa vụ chính của WCT và WPPT mà Thái Lan vẫn chưa chấp nhận hoặc phê chuẩn; và 3) Để giải quyết các hành vi ghi hình trái phép một tác phẩm nghe nhìn trong một rạp chiếu phim. Các sửa đổi cũng quy định quyền của người biểu diễn và đưa ra một ngoại lệ mới (có thể quá rộng) để cung cấp việc tiếp cận các tác phẩm cho những người “không thể tiếp cận được” một tác phẩm do khuyết tật về thị giác, thính giác, trí tuệ hoặc “học tập”[13].
Ngoài Luật Quyền tác giả, Thái Lan còn đang tiến hành sửa đổi Luật về Chủ sở hữu đất/sở hữu nhà. Theo đó, người sở hữu đất sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự trong trường hợp biết hoặc có căn cứ để biết mảnh đất của mình sẽ được sử dụng để phân phối các sản phẩm phạm pháp, xâm phạm quyền tác giả mà vẫn cho thuê mảnh đất đó. Ở đây, trong định nghĩa về “chủ sở hữu đất sở hữu nhà” có quy định bao gồm cả ISP. Có nghĩa là quy định cả về hành vi cung cấp không gian ảo cho người có hành vi xâm phạm quyền tác giả để người đó phân phối các tác phẩm trên mạng một cách bất hợp pháp. Tuy nhiên, cho đến nay, Dự Luật này vẫn đang tiếp tục quá trình thảo luận[14].
Thêm vào đó, Luật Tội phạm máy tính năm 2007 cũng đang được sửa đổi. Dự luật có quy định hành vi xâm phạm quyền tác giả cũng có thể cấu thành một loại tội phạm theo Luật Tội phạm máy tính. Tuy nhiên, vấn đề này vẫn đang tiếp tục được thảo luận kỹ trong Quốc hội và cả Chính phủ. Do quy định này đã bị lược bỏ sau đó nhưng một số nghị sĩ và Chính phủ tiếp tục có ý kiến đưa điều luật này quay trở lại[15].
Qua thực tiễn lập pháp của Thái Lan có thể thấy vấnhết sức được quan tâm và quy chế pháp lý bảo hộ quyền này đang ngày càng được hoàn thiện hơn. Đây cũng là một trong những kinh nghiệm rất có giá trị cho các nước có trình độ phát triển kinh tế - xã hội tương tự Thái Lan như Việt Nam tham khảo.
[1]Theo Thống kê của Trung tâm kỹ thuật điện tử, máy tính quốc gia Thái Lan (NECTEC) http://internet necteoarth/webstat internetuser.iir?Sec-internetuser
[2]Liên minh quyền sở hữu trí tuệ quốc tế (IIPA): "Báo cáo Điều 301, Bản đặc biệt năm 2011 tr 116
[3]Liên minh quyền sở hữu trí tuệ quốc tế (IPA) Báo cáo Điều 201, bản đặc biệt năm 2017 tr 116; Báo cáo Điều 301 Bản đặc biệt năm 2010 tr 304
[4]http://www.bunka.go.jp/seisaku/chosakuken/kaizokuban/handbook/ I. Theo Hướng dẫn về đối sách xâm phạm quyền tác giả tại Thái Lau do Cục Văn hóa, Văn phòng Nội các Nhật Bản phát hành, xem pdf24_tai_singai
[5]Theo kết quả phỏng vấn một điều tra viên của BCD ngày 01-12-2011, xem tại: http://www.bunks.go.jp/ninkuchoukuken kaizokuban/handbook/pdf/24_tai_singai handbook ver2.pdf, truy cập ngày 20-9-2017
[6]Liên minh quyền sở hữu trí tuệ quốc tế (IIPA): Bảo cáo Điều 301, Bản đặc biệt năm 2011, tr.325
[7]Liên minh quyền sở hữu trí tuệ quốc tế (IIPA): Bảo cáo Điều 301, Bản đặc biệt năm 2011, tr.325
[8]Phát biểu của Chủ tịch TDCA ngày 30-11-2011, xem tại: http://www.bunka.go.jp/seisaku/chosakuken/kaizokuban/handbook/ pdf24_tai_singai_handbook_vor, palf, truy cập ngày 20-9-2017
[9]Liên minh quyền sở hữu trí tuệ quốc tế (IIPA): Bảo cáo Điều 301, Bản đặc biệt năm 2011, tr.325
[10]Theo trả lời của TECA và Price Sanond Prabhas & Wynne (Bangkok, Thailand) vào tháng 01 năm 2013 thì chưa có tranh chấp về vấn đề này, xem tại: http://www.bunka go.jp/seisakuchosakuken kaizokuban/handbook/pdf/24_tai_singai_handbook ver2.pdf, truy cập ngay 20-9-2017
[11]Xem tại: http://www.bunka gopsisakuchosukaku/kaizokuban handbook/pdf/24_tai_singai_handbook ver2 pdf, truy cập ngày 20-9-2017
[12]http://www wipo.int/wipoles/en/details.jsp?id=15713, truy cập ngày 11-11-2017
[13]IIPA, 2016 Special 301 Report on Copyright Protection and Enforcement”, p.52
[14]https://www.lawplusltd.com/2017/10/roundtable-discussion bandlord-liability thai-law-hosted-uspto/, truy cập ngày 11-11-2017
[15]IIPA, 2016 Special 301 Report on Copyright Protection and Enforcement", p55, xem tại: http://www.ipa website,com/rbe/2016/ 2016SPEC301THAILAND.PDF, truy cập ngày 11-11-2017