Trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước và thị trường đều có vai trò và chức năng riêng. Bản thân thị trường luôn vận hành theo các quy luật vốn có khách quan. Cơ chế thị trường là cơ chế hiệu quả trong phân bố và khai thác các nguồn lực. Song bản thân thị trường vận động tự do luôn có xu hướng đẩy nền kinh tế vào tình trạng không ổn định và khủng hoảng. Thị trường có những khiếm khuyết cố hữu, đòi hỏi phải có sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế để khắc phục. Tuy nhiên, Nhà nước cũng có hạn chế và cũng thất bại khi can thiệp quá mức. Chính sự khiếm khuyết của thị trường và hạn chế của nhà nước cho thấy không thể phát triển khi thiếu vắng sự can thiệp của Nhà nước, cũng như không thể phát triển nếu thiếu vắng thị trường, để phát triển đòi hỏi Nhà nước và thị trường cần tương tác, hỗ trợ nhau, khắc phục các khiếm khuyết. Như vậy có thể thấy mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường xuất phát từ chính nhu cầu của nhà nước và nhu cầu của thị trường, đó là mỗi quan hệ tất yếu, tương tác phụ thuộc nhau. Biểu hiện kết quả của sự tương tác giữa nhà nước và thị trường là sự phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi quốc gia. Việc giải quyết mối quan hệ này được biểu hiện tập trung ở hệ thống thể chế phát triển. Tuy nhiên, việc giải quyết mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường không chỉ dừng ở xác định vai trò và thể chế hóa vai trò của nhà nước và thị trường mà còn được thể hiện ở việc giải quyết trong thực tiễn. Việc giải quyết trong thực tiễn mối quan hệ này phụ thuộc rất quan trọng vào bộ máy nhà nước cũng như sự chủ động của các chủ thể trên thị trường.
Vai trò của thể chế nhà nước[1], nếu có một bộ máy nhà nước làm việc hiệu quả thì việc giải quyết mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường cũng sẽ hợp lý. Thông thường người ta hướng đến một nhà nước pháp quyền, trong đó việc quản lý và điều hành đều dựa trên các quy định của pháp luật. Cùng với sự phát triển của xã hội, vai trò của nhà nước trong thực tiễn hướng đến hỗ trợ, định hướng cho sự phát triển của thị trường, mà ngày nay gọi là nhà nước kiến tạo phát triển.
Khái niệm phổ biến trên thế giới là nhà nước kiến tạo phát triển, trong đó có chính phủ, chứ không hẳn chính phủ kiến tạo phát triển trong một nhà nước. Khái niệm này được nhà nghiên cứu Chaimers Johnson đưa ra từ năm 1982, khi nghiên cứu về sự phát triển thần kỳ của Nhật Bản. C. Johnson nhận thấy rằng tron sự phát triển thần kỳ ấy có vai trò rất quan trọng của nhà nước. Nhà nước Nhật Bản đã không chỉ tạo ra khuôn khổ cho sự phát triển, mà còn định hướng và thúc đẩy sự phát triển đó. Sau này, ngoài Nhật Bản, thì Hàn Quốc, Trung Quốc đều được xem là những nhà nước kiến tạo phát triển. Theo các nhà nghiên cứu, đây là mô hình nhà nước nằm ở giữa hai loại hình nhà nước là: nhà nước điều chỉnh theo chủ thuyết thị trường tự do và nhà nước kế hoạch hóa tập trung theo mô hình xã hội chủ nghĩa truyền thống. Nhà nước kiến tạo phát triển không đứng ngoài thị trường, nhưng cũng không làm thay thị trường. Nhà nước kiến tạo phát triển chủ động can thiệp vào thị trường để thúc đẩy phát triển và hiện thực hóa các mục tiêu phát triển đã được đề ra. Thực tế cho thấy nhà nước kiến tạo phát triển có thể thúc đẩy sự phát triển nhanh hơn. Ví dụ, để đạt được mức tăng trưởng GDP gấp đôi, một nhà nước điều chỉnh (như Hoa Kỳ) sẽ phải mất đến 50 năm, trong khi đó một nhà nước kiến tạo phát triển (như Trung Quốc) chỉ mất 10 năm. Như vậy, nhà nước kiến tạo phát triển là mô hình nhà nước kết hợp được ưu điểm, đồng thời khắc phục được nhược điểm của cả hai mô hình nhà nước điều chỉnh và nhà nước kế hoạch hóa tập trung.
Trong điều hành thực tiễn cần tuân thủ các quy luật cơ bản của kinh tế thị trường. Đó là các quy luật:
- Quy luật giá trị: Quy luật giá trị yêu cầu sản xuất và lưu thông hàng hóa phải dựa trên cơ sở giá trị lao động xã hội cần thiết trung bình để sản xuất, lưu thông hàng hơn và trao đổi ngang giá. Việc tính toán chi phí sản xuất và lưu thông bằng giá trị là cần thiết bởi đòi hỏi của thị trường, của xã hội là với nguồn lực có hạn phải sản xuất được nhiều của cải vật chất cho xã hội nhất, hay là chi phí cho một đơn vị sản phẩm ít nhất với điều kiện chất lượng sản phẩm cao. Người sản xuất kinh doanh nào có chi phí lao động xã hội cho một đơn vị sản phẩm thấp hơn trung bình thì người đó có lợi, ngược lại người nào có chi phí cao thì khi trao đổi sẽ không thu được giá trị đã bỏ ra, không có lợi nhuận và phải thu hẹp sản xuất hoặc kinh doanh. Đây là yêu cầu khắt khe buộc người sản xuất, người kinh doanh phải tiết kiệm chi phí, không ngừng cải tiến kỹ thuật - công nghệ, đổi mới sản phẩm, đổi mới kinh doanh - dịch vụ để thỏa mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng để bán được nhiều hàng hóa và dịch vụ.
- Quy luật cung - cầu: Ở đâu có thị trường thì ở đó có quy luật cung - cấu tồn tại và hoạt động một cách khách quan. Cầu xác định cung và ngược lại cung xác định cầu. Cầu xác định khối lượng, chất lượng và chủng loại cung về hàng hóa, những hàng hóa nào được tiêu thụ thì mới được tái sản xuất. Ngược lại, cung tạo ra cầu, kích thích tăng cầu thông qua phát triển số lượng, chất lượng, chủng loại hàng hóa, hình thức, quy cách và giá cả của nó. Cung – cầu tác động lẫn nhau và ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả. Đây là sự tác động phức tạp theo nhiều hướng và nhiều mức độ khác nhau. Quy luật cung - cầu tác động khách quan và rất quan trọng. Nếu nhận thức đúng về tác động của quy luật cung - cầu thì sẽ vận dụng để tác động đến hoạt động sản xuất kinh doanh theo chiều hướng có lợi cho quá trình thi sản xuất xã hội. Nhà nước có thể vận dụng quy luật cung - cầu thông qua các chính sách, các biện pháp kinh tế như giá cả, lợi nhuận, tín dụng, hợp đồng kinh tế, thuế, thay đổi cơ cấu tiêu dùng. Để tác động vào các hoạt động kinh tế theo quy luật cung - cầu, cần phải duy trì tỷ lệ cân đối cung - cầu một cách mạnh và hợp lý.
- Quy luật giá trị thặng dư: Đây là quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản. Tuy nhiên, khi trong xã hội còn tồn tại sản xuất và lưu thông hàng hóa, quy luật giá trị thặng dư vẫn còn phát huy tác động. Trong xã hội ngày nay, mỗi người lao động vẫn còn lệ thuộc vào sự phần công lao động xã hội, vẫn còn sự đối lập giữa lao động chân tay và lao động trí óc; lao động vẫn là phương tiện để sinh sống chứ chưa trở thành nhu cầu bậc nhất của mỗi người, sức sản xuất của xã hội chưa đạt đến mức của cải tuôn ra dào dạt để phân phối theo nhu cầu, nên vẫn phải đi con đường vòng thực hiện phân phối thông qua trao đổi hàng hóa. Và yêu cầu hàng hóa bản ra phải bù đáp chi phí sản xuất và lưu thông đồng thời phải có một khoan lợi nhuận để tái sản xuất sức lao động và tái sản xuất mở rộng.
- Quy luật cạnh tranh: Trong nền kinh tế có nhiều thành phần kinh tế, có nhiều người mua, người bán với lợi ích kinh tế khác nhau thì việc cạnh tranh giữa người mua với người mua, người bán với người bán và cạnh tranh giữa người mua với người bán tạo nên sự vận động của thị trường và trật tự thị trường. Cạnh tranh trong kinh tế là cuộc đấu không phải với một đối thủ mà dồng thời với hai đối thủ. Tức là cạnh tranh giữa người mua và người bán và cạnh tranh giữa người bán với nhau. Không thể lẫn tránh cạnh tranh mà phải chấp nhận cạnh tranh, đón trước cạnh tranh và sẵn sàng sử dụng vũ khí cạnh tranh hữu hiệu. Việc điều hành giải quyết trong thực tiễn mối quan hệ này chính là phải giải quyết dưới góc nhìn của hàng loạt các mối quan hệ, tương ứng với vai trò, chức năng mà nhà nước hay thị trường thể hiện. Có thể nêu các mối quan hệ cơ bản sau:
Thứ nhất, quan hệ giữa mục tiêu và phương tiện.
Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là: xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tăng về chính trị tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc. Như vậy, xét về mặt kinh tế, mục tiêu phát triển chính là xây dựng nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội. Đây chính là chức năng kinh tế của nhà nước chủ xã hội nghĩa. Trước đây, trong nền kinh tế tập trung, để thực hiện chức năng kinh tế nhà nước xã hội chủ nghĩa tự biến minh thành một tổ chức siêu kinh tế, không chỉ dừng lại ở hoạt động quản lý, nhà nước còn tham gia trực tiếp vào hoạt động sản xuất và phân phối sản phẩm. Hiện nay, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhà nước thực hiện xây dựng hệ thống pháp luật và sử dụng các công cụ kinh tế để điều tiết nền kinh tế thị trường. Thị trường được xem như phương tiện, để qua đó nhà nước hiện thực hóa nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội.
Thực tiễn phát triển cho thấy, thị trường và cơ chế thị trường là phương án hiệu quả nhất cho khai thác, huy động các nguồn lực cho tăng trưởng. Nói cách khác, muốn duy trì sự phát triển xã hội, hay muốn thực hiện mục tiêu tăng trưởng nhằm tạo nền tảng kinh tế của một xã hội mới phải lựa chọn phương tiện có khả năng khai thác, phát huy hiệu quả các nguồn lực xã hội. Và cũng chỉ có nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân mới bảo đảm cho thị trường phát huy tác dụng trong tạo dựng nền tảng kinh tế xã hội xã hội chủ nghĩa. Ở phương diện này có thể thấy giải quyết mối quan hệ giữa mục tiêu và phương tiện, xét dưới góc độ kinh tế chính là giải quyết mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường.
Thứ hai, quan hệ giữa chính trị và kinh tế. Trên bề mặt xã hội, biểu hiện dễ nhận thấy nhất của chính trị là nhà nước với cấu trúc tương ứng. Về phương diện kinh tế, trong điều kiện kinh tế thị trường, biểu hiện tập trung của mặt kinh tế là hoạt động của thị trường với các quy luật kinh tế đặc trưng như quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật cung - cầu... Các quy luật của nền kinh tế thị trường vận động tạo ra nhiều tác động tích cực đồng thời cũng gây ra nhiều tác động tiêu cực. Để phát huy các tác động tích cực, đồng thời hạn chế các tác động tiêu cực của các quy luật kinh tế khách quan của nền kinh tế thị trường gây ra, đòi hỏi phải có vai trò của nhà nước. Đến lượt nó, bản thân sự can thiệp của nhà nước cũng có những hạn chế. Vì vậy cần có vai trò của thị trường. Với ý nghĩa đó, việc giải quyết mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị biểu hiện tập trung thành mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường. Trong đó trước hết nhà nước vừa thực hiện chức năng chính trị của kiến trúc thượng tầng vừa thực hiện chức năng kinh tế của cơ sở hạ tầng. Nghĩa là nhà nước vừa thực hiện nhiệm vụ chính trị tương ứng của mình đồng thời vừa thực hiện nhiệm vụ kinh tế gắn với hoạt động của thị trường.
Về nhiệm vụ chính trị, nhà nước trước hết phải thực hiện việc duy trì sự tồn tại của chính bản thân mình. Về nhiệm vụ kinh tế, nhà nước phải thực hiện các chức năng kinh tế để thúc đẩy sự phát triển nói chung của xã hội. Do đó, có thể hình dung, việc giải quyết mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, hay giữa nhiệm vụ kinh tế và nhiệm vụ chính trị, trên thực tế, tập trung ở việc xác định rõ chức năng của nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Nhà nước và thị trường tuy là một thể thống nhất trong nền kinh tế thị trường song, chức năng của nhà nước và chức năng của thị trường lại có sự phân biệt. Trong điều kiện kinh tế thị trường, giới hạn của việc phát huy vai trò kinh tế của nhà nước thể hiện ở chỗ nhà nước trong khi thực hiện chức năng của mình không được làm méo mó các quan hệ tích cực của thị trường. Cũng như thế, việc phát huy vai trò của thị trường không nhất thiết phải tạo ra những khoảng cách phân hóa ngày càng nới rộng biến độ, từ đó gây bất bình đẳng quá mức trong xã hội. Sự bất bình đẳng quá mức đến lượt nó sẽ triệt tiêu những thành tựu nhờ tác động tích cực của các quy luật thị trường.
Thứ ba, quan hệ giữa chủ thể quản lý và đối tượng quản lý.
Thực chất đây là quan hệ giữa nhà nước với tư cách người quản lý vĩ mô với các chủ thể trên thị trường. Nhà nước phải tạo dựng luật chơi và giữ cho luật chơi được thân thủ. Nhà nước thực hiện vai trò quản lý thông qua ban hành các văn bản pháp luật dẫn dắt thị trường, đồng thời thông qua bộ máy đội ngũ công chức được đào tạo với các nhiệm vụ, chức năng cụ thể trong các lĩnh vực. Việc thực thì vai trò phải trên cơ sở tôn trọng các quy luật của thị trường, có như vậy mới không làm méo mó thị trường và phát huy được vai trò của các chủ thể.
Thứ tư, quan hệ giữa cái chủ quan và cái khách quan
Thị trường vận hành theo các quy luật khách quan, vốn có như quy luật giá trị quy luật cung - cầu, quy luật cạnh tranh... Trong công tác quản lý kinh tế, nhà nước phải dựa vào thị trường để tính toán, làm cơ sở khoa học cho việc xây dựng pháp luật, quy hoạch, kế hoạch phát triển. Việc tổ chức mở rộng thị trường mà không có sự điều tiết của công cụ quản lý tất yếu dẫn đến sự rối loạn trong hoạt động kinh doanh. Nếu nhận thức phiến diện về thị trường cũng như điều tiết thị trường theo ý muốn chủ quan, duy ý chí trong quản lý và chỉ đạo kinh tế đồng nghĩa với việc dĩ ngược lại các hệ thống quy luật kinh tế vốn có trong thị trường. Nói cách khác, thông qua bộ máy quản lý của mình nhà nước ban hành các quy định can thiệp, điều tiết thị trường là hoạt động chủ quan của con người. Sự can thiệp này không làm méo mô thị trường, mà tạo điều kiện cho thị trường phát huy hiệu quả, mở rộng tăng trưởng.
Như vậy, giải quyết mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường dưới góc nhìn quan hệ giữa cái chủ quan và cái khách quan đặt ra yêu cầu nhà nước phải căn cứ vào thực tiễn thị trường để ban hành các quy định phù hợp. Khi thị trường chưa phát triển, nhà nước cần hệ thống các quy định để tạo điều kiện cho thị trường phát sinh, phát triển nhà nước, không được phó mặc cho thị trường, hoặc can thiệp làm mà lệch các quan hệ thị trường. Vấn đề là phải có sự phối hợp tốt mua yếu tố khách quan của cơ chế thị trường và yếu tố chủ quan của quản lý nhà nước theo mục tiêu nhất định.
Thứ năm, quan hệ giữa các chủ thể trên thị trường
Giải quyết mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường cũng chính là bảo đảm cho các chủ thể trên thị trường hoạt động bình đẳng. Lúc này nhà nước với tư cách là một chủ thể trên thị trường cũng phải tuân thủ luật chơi theo cơ chế thị trường. Cơ chế thị trường là quá trình tương tác lẫn nhau nữa các chủ thể kinh tế trong việc hình thành giá cả, phân phối tài nguyên, xác định khối lượng và cơ cấu sản xuất. Sự tương tác của các chủ thể tạo nên những điều kiện nhất định để nhà sản xuất, với hành vi tối đa hóa lợi nhuận, sẽ căn cứ vào giả cả thị trường để quyết định ba vấn đề Sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? Sản xuất cho ai?
Tác động của cơ chế thị trường sẽ dẫn đến tình trạng một bộ phận yếu thế bị gạt ra khỏi cuộc chơi, mà bản thân nhà nước với chức năng xã hội cũng không bao trùm được hết. Chính vì vậy, trong giải quyết mối quan hệ giữa các chủ thể trên thị trường lúc này rất cần vai trò tham gia giám sát của xã hội, thậm chí xã hội tham gia cung cấp dịch vụ phi lợi nhuận. Như vậy, để giải quyết tốt mối quan hệ giữa các chủ thể trên thị trường rất cần vai trò của xã hội với tư cách là các tổ chức xã hội mang tính chất tự nguyện, phi lợi nhuận.
Thứ sáu, giữ quyết mối quan hệ giữa nhà nước và thể trường trong hoạt động kinh tế cụ thể như: việc phân bố nguồn lực, phân phối kết quả của tăng trưởng..
Để đạt được mục đích phát triển của mỗi quốc gia, nhà nước phải có quy hoạch và chiến lược phát triển, sử dụng các nguồn lực, bảo đảm làm sao để có sự tương thích giữa tăng trưởng với bảo vệ môi trường, sự khai thác phát triển ở gai đoạn này không làm ảnh hưởng đến sự phát triển của giai đoạn sau, nói cách khác phải bảo đảm sự phát triển bền vững. Trong khi đó, yêu cầu của tăng trưởng phải bảo đảm tính hiệu quả, hoạt động sản xuất phải có lợi nhuận, muốn vậy phải tuân thủ các quy luật kinh tế, sản xuất kinh doanh không thể không theo tín hiệu của thị trường, phải theo cơ chế thị trường. Như vậy, phân bố nguồn lực phải theo cơ chế thị trường song phải bảo đảm định hướng phát triển của quốc gia.
Phân chia các kết quả của tăng trưởng cũng cần có sự phối - kết hợp của nhà nước và thị trường trong quá trình phân phối để vừa bảo đảm động lực sản xuất, vừa giảm sự bất công bằng bảo đảm quyền con người. Cho nên, trong trao đổi, giá cả phải trên cơ sở thị trường và trong phân phối phải bảo đảm nguyên tắc thị trường trong phân phối lần đầu và nhà nước can thiệp trong tái phân phối để bảo đảm sự công bằng, bình đẳng, giảm phân hóa giàu - nghèo.
Như vậy, giải quyết mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường cần được xử lý ngay trong quá trình xác lập quy hoạch, chương trình và chính sách phát triển, trong quá trình sản xuất hàng hóa, dịch vụ, cũng như trong quá trình trao đổi, phân phối nguồn lực và kết quả sản xuất; đồng thời được giải quyết cả trong quá trình tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ được sản xuất ra.
[1] Xem them bài “Phân tích vai trò của nhà nước và thị trường trong nền kinh tế Việt Nam” trong cơ sở dữ liệu bồi dưỡng (Điệp đưa đường dẫn vào đây)