Thứ hai, 25 Tháng 10 2021 09:01

Phân tích mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường bằng mục tiêu và phương tiện

1. Khái quát

Nền kinh tế Việt Nam được cấu thành bởi hai thành tố là kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa. Hai thành tố này có quan hệ tương tác với nhau, phản ánh tính phổ biến, tính đặc thù và đòi hỏi phải giải quyết hài hòa mỗi quan hệ giữa phổ biến và đặc thù trong quá trình phát triển và quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Định hướng xã hội chủ nghĩa là mục tiêu của phát triển, phản ánh tính đặc thù của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.

Nền kinh tế thị trường ở Việt Nam là phương tiện, vừa phải được phát triển theo những quy luật khách quan của kinh tế thị trường, vừa phải được định hướng, điều tiết và giám sát cho phù hợp với bản chất và những nguyên tắc của một xã hội đang từng bước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Để bảo đảm định hướng xã nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam, hay nói cách khác, với việc xác định thị trường chỉ là phương tiện để đạt được mục tiêu của mình. Nhà nước đã điều tiết, định hướng thị trường vào những mục tiêu lớn sau:

- Phát triển kinh tế thị trường phải nhằm góp phần thực hiện mục tiêu phát triển đất nước là từng bước “quá độ lên chủ nghĩa xã hội, làm cho dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".

- Giải quyết tốt những mối quan hệ lớn trong quá trình thực hiện mục tiêu phát triển đất nước ở từng giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Đặt ra và nỗ lực giải quyết những mối quan hệ lớn, cấu thành những nguyên tắc phản ánh đặc thù quốc gia trong phát triển và quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đó là quan hệ hài hòa giữa đổi mới, ổn định và phát triển đất nước giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; giữa giữ vững độc lập, tự chủ trong phát triển và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, hợp tác phát triển; giữa tuân thủ tính quy luật và coi trọng tính đặc thù quốc gia trong phát triển kinh tế thị trường hiện đại, định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện phân bố thành quả tăng trưởng bảo đảm tạo động lực, công bằng và tiến bộ xã hội giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội, văn hóa, bảo vệ và làm giàu môi trường theo yêu cầu phát triển bền vững.

- Bảo đảm hiệu lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước pháp quyền Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình phát triển đất nước nói chung và phát triển kinh tế thị trường hiện đại.

Nhà nước pháp quyền Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một thành tố nội tại của mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đây là cái đặc thù, riêng có của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam và phản ánh sự khác biệt về bản chất so với những nền kinh tế thị trường khác trên thế giới. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước pháp quyền Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng có bản lĩnh và trí tuệ đồng thời cũng là nhân tố quan trọng nhất để bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam.

Để sử dụng kinh tế thị trường vào mục tiêu của mình, Nhà nước đã nỗ lực giải quyết những vấn đề mang tính phổ biến để hình thành nên kinh tế thị trường hiện đại gồm:

Hình thành đầy đủ và đồng bộ các loại thị trường, tôn trong các quy luật của thị trường và giải quyết hài hòa mỗi quan hệ giữa nhà nước - thị trường - doanh nghiệp; chủ động và tích cực hội nhập vào nên kinh tế toàn cầu và khu vực.

- Phát triển và quản lý có hiệu quả nền kinh tế thị trường hiện đại với những đặc trưng cơ bản, mang tính phổ biến đổi với tất cả các quốc gia, không phân biệt chế độ chính trị.

Ở góc độ khác: Nhà nước ta xác định phải kiên định theo định hướng chính trị của mục tiêu phát triển đất nước đã lựa chọn. Đó là nguyên tắc bất biến. Còn việc quyết định phương tiện để thực hiện mục tiêu thì phải căn cứ vào yêu cầu của thực tiễn và hiệu quả thực hiện, chứ không phụ thuộc vào những mong muốn kỳ vọng, chủ quan duy ý chí.

Trên thực tế, để đạt được mục tiêu như trên, việc giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường được thể hiện theo những xu hướng sau:

Thứ nhất, Nhà nước đã chuyển dần sang định hướng phát triển kinh tế đất nước thông qua các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế - xã hội.

Vai trò của Nhà nước trong định hướng phát triển kinh tế - xã hội đã ngày càng được đề cao và thực hiện nghiêm túc. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng đổi mới kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới năm 1986 đến nay, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội đã chuyển dẫn từ phương thức kế hoạch hoá tập trung trước đây sang kế hoạch định hướng.

Ngoài ra, Nhà nước cũng điều chỉnh mối quan hệ giữa ngắn hạn với trung hạn, dài hạn trong kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội. Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới, để phù hợp với tính định hướng của kế hoạch, Nhà nước đã xác định vai trò và vị trí quyết định trong hệ thống kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội là kế hoạch 5 năm, trong đó kế hoạch hằng năm là kế hoạch điều hành để thực hiện kế hoạch 5 năm.

Thứ hai, Nhà nước cung ứng hàng hoá công cộng, những hàng hoá và dịch vụ mà thị trường không cung ứng hay cung ứng không đầy đủ, đặc biệt là kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội. Đây là chức năng cơ bản nhất của Nhà nước trong các nền kinh tế thị trường nói chung, đặc biệt đối với Việt Nam nơi mà kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội được đánh giá là bị tụt hậu so với mức trung bình của các nước có thu nhập thấp. Đầu tư của Nhà nước vào kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội có cả ảnh hưởng tích cực lẫn tiêu cực đến tăng trưởng. Ảnh hưởng tiêu cực phát sinh do tình trạng lấn át tiết kiệm và đầu tư tư nhân thông qua việc thu thuế hay vay tiền trên thị trường vốn trong nước để tài trợ cho đầu tư vào kết cấu hạ tầng công cộng. Các ảnh hưởng tích cực xuất phát từ tác động của kết cấu hạ tầng công cộng lên tỷ suất sinh lợi và tiềm năng gia tăng tỷ lệ đầu từ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, được gọi là "ảnh hưởng khuyến khích". Các bằng chứng thực nghiệm cho thấy các "ảnh hưởng khuyến khích" này là rất lớn trong điều kiện hiện tại của Việt Nam.

Thứ ba, cung cấp các dịch vụ xã hội. Nhà nước luôn chú trọng tăng chi tiêu cho cả giáo dục, y tế, và các dịch vụ xã hội khác; đồng thời nỗ lực trong bảo đảm cho mọi người được bình đẳng trong việc tiếp cận với các dịch vụ đó. Chính phủ tham gia cung ứng các dịch vụ này do các dịch vụ này có ngoài ứng tích cực, tức là có lợi ích xã hội lớn hơn lợi ích cả nhân và khu vực tư nhân không thể cung cấp đầy đủ.

Hiện nay, Nhà nước thông qua cơ chế thị trường, đang chuyển sang khai thông tiềm năng của khu vực tư nhân, không phải với tư cách là một nguồn thay thế, mà là một nguồn bổ sung cho Nhà nước trong việc cung ứng kết cấu hạ tầng và các dịch vụ xã hội. Khu vực tư nhân có thể đóng góp theo hai cách. Một là, tư nhân có thể tham gia trực tiếp vào cung ứng dịch vụ kết cấu hạ tầng để Nhà nước tập trung vào những hoạt động có lợi thế so sánh. Hai là, khu vực tư nhân có thể đóng góp gián tiếp vào việc cung ứng kết cấu hạ tầng thông qua việc đóng thuế và Chính phủ sẽ dành một tỷ lệ lớn hơn trong ngân sách để đầu tư vào kết cấu hạ tầng và cung ứng các dịch vụ xã hội. Nếu không có một khu vực tư nhân lớn hơn, năng động hơn và có khả năng đóng thuế thì các nguồn thu của Chính phủ sẽ không thể đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng về các dịch vụ kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội.

Thứ tư, cung cấp một khung pháp lý đầy đủ, đồng bộ, nhất quán, minh bạch và vững chắc, không chỉ là một hệ thống luật lệ và quy định, mà còn bao hàm các định chế cần thiết để thực hiện, cưỡng chế việc thi hành pháp luật và giải quyết tranh chấp, bao gồm toà án, các cơ quan cưỡng chế thi hành luật. Khi Việt Nam chuyển sang kinh tế thị trường, phần lớn các giao dịch dựa trên hợp đồng. Khi những luật lệ quy định quyền sở hữu được rõ ràng và cơ chế cưỡng bức thi hành luật vận hành tốt thì chi phí hoạt động kinh doanh thấp hơn và thị trường vận hành hiệu quả hơn, qua đó Nhà nước cũng đạt được các mục tiêu phát triển của mình.

Thứ năm, quan tâm đúng mức đến việc xoá đói, giảm nghèo và cải tạo môi trường. Gắn phát triển kinh tế với bảo vệ tài nguyên, môi trường và cân bằng sinh thái để bảo đảm kinh tế phát triển bền vững. Phát triển kinh tế đi đối với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội để bảo đảm cho cả cộng đồng đều được lợi từ thành tựu phát triển chung của nền kinh tế, nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân cùng tham gia phát triển kinh tế. Đây cũng là một trong những mục tiêu mà Nhà nước muốn dẫn dắt thị trường đạt đến.

Thứ sáu, kiểm tra, giám sát các hoạt động kinh tế. Trong những năm qua, nội dung công tác kiểm tra, giám sát của Nhà nước chủ yếu hướng vào việc thực hiện luật pháp, cơ chế, chính sách của Nhà nước. Mục tiêu của công tác kiểm tra, giám sát là nhằm bảo đảm sự vận hành của nền kinh tế theo đúng quỹ đạo đã định; đồng thời phát hiện những khiếm khuyết, bất cập của các chính sách đã ban hành để có những điều chỉnh kịp thời.

Thứ bảy, tạo ra sân chơi bình đẳng cho các thành phần kinh tế. Trong trường hợp một nước chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường như Việt Nam, thị trường có thể hoạt động không hiệu quả bởi các rào cản do các chính sách của Nhà nước tạo ra. Vì vậy, Nhà nước đang nỗ lực loại bỏ rào cản làm méo mô thị trường thông qua thực hiện nhất quan chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, trong đó có cả kinh tế nhà nước, kinh tế tư nhân và kinh tế hỗn hợp, tạo ra một môi trường khuyến khích cạnh tranh và một sân chơi bình đẳng cho mọi cá nhân, tổ chức không phân biệt thành phần kinh tế và hình thức sở hữu trong việc sử dụng các nguồn lực phát triển, lựa chọn việc làm và tham gia vào các hoạt động kinh doanh.

2. Một số vấn đề đặt ra trong giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường

Mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường là vấn đề luôn được quan tâm trong tiến trình phát triển nền kinh tế thị trường.

Phát triển kinh tế thị trường, một mặt, tạo ra sự phát triển kinh tế - xã hội; mặt khác, hàm chứa những khuyết tật như làm gia tăng tính bất ổn của xã hội, khoét sâu khoảng cách giàu - nghèo. Vì vậy, việc phát huy vai trò của Nhà nước như là một chủ thể xã hội sáng tạo và có năng lực để quản lý các quá trình kinh tế vĩ mô, nhằm hạn chế những khuyết tật của thị trường, đáp ứng yêu cầu phát triển trở nên ngày càng quan trọng. Việc giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã có một số kết quả và hạn chế như phần trên đã đề cập, tuy nhiên trong quá trình giải quyết mối quan hệ này cũng đã và đang đặt ra một số vấn đề cần được quan tâm giải quyết. Đó là những vấn đề cơ bản sau:

2.1. Về tính rõ ràng và thống nhất của sở hữu nhà nước và sở hữu toàn dân;

- Về tính rõ ràng và thống nhất của sở hữu (Nhà nước và toàn dân).

Ở nước ta, sở hữu nhà nước đóng vai trò nền tảng, là phạm trù kinh tế để chỉ một hình thức sở hữu mà chủ sở hữu là Nhà nước và đối tượng sở hữu là toàn bộ của cải vật chất thuộc chủ quyền của một quốc gia. Ở Việt Nam hiện nay, sở hữu nhà nước được hiểu là sở hữu toàn dân mà Nhà nước là đại diện. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và trong giai đoạn xã hội chủ nghĩa chỉ mới có sở hữu nhà nước. Nhà nước đại diện cho toàn dân sở hữu tài nguyên thiên nhiên, của cai, tài sản, tư liệu sản xuất, vốn, ngân sách nhà nước..., của toàn dân, của toàn xã hội. Tuy nhiên, quan niệm về sở hữu nhà nước, sở hữu toàn dân vẫn chưa đạt được sự thống nhất. Theo tổng kết[1] thì hiện tại vẫn tồn tại bốn loại ý kiến khác nhau:

Ý kiến thứ nhất cho rằng, đây là hai khái niệm mặc dù tên gọi khác nhau nhưng thống nhất và đồng quy với nhau.

Ý kiến thứ hai cho rằng, có sự khác nhau giữa sở hữu toàn dân và sở hữu nhà nước, nhưng trong thời kỳ phát triển hiện nay của nước ta, chỉ nên sử dụng khái niệm sở hữu nhà nước là đủ, còn sở hữu toàn dân chưa có điều kiện thực hiện.

Ý kiến thứ ba cho rằng, sở hữu toàn dân hoàn toàn khác với sở hữu nhà nước[2].

Ý kiến thứ tư, vừa muốn phân biệt sở hữu toàn dân với sở hữu nhà nước, nhưng lại vừa muốn đồng nhất chúng.

Các quy định pháp luật của Việt Nam cũng chưa rõ ràng và thống nhất trong việc đề cập tới sở hữu nhà nước và sở hữu toàn dân.

Hiến pháp năm 2013 (Điều 53) quy định: Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển,vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản cộng thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý.

Điều 54 Hiến pháp năm 2013 quy định:

- Đất đai là tài nguyên đặc biệt của quốc gia, nguồn lực quan trọng phát triển đất nước, được quản lý theo pháp luật.

- Tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất. Người sử dụng đất được chuyển quyền sử dụng đất, thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định của luật. Quyền sử dụng đất được pháp luật bảo hộ.

- Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân đang sử dụng trong trường hợp thật cần thiết do luật định vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Việc thu hồi đất phải công khai, minh bạch và được bồi thường theo quy định của pháp luật.

- Nhà nước trưng dụng đất trong trường hợp thật cần thiết do luật định để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh hoặc trong tình trạng chiến tranh, tình trạng khẩn cấp. phòng, chống thiên tại.

- Về mối quan hệ giữa các chủ thể gắn với sở hữu nhà nước.

Mối quan hệ giữa chủ sở hữu là Nhà nước với các chủ thể sử dụng là các doanh nghiệp hoặc các tổ chức sự nghiệp sử dụng tài sản của Nhà nước, tổ chức và cá nhân (đối với đất đai) là mối quan hệ đặc biệt.

Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ nếu trên phải được xử lý trên cơ sở pháp luật là nền tảng, kết hợp với hình thức hợp đồng (khế ước). Luật Đất đai và Luật Doanh nghiệp nhà nước đã thể hiện khá rõ quan điểm này. Tuy nhiên, trên thực tế, để bảo đảm thực hiện có hiệu quả sở hữu nhà nước, một mặt, vẫn cần tiếp tục hoàn thiện, cụ thể hóa các luật về sở hữu nhà nước, mặt khác, phải khắc phục tình trạng lạm dụng quyền lực để vụ lợi cá nhân trong sử dụng sở hữu nhà nước. Nhiều nội dung cụ thể cần tiếp tục chú trọng hoàn thiện như thể chế sở hữu, thể chế quyền tài sản, quyền hạn, trách nhiệm của các chủ thể kinh tế gắn liền với các quyền tài sản. Đây là những vấn đề còn chậm được tổng kết và hoàn thiện. Trách nhiệm giải trình của các chủ thể kinh tế trong việc sử dụng nguồn lực vốn, tài nguyên chưa rõ ràng.

2.2. Quá trình phát triển các thành phần kinh tế và các loại hình doanh nghiệp

Một là, mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường dưới góc độ môi trường kinh doanh.

Vấn để giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường đối với việc phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang ngày càng được quan tâm ở Việt Nam. Nhìn chung, việc giải quyết mối quan hệ này thể hiện thông qua nhiều khía cạnh như: tạo dựng môi trường thuận lợi hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp, doanh nghiệp đổi mới sáng tạo; bảo đảm quyền kinh doanh, quyền bình đẳng tiếp cận nguồn lực và cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp…

Mặc dù có nhiều nỗ lực trong việc bảo đảm môi trường. kinh doanh thuận lợi, minh bạch, nhưng vẫn còn nhiều vấn đề cần được tiếp tục điều chỉnh:

Việc triển khai thực hiện đấu thầu qua mạng nhằm công khai, minh bạch các dự án mua sắm công, tạo cơ hội tham gia của doanh nghiệp (đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa) chưa bảo đảm lộ trình theo yêu cầu. Rất nhiều bộ ngành, địa phương không thực hiện gói thầu nào qua mạng. các đơn vị còn lại có thực hiện, nhưng tỷ lệ rất thấp.

- Về tiếp cận đất đai, vấn đề tiếp cận đất sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp còn rất nhiều khó khăn, đặc biệt là doanh nghiệp trong nước. Việc tiếp cận mặt bằng sản xuất kinh doanh trong các khu, cụm công nghiệp còn rất nhiều khó khăn do giá thuê cao, diện tích cho thuê lớn so với nhu cầu của doanh nghiệp. Pháp luật về đất đai và pháp luật đấu thầu hiện hành chưa phân biệt rõ các trường hợp đấu thầu dự án có sử dụng đất và các trường hợp đấu giá sử dụng đất, dẫn đến các địa phương gặp khó khăn trong quá trình thực hiện.

- Trong lĩnh vực khoa học - công nghệ, một số nghị định về kiểm định, hiệu chuẩn, thử nghiệm phương tiện đo lường, chuẩn do lưỡng... đã được ban hành; một số quy định về điều kiện đầu tư, kinh doanh trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Khoa học và Công nghệ và một số quy định về kiểm tra chuyên ngành đã được sửa đổi, bổ sung, tuy nhiên, vẫn còn khó khăn trong tiếp cận thử nghiệm sản phẩm tại các phòng thí nghiệm trọng điểm này.

- Về hỗ trợ giảm lãi suất của các ngân hàng thương mại: Lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng còn ở mức cao, việc tiếp cận vốn vay còn nhiều khó khăn, thủ tục cho vay rườm rà, thời gian kéo dài.

Việc thế chấp quyền sử dụng đất để vay vốn ngân hàng và huy động vốn dài hạn của các doanh nghiệp thử cấp gặp một số khó khăn, cụ thể là một số nhà đầu tư, kinh doanh kết cấu hạ tầng khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu chế xuất đã thu tiền thuê lại đất của doanh nghiệp nộp một lần cho cả thời gian thuê nhưng không nộp vào ngân sách nhà nước làm ảnh hưởng đến quyền thế chấp để vay vốn ngân hàng.

Năng lực nói chung của doanh nghiệp, đặc biệt các doanh nghiệp nhỏ và vừa khu vực tư nhân còn nhiều hạn chế do: quản trị tài sản yếu kém, sổ sách không minh bạch dẫn đến thiếu độ tin cậy để các ngân hàng yên tâm cho vay. Bất cập trong việc giảm chi phí kinh doanh cho doanh nghiệp. Còn một số tồn tại trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp.

Hai là, phát triển các thành phần kinh tế và các hình thức tổ chức kinh doanh, nhất là doanh nghiệp nhìn từ tác động tương hỗ giữa Nhà nước và thị trường.

Chủ trương xuyên suốt và nhất quán của Đảng và Nhà nước ta là phát triển nền kinh tế nhiều thành phần với sự bình đẳng của các thành phần kinh tế. Mỗi thành phần kinh tế đều giữ vị trí, vai trò, chức năng riêng trong tổng thể nên kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Khu vực kinh tế tư nhân đóng góp trên 40% GDP của nền kinh tế và đang có dấu hiệu tăng lên nhờ tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh hơn tốc độ tăng trường chung của cả nền kinh tế. Tuy nhiên, chúng ta vẫn chưa giải phóng triệt để tiềm lực, thể mạnh của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế, thiếu các doanh nghiệp từ nhân đủ mạnh để vươn ra hội nhập quốc tế.

Đối với khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, mục tiêu thu hút công nghệ cao, công nghệ nguồn và chuyển giao công nghệ thông qua thu hút đầu tư nước ngoài chưa đạt được như kỷ vọng, tỷ lệ các dự án FDI công nghệ thấp và việc thực hiện chuyển giao công nghệ cũng chưa đạt kết quả như mong muốn. Hiệu ứng lan tỏa, tính liên kết của khu vực đầu tư nước ngoài đối với khu vực trong nước chưa cao. Trong khi đó, một số dự án được cấp phép nhưng chưa bảo đảm tính bền vững, tiềm ẩn nguy cơ gây ô nhiễm môi trường, tiêu tốn năng lượng, sử dụng nguồn tài nguyên không hiệu quả. Ngoài ra, một số doanh nghiệp còn hạn chế về kiến thức, sự am hiểu pháp luật của Việt Nam, kinh nghiệm quản lý và trách nhiệm đối với xã hội, chưa tự giác tuân thủ pháp luật. chưa bảo đảm quyền lợi của người lao động, ít quan tâm đến việc xây dựng quan hệ lao động hài hòa; chưa giải quyết dứt điểm những tồn đọng về nợ thuế, nợ bảo hiểm xã hội.

Đối với khu vực kinh tế nhà nước, cơ chế, chính sách cho doanh nghiệp nhà nước và hoạt động của doanh nghiệp nhà nước cũng đã bộc lộ hạn chế, bất cập, tập trung vào các vấn đề sau:

Việc quản lý, sử dụng vốn, tài sản: phản công, phân cấp thực hiện các quyền, trách nhiệm của đại diện chủ sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước có chế giám sát công khai, minh bạch hoạt động đầu tư và quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp.

- Phạm vi đầu tư vốn nhà nước vào các ngành, lĩnh vực then chốt, địa bàn kinh tế khó khăn gắn với an ninh, quốc phòng và bảo đảm chủ quyền quốc gia còn hạn chế. Ngoài ra, một số ngành, nghề sản xuất kinh doanh được doanh nghiệp nhà nước giữ thị phần lớn nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế.

- Cơ chế giám sát và chế tài xử lý các hành vi vi phạm đổi với doanh nghiệp nhà nước cũng có phần chưa đồng bộ, việc quản lý giám sát của đại diện chủ sở hữu nhà nước chưa nghiệm nên tính tuân thủ pháp luật về chế độ tài chính, công khai thông tin, báo cáo của doanh nghiệp nhà nước chưa cao, chưa được chú trọng và quan tâm.

Đối với khu vực sự nghiệp công, có thể thấy hiện nay ở nước ta, khu vực sự nghiệp công còn chiếm quy mô lớn, chưa vận hành theo kinh tế thị trường, còn bao cấp lớn từ Nhà nước. Khu vực sự nghiệp được tổ chức đa dạng, với nhiều nhiệm vụ và loại hình khác nhau. Cả nước hiện có khoảng 58.000 đơn vị sự nghiệp công lập, với 2,5 triệu biên chế, chưa kể đến tổ chức, biên chế của các đơn vị sự nghiệp công lập trong công an, quân đội và khu vực doanh nghiệp nhà nước, cung cấp hầu hết dịch vụ sự nghiệp công và thực hiện chính sách an sinh xã hội, và hoạt động trong nhiều lĩnh vực như y tế, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, văn hóa, thể dục - thể thao... Tuy nhiên, khu vực sự nghiệp công còn tồn tại nhiều bất cập:

Hệ thống các đơn vị sự nghiệp công lập còn công kênh, dàn trai phân tán, mạnh mún, quá nhiều dầu mối quy mô nhỏ, chồng chéo nhiệm vụ, chứa tinh gọn và chưa phù hợp với thực tiễn phát triển của đất nước hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập còn thấp, thậm chí một số đơn vị thua lỗ, thất thoát, lãng phí. Trong một số lĩnh vực, số lượng đơn vị sự nghiệp công lập tự chủ toàn diện còn ít, mức đó tự chủ thấp. Bước chuyển của các đơn vị sự nghiệp công lập vẫn còn trong tình trạng nửa bao cấp, nửa thị trường.

- Hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước đối với các đơn vị sự nghiệp công lập chưa cao, chưa tách bạch rõ giữa chức năng quản lý nhà nước với chức năng cung ứng dịch vụ của đơn vị sự nghiệp công lập; còn có sự bao cấp lớn từ phía Nhà nước, đầu tư phân tán, kém hiệu quả.

- Cơ chế tài chính của khu vực sự nghiệp công còn nhiều bất cập: các dịch vụ sự nghiệp công được ngân sách nhà nước bảo đảm kinh phí còn rất rộng. Việc triển khai lộ trình tính đủ chi phí trong giá dịch vụ sự nghiệp công còn khó khăn. Cơ chế phân bổ, quản lý, sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước về cơ bản vẫn thực hiện theo yếu tố đầu vào và theo biên chế đầu tư phân tán, dàn trải chưa gắn với số lượng, chất lượng sản phẩm, dịch vụ; việc sử dụng tài sản công còn phân tản, lãng phí, hiệu quả thấp.

2.3. Nhà nước kiến tạo phát triển và phục vụ - Vấn đề đặt ra giữa yêu cầu thực tế và năng lực hiện nay của Nhà nước

Việt Nam đang hướng tới xây dựng một Nhà nước kiến tạo phát triển, nhưng khoảng cách giữa nói và làm vẫn còn xa nhau...

Hoạt động đầu tư công của Nhà nước chưa đủ sức “dẫn dắt" cho đầu tư của tư nhân trên thị trường. Công tác khảo sát, lập dự án đầu tư còn sơ sài, thiếu chính xác, chưa phản ảnh đúng thực tế địa hình, địa chất công trình dẫn tới phải điều chỉnh, bổ sung trong quá trình thực hiện dự án làm tổng mức đầu tư của dự án thay đổi. Hệ thống pháp luật quản lý đầu tư công chưa hoàn chỉnh và đồng bộ, thiếu các chế tài và biện pháp quản lý, giám sát, nên đã phát sinh nhiều tồn tại hạn chế đầu tư còn dàn trải, phản tán, kế hoạch đầu tư bị cắt khúc ra từng năm, hiệu quả đầu tư kém.

Một yếu tố khác cần xét tới trong việc giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường đối với vấn đề xây dựng nhà nước kiến tạo phát triển và phục vụ đó là thực hiện chức năng cung ứng dịch vụ công. Nhìn chung, chức năng dịch vụ công vẫn chưa tách khỏi quản lý hành chính nhà nước, tình trạng quan liệu còn nặng nề. Hệ thống cung ứng dịch vụ công chưa thật sự trở thành khách hàng phục vụ doanh nghiệp và người dân.

Cơ chế, chính sách đầu tư, thu hút các nguồn lực của xã hội để phát triển các cơ sở dịch vụ công ngoài công lập chưa đủ mạnh; các chính sách đòn bẩy kinh tế như thuế, tín dụng, đất đai, chế độ tiền lương, bảo hiểm xã hội chưa được triển khai thực hiện đồng bộ và nhất quán để thúc đẩy sự phát triển của hệ thống các cơ sở dịch vụ ngoài công lập.

Nhiều tỉnh, thành phố trong 63 tỉnh, thành phố của cả nước đã đặt ra mục tiêu xây dựng chính quyền thân thiện và trách nhiệm. Tuy nhiên, theo ý kiến của nhiều chuyên gia, chính quyền thân thiện không chỉ là công chức bắt đầu nói lời “cảm ơn, xin lỗi", mà trước tiên phải bắt đầu từ thay đổi nhận thức của từng mắt xích trong bộ máy. Mỗi cán bộ, công chức phải coi mình là người đi làm thuê cho Nhà nước, mà Nhà nước là của nhân dân, từ đó hết lòng phục vụ nhân dân. Để làm được điều này, cũng đang là vấn đề đặt ra hiện nay.

 


[1] Xem Sở hữu nhà nước, doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (Giai đoạn 2001– 2005). Đề tài KX.01.02.

[2] Xem Nguyễn Cúc - Kim Văn Chính (Chủ biên): Sở hữu nhà nước và doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2006.

Đăng ký nhận email

Đăng ký email để có thể có được những cập nhật mới nhất về tải liệu được đăng tải trên website

Tập san đã phát hành