Thứ ba, 26 Tháng 10 2021 09:05

PHÂN TÍCH XU HƯỚNG GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÀ NƯỚC VÀ THỊ TRƯỜNG TRONG NỀN KINH TẾ SỐ HỘI NHẬP PHÁT TRIỂN

1. Cơ cấu lại nền kinh tế thế giới sau khủng hoảng tài chính và khủng hoảng nợ công

Giải quyết mối quan hệ giữa nhà nước với thị trường là vấn đề cơ bản của mọi chủ thuyết phát triển, thường được đặt ra cấp bách trong tình huống kinh tế trì trệ hoặc khủng hoảng. Khi khủng hoảng kinh tế người ta thường tìm khuyết tật của thị trường, còn khi kinh tế trì trệ lại đổ lỗi cho nhà nước. Khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 - 1933 đã thách thức vai trò của thị trường tự do, buộc các nước tuyệt đối hóa thị trường cũng phải nhượng bớt tự do để nhà nước can thiệp sâu hơn vào thị trường. Trong bối cảnh đó, sau Chiến tranh thế giới thứ hai, mô hình kinh tế phi thị trường kiểu Xô-viết và việc gia tăng sở hữu nhà nước ở các nước theo chủ thuyết "thị trường xã hội" có lúc bị ngộ nhận là giải pháp tối ưu để khắc phục khủng hoảng chu kỳ. Rồi tình trạng trì trệ của các mô hình kinh tế thị trường xã hội, cộng với khủng hoảng dầu mỏ thập niên 1970, đã thúc đẩy sự ra đời chủ nghĩa tự do mới (neo-capitalism) vào đầu thập niên 80 của thế kỷ XX. Sau khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ thị trường tự do tháng thế, cộng hưởng với thành tựu của cách mạng khoa học và công nghệ, đã tạo động lực mới cho tăng trưởng kinh tế thế giới trong suốt thập niên 90 của thế kỷ XX và những năm đầu thế kỷ XXI. Nhưng cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính thế giới và khủng hoảng nợ công hơn thập niên qua được xem là khủng hoảng cơ cấu của chủ nghĩa tự do môi, buộc các chính thể phải điều chỉnh, gia tăng vai trò của nhà nước trong nên kinh tế thị trường hiện đại.

Các nước theo chủ nghĩa tự do mới đã linh hoạt hơn khi sử dụng chính sách tài khóa và chính sách tín dụng để giải cứu hệ thống ngân hàng khỏi sụp đổ, ổn định kinh tế vĩ mô, lấy lại đà tăng trưởng, giải quyết việc làm, cải thiện thị trường “đầu vào", đầu tư nhiều hơn cho đổi mới sáng tạo, khoa học và công nghệ để tạo nền chu kỳ tăng trưởng mới. Trong khủng hoảng kinh tế, tầng lớp yếu thế chịu nhiều thua thiệt, có nguy cơ gây nên xung đột xã hội, các chính phủ tung ra nhiều gói dịch vụ hỗ trợ phát triển xã hội sử dụng ngân sách và khuyến khích tư nhân đầu tư nhiều hơn cho phát triển dịch vụ xã hội phi lợi nhuận. Các nước theo mô hình nhà nước phúc lợi, như khu vực Bắc Âu vẫn tiếp tục khẳng định vai trò của thị trường nhưng đã điều chỉnh các phương thức can thiệp của nhà nước đối với thị trường. Nếu như các thập niên trước đây tuyệt đối hóa vai trò của thuế lũy tiến để phân phối lại thu nhập gây nên trì trệ trong quá trình phát triển, thì nay đã chuyển sang đầu tư mạnh cho giáo dục để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, hỗ trợ tín dụng lãi suất thấp để kích thích đầu tư; hạn chế đánh thuế lũy tiến và thuế kế thừa tài sản để doanh nghiệp có nguồn lực tái đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh trong nước. Nhiều dịch vụ công do nhà nước làm chủ sở hữu trực tiếp tổ chức cung ứng, được chuyển giao cho tư nhân, mở rộng hình thức đối tác công tư (PPP) để năng động hóa hoạt động cung ứng dịch vụ công. Các nguyên tắc của thị trường được áp dụng trong quan trị công, kể cả quản trị chính phủ, khắc phục các trì trệ trong nhiều thập niên trước đây do duy trì quy mô sở hữu nhà nước quá lớn và kéo dài quá lâu hệ thống phúc lợi xã hội miễn phí.

Trung Quốc trở thành “quốc gia trỗi dậy" trong khi chủ nghĩa tư bản lâm vào khủng hoảng, trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, dựa trên phát huy vai trò của nhà nước và thị trường, lấy công hữu làm cơ bản. Trung Quốc xác định thị trường đóng vai trò quyết định trong phân bổ nguồn lực, tự do hồn giá cả, áp dụng linh hoạt các hình thức điều tiết, can thiệp của nhà nước đối với thị trường. Để hạn chế tác động tiêu cực của khủng hoảng kinh tế – tài chính năm 2008, Trung Quốc sử dụng nguồn ngoại tệ dự trữ dồi dào của mình để kích cầu, tăng tốc phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế phục vụ cho hiện đại hóa trong nước và mở rộng quyền lực ra thế giới. Mặt trái của chính sách này là gây nên tình trạng tham nhũng, lợi ích nhóm, tranh giành cơ hội tiếp cận các nguồn đầu tư công béo bở. Vì thế, Chính phủ Trung Quốc gần đây chuyển sang sử dụng linh hoạt chính sách tài khóa, nhất là miễn, giảm thuế cho khu vực cần thúc đẩy khởi nghiệp, mở rộng đầu tư, tạo việc làm, thúc đẩy tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng và đánh thuế rất nặng đối với các công trình gây ô nhiễm môi trường, chậm đổi mới công nghệ.

Trong thời đại ngày nay, hầu hết các quốc gia đều ra sức tận dụng thành tựu của cách mạng khoa học và công nghệ để đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao sức cạnh tranh trên cả ba cấp độ: sản phẩm, doanh nghiệp và quốc gia. Vai trò của nhà nước càng được đề cao trong đào tạo nguồn nhân lực, xây dựng các trung tâm khoa học - công nghệ đầu tư mạo hiểm, xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích doanh nghiệp đổi mới sáng tạo. Dù là mô hình thị trường tự do như Mỹ hay mô hình kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa như Trung Quốc đều coi trọng thúc đẩy phát triển khoa học - công nghệ, huy động nguồn lực lớn hơn đầu tư cho phát triển khoa học - công nghệ, ra sức bảo hộ tài sản trí tuệ, khiến cho cạnh tranh công nghệ trở thành một nội dung trọng yếu trong cạnh tranh chiến lược giữa các quốc gia.

2. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và nền kinh tế số

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (Cách mạng 4.0) đang diễn ra mạnh mẽ, ngày càng trở thành một xu hướng lớn của thế giới, thậm chí có quan điểm cho rằng các nước G7 đang chuyển từ chủ nghĩa tư bản tài chính (Financial Capitalism) sang chủ nghĩa tư bản kỹ thuật số (Digital Capitalism). Trong nền kinh tế tri thức, kinh tế số, hình thức biểu hiện của tài sản không chỉ là khối hàng hóa khổng lồ, nhà máy đồ sộ, công xưởng quy mô, mà là các chứng khoán, các giấy tờ định giá thương hiệu, sở hữu trí tuệ, tài nguyên số... được lưu hành trên thị trường tài chính. Của cải có thể tồn tại dưới dạng động sản, bất động sản trên các không gian địa lý hoặc không gian mạng, song giá trị thực của chúng lưu thông, vận động không bao giờ gián đoạn trên các thị trường tài chính, mà chủ tư bản kỹ thuật số luôn tìm cách nắm lấy và nhà nước xem đây là đối tượng trọng yếu cần can thiệp, điều chỉnh trong nền kinh tế thị trường. Các chính phủ hiện đại thực hiện chức năng kinh tế chủ yếu không chỉ bằng nắm quyền sở hữu hiện vật (tư liệu sản xuất), mà bằng các công cụ tài khóa và tín dụng, bằng nắm bắt và điều chỉnh các chỉ số đo đạc sức khỏe nền kinh tế được phản ánh trên thị trường chứng khoán. Các quốc gia không muốn tụt hậu đều tìm cách tận dụng thành tựu của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư để đổi mới mô hình tăng trưởng, phát triển rút ngắn, xây dựng các “quốc gia thông minh", bổ sung những đặc trưng mới vào nhà nước và thị trường, nhất là chính phủ số và thị trường số, gắn với nó thì tương quan giữa nhà nước và thị trường phải được cơ cấu lại.

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (Dữ liệu lớn, Trí tuệ nhân tạo, Internet kết nối vạn vật, Người máy thế hệ mới, chuỗi số khối, In 3D..) đang làm thay đổi căn bản các quan niệm về tài sản, phương thức sản xuất và tiêu dùng, thị trường trong nước và thị trường quốc tế, giữa phế thải và tài nguyên, giữa nông nghiệp - công nghiệp và dịch vụ, giữa thực và "ảo", giữa con người và máy móc, giữa an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống. Tài sản vô hình trong nền kinh tế số ngày càng chiếm tỷ trọng lớn, trở thành giá trị sử dụng chung của toàn nhân loại khi được lưu trữ, vận hành, phân phối, tiêu dùng trên không gian mạng xuyên biên giới. Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trở thành mối quan tâm của các nhà nước nhằm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Bảo vệ chủ quyền quốc gia trên không gian mạng và quản lý các hoạt động chia sẻ tri thức, mua bán tài sản “ảo”, truyền bá thông tin xuyên biên giới,... trở thành thách thức của mọi nhà nước. Các nước xây dựng hệ thống mạng Internet cho riêng mình có khả năng tốt hơn trong bảo vệ chủ quyền quốc gia trên không gian mạng nhưng lại cản trở việc chia sẻ giá trị sử dụng tài nguyên số giữa các nước. Người máy thế hệ mới ra đời khiến cho nhiều ngành kinh tế truyền thống bị “khai tử", những ngành, nghề mới ra đời, giải quyết tình trạng thất nghiệp và đào tạo lại nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động kỹ thuật số trở thành thách thức lớn. Điều này đòi hỏi các chính phủ và doanh nghiệp phải tư duy lại về mô hình và phương thức đào tạo, cung ứng nguồn nhân lực, giải quyết các nan giải xã hội, đổi mới hệ thống an sinh xã hội. Khoảng cách giữa nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ ngày càng rút ngắn khi số hóa các lĩnh vực sản xuất, lưu thông, phân phối, cả hoạt động kinh tế "đầu vào" và "đầu ra", thậm chí trong tương lai gắn sẽ không còn ngành nông nghiệp truyền thống, mà đó là ngành công nghiệp nông nghiệp.

Trong Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, kỹ thuật số được ứng dụng phổ biến trong mọi ngành kinh tế, thậm chí định hình cả nền kinh tế số. Kinh doanh điện tử phát triển nhanh, từ thương mại điện tử, quảng cáo trực tuyến, giải trí, giao thông vận tài đến phân phối, bán buôn, bán lẻ. Doanh nghiệp kỹ thuật số không cần nhà máy, công xưởng đồ sộ, lao động đông đảo, mà nguồn tài nguyên sử dụng chung và chỉ trong thời gian ngắn đã tích tụ, tập trung tư bản nhanh chóng. Các tập đoàn tư ban hoạt động trong lĩnh vực kinh tế số như Facebook, Google... hay xuất bản trực tuyến như Amazon... hay vận tải như Uber, Grab, hay giải trí như Netflix, Pinterest... hay bán buôn, bán lẻ như Lazada, Tiki, Shopee.. chỉ trong thập niên qua đã phát triển thành các tập đoàn với lượng vốn bằng các tập đoàn công nghiệp tích tụ hàng chục, hàng trăm năm trước đây. Ra đời và vận hành của nền kinh tế số tạo nên thị trường mạng toàn cầu, ông chủ nằm ở quốc gia này nhưng điều khiển mạng lưới ở quốc gia khác; tài nguyên số và hạ tầng số được chia sẻ, sử dụng chung cả ở cấp độ quốc gia và toàn cầu, hình thành nền kinh tế chia sẻ (hạ tầng và tài nguyên số sử dụng chung); khiến các nhà nước phải giải quyết mâu thuẫn, xung đột giữa duy trì các ngành, nghề truyền thống với phát triển những ngành, nghề mới, mà các vụ kiện giữa các hãng taxi truyền thống và Grab thời gian qua là một ví dụ. Rồi bảo vệ quyền tài sản trong nền kinh tế số cũng có vô vàn vấn đề đặt ra mà hệ thống thể chế thường có độ trẻ so với thực tiễn vận động nhanh chóng. Nền kinh tế số khiến cho giá trị được tạo ra không chỉ ở các yếu tố đầu vào của thị trường (lao động, tài nguyên...) mà cả ở khả năng của kết nổi, chia sẻ của khách hàng trong khâu tiêu dùng; tài nguyên số không bị cạn kiệt nhưng lại nhanh chóng bị lạc hậu trước xã hội thông tin, nếu không ngừng đổi mới sáng tạo.

Bắt đầu từ lĩnh vực kinh tế, kỹ thuật số ngày càng được ứng dụng rộng rãi vào các lĩnh vực khác của đời sống, gọi là xã hội số chính phủ số đô thị thông minh, nông nghiệp thông minh... Trung Quốc đang chuyển mạnh sang xã hội số với việc sử dụng kỹ thuật số để quản lý xã hội. Các nước có tầm nhìn đều đầu tư lớn cho phát triển mạng Internet thế hệ thứ 5 (5G), xây dựng chính phủ số, thúc đẩy liêm chính, tăng cường trách nhiệm giải trình, tạo môi trường cho doanh nghiệp tiếp cận thông tin một cách bình đẳng. Đô thị là nơi tập trung mật độ lớn các doanh nghiệp - chủ thể của kinh tế thị trường - việc xây dựng đô thị thông minh không chỉ tạo cầu cho khởi nghiệp, mở mang các ngành, nghề thuộc lĩnh vực kinh tế sáng tạo, mà còn làm cho quản lý đô thị hiệu quả hơn, nhất là quản lý giao thông, dân cư, an ninh, trật tự.

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư còn làm thay đổi cả triết lý kinh doanh của doanh nghiệp lẫn tư duy quản trị kinh tế của chính phủ khi những thứ trước đây được xem là hàng hóa công tưởng chừng vô hạn, sử dụng miễn phí như nước, không khí, ánh sáng đều trở thành đối tượng sản xuất kinh doanh, do bùng nổ dân số quá sức chịu tải của tự nhiên, tình trạng ô nhiễm môi trưởng ngày càng nặng nề, an ninh con người bị đe dọa. Với thành tựu của cách mạng khoa học và công nghệ cũng như nhu cầu khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường và ứng phó với tình trạng khan hiếm tài nguyên, nền kinh tế tuần hoàn và công nghiệp môi trường trở thành một xu hướng mới mà ở đó các thứ trước đây được xem là rác thải, phế phẩm lại trở thành nguyên liệu đầu vào cho tái chế như: nước thải là nguồn cung cấp cho sản xuất nước sạch, rác thải có thể chế thành phân bón hoặc nguyên liệu cho các ngành sản xuất khác... Đó là một vòng tròn khép kín từ sản xuất, phân phối, tiêu dùng rồi lại tái chế, sử dụng, khác biệt hoàn toàn với nền kinh tế tuyến tính gây ô nhiễm môi trường, lãng phí tài nguyên. Cách mạng khoa học và công nghệ cũng khiến cho mỗi đô thị, mỗi căn hộ chung cư, hộ gia đình, từ chỗ chỉ là đơn vị tiêu thụ thành các đơn vị mang thêm cả chức năng sản xuất khi được giáo dục tốt ý thức phân loại rác thải, khi lắp đặt các hệ thống lấy ánh sáng mặt trời để sản xuất điện năng, tận dụng chất thải sinh hoạt để tạo khí đốt dân dụng. Điều đó thúc đẩy hình thành ngành công nghiệp môi trường, nhiều dịch vụ thuần công chuyển thành dịch vụ công giá trị gia tăng, khiến cho nhà nước phải không ngừng hoàn thiện thể chế quản lý để thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tạo động lực mới cho tăng trưởng kinh tế.

Tất cả những vấn đề nêu trên tạo ra ngành, nghề, hàng hóa - dịch vụ mới, thị trường mới, những mô hình tổ chức sản xuất, kinh doanh, phân phối, tiêu dùng mới... đòi hỏi nhà nước không còn là cái bóng của thị trường, theo đuổi thị trường, mà các nước chậm phát triển muốn đi tắt, đón đầu các cơ hội, vượt qua các thách thức, càng phải chú trọng xây dựng nhà nước kiến tạo phát triển.

3. Tự do hóa theo các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới đi đôi với gia tăng chủ nghĩa bảo hộ

Tự do hóa theo các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới là xu hướng không thể đảo ngược, diễn ra mạnh mẽ, lôi cuốn hầu hết các quốc gia tham gia. Bên cạnh đó, những năm gần đây, chủ nghĩa bảo hộ lại gia tăng ở các mức độ khác nhau, đe dọa đến toàn cầu hóa và chủ nghĩa đa phương đã định hình và phát huy tác dụng trong nhiều thập kỷ qua. Chủ nghĩa bảo hộ được nói nhiều với trường hợp Tổng thống D. Trump, chính xác là sử dụng chủ nghĩa bảo hộ làm công cụ, phương tiện để viết lại luật lệ thương mại quốc tế phục vụ cho toàn cầu hóa kiểu Mỹ, khi các luật lệ cũ không còn có lợi cho Mỹ. Còn Trung Quốc, nước vốn được hưởng lợi từ luật lệ cũ, nên về mặt hình thức, ra sức cổ vũ cho tự do hóa thương mại đa phương, nhưng cũng sử dụng vai trò của nhà nước để can thiệp vào thị trường, tỷ giá làm méo mó thị trường, thực hiện các biện pháp bảo hộ tinh vi.

Bản chất sâu xa của các trường phái ủng hộ tự do hóa hay bảo hộ cũng xoay quanh vấn đề sử dụng vai trò của nhà nước hay thị trường. Thúc đẩy tự do hóa là cổ vũ vai trò của thị trường, bảo hộ là gia tăng vai trò của nhà nước để dựng lên các rào cản thương mại. Bảo hộ thương mại ngày càng được tinh vi hóa bằng các hàng rào phi thuế quan như tiêu chuẩn môi trường, vệ sinh, toàn, nhân quyền, xuất xứ hàng hóa... Cả những người theo chủ nghĩa tự do đa phương hay chủ nghĩa bảo hộ đều tận dụng tối đa mặt lợi thế của thị trường và nhà nước để bảo vệ và thúc đẩy lợi ích quốc gia - dân tộc. Không thể nói Trung Quốc tự do hóa hơn Mỹ, dù luôn kêu gọi thúc đẩy tự do hóa thương mại đa phương, bảo vệ các luật lệ của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) mà mình đang được hưởng lợi, nhưng lại bị Mỹ phê phán là ăn cấp bản quyền, vi phạm quyền sở hữu trí tuệ, trợ giá xuất khẩu, thao túng tiền tệ. Cũng không thể nói Mỹ là nước xem nhẹ vai trò của nhà nước khi các chính sách tài khóa và tín dụng được sử dụng linh hoạt để thúc đẩy tăng trưởng, giải quyết việc làm, hỗ trợ phát triển khoa học và công nghệ, kể cả sẵn sàng dựng lên hàng rào bảo hộ sản xuất trong nước, bất chấp vi phạm luật lệ của WTO.

Dù theo đuổi chủ nghĩa tự do hay chủ nghĩa bảo hộ thì vẫn phải giải quyết mối tương quan giữa nhà nước và thị trường, giữa vấn đề lợi ích dân tộc và lợi ích toàn cầu. Lợi ích quốc gia - dân tộc là động lực dẫn dắt quyết định của các chính phủ khi đề cao vai trò của thị trường hay nhà nước. Chính phủ các nước sẵn sàng mở cửa, thúc đẩy tự do hóa, nếu nó đem lại lợi ích cho quốc gia - dân tộc, nhưng cũng sẵn sàng thực thi các biện pháp bảo hộ, nếu tự do hóa đe dọa đến sản xuất, việc làm trong nước. Các nước lớn thường có lợi thế trong xây dựng “luật chơi mang tính quốc tế, các nước nhỏ và tầm trung như Việt Nam nếu muốn không bị thua thiệt trong cuộc chơi toàn cầu hóa phải chủ động tham gia ngay từ khi bắt đầu định hình luật lệ, phát huy tính tích cực của Nhà nước trong thương thảo, đàm phán để giành lấy lợi ích cho mình. Càng hội nhập, tham gia sâu vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu, càng đòi hỏi Nhà nước phải “tinh vi” hơn khi xây dựng thể chế bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp trong nước, phản vệ linh hoạt với các "cú sốc" từ bên ngoài, hạn chế thua thiệt do các chiêu trò mà từ bản nước ngoài thường sử dụng như chuyển giã, ép giả, lũng đoạn thị trường, rút vốn gây sốc....

Với hội nhập quốc tế sâu rộng, tự do hóa thương mại đan xen với chủ nghĩa bảo hộ, đòi hỏi nhà nước phải sử dụng các phương thức, công cụ quản lý một cách khôn khéo hơn để vừa bảo vệ thị trường trong nước, vừa hội nhập thị trường quốc tế, xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ, kết hợp giữa phát huy nội lực và tận dụng ngoại lực.

4. Cải cách khu vực công, hoàn thiện chức năng của kinh tế nhà nước, mở rộng sự tham gia của các tổ chức xã hội, tổ chức phi lợi nhuận

Xu hướng này diễn ra ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, từ các nước phát triển, các nước đang phát triển đến các nước chuyển đổi, nhằm năng động hóa hoạt động của khu vực công dựa trên vận dụng các nguyên tắc của thị trường, ủy quyền cho tư nhân một số chức năng kinh tế của nhà nước.

Trước tiên cần phải đề cập đến xu hướng nhà nước, ủy quyền cho tư nhân cung ứng nhiều dịch vụ công trước đây do nhà nước trực tiếp đảm nhiệm như giao thông công cộng. cung cấp nước sạch, vệ sinh môi trường, giáo dục, y tế, thậm chí một số bang của Ấn Độ còn ủy quyền cho tự nhân cả nhiệm vụ cảnh sát, thu thuế ủy quyền cho tư nhân cung ứng dịch vụ công, nhà nước tinh gọn được bộ máy khu vực công, huy động được nguồn lực xã hội vào phát triển dịch vụ công, nâng cao chất lượng dịch vụ để hướng tới phục vụ người tiêu dùng. Thu hút tư nhân tham gia cung ứng các dịch vụ công có giá trị gia tăng cao còn thúc đẩy đa dạng hóa các loại hình và nâng cao chất lượng dịch vụ, bảo đảm khách hàng có khả năng chi trả tài chính có cơ hội tiêu dùng dịch vụ chất lượng cao cấp, hạn chế chảy ngoại tệ ra nước ngoài.

Các chính phủ ngày càng chú trọng nhiều hơn đến việc vận dụng các nguyên tắc của thị trường để năng động hóa hoạt động quản trị công và tổ chức cung ứng dịch vụ công. Hình thức được áp dụng phổ biến là thúc đẩy cạnh tranh trong khu vực công, áp dụng phương thức quản trị doanh nghiệp cho các tổ chức khu vực công. Các mô hình “Lãnh đạo công, quản trị tư”, “Đầu tư tư, sử dụng công”, “Đầu tư công, sử dụng tư”, “Chi phí công, cung ứng tư, kiểm soát công”... ngày càng phổ biến, làm cho ranh giới giữa khu vực công và khu vực tư ngày càng rút ngắn, không còn bị tách biệt cơ học như trước đây. Cạnh tranh còn được áp dụng ngay trong đấu thầu mua sắm các dự án sử dụng tiền ngân sách, hạn chế độc quyền của doanh nghiệp nhà nước, bảo đảm giá cả cạnh tranh, mở rộng cơ hội tiếp cận nguồn lực công của tư nhân. Các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới dần mở rộng cam kết tự do hóa, kể cả mua sắm chính phủ, bảo đảm quyền tiếp cận của doanh nghiệp nước ngoài đối với các dự án đầu tư công, không phân biệt đối xử.

Đầu tư theo hình thức đổi tác công tư (PPP) ngày càng phổ biến ở các nước chuyển đổi mô hình kinh tế. Khu vực công vốn do nhà nước độc quyền tổ chức cung ứng dịch vụ, trở thành dự địa lớn cho mở rộng đầu tư theo hình thức đổi tác công tư. Bản chất của đầu tư theo hình thức đổi tác công tư là nhà nước và tư nhân cùng đóng góp nguồn lực, cùng chia sẻ lợi ích và rủi ro, được thực hiện bằng hợp đồng dài hạn. Các hình thức đầu tư đối tác công tư chủ yếu là hợp đồng dịch vụ, hợp đồng quản lý, hợp đồng thuê, hợp đồng xây dựng - vận hành - chuyển giao, hợp đồng nhượng quyền. Những lĩnh vực có dư địa lớn cho mở rộng đầu tư theo hình thức đối tác công tư là xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông, thủy lợi, điện lực, cung cấp nước sạch, công nghiệp mới trường cung ứng dịch vụ xã hội như bệnh viện, trường học.... Trong điều kiện nhà nước khan hiếm nguồn lực, đầu tư theo hình thức đối tác công tư là biện pháp rất quan trọng để huy động nguồn lực tư nhân phát triển các dịch vụ công cộng, cho phép triển khai nhanh các dự án, góp phần thúc đẩy tăng trưởng và hiện đại hóa nền kinh tế. Để đầu tư theo hình thức đối tác công tư có hiệu quả, các chính phủ đều phải cơ cấu lại vị thế của mình để thật sự trở thành đối tác của doanh nghiệp. Đầu tư theo hình thức đối tác công tư còn giúp nhà nước tránh được lãng phí không đáng có như sử dụng đầu tư công, phát huy được các nguồn lực của nhà nước như đất đai, mặt bằng để thúc đẩy phát triển đất nước; là cơ hội để nhà nước năng động hóa quản lý nhờ vận dụng các nguyên tắc quản trị của doanh nghiệp.

Trong các nền kinh tế chuyển đổi, phân cấp, phân quyền để chính quyền địa phương đủ thẩm quyền và năng lực khi tham gia cùng thị trường huy động, phân bố, sử dụng nguồn lực đầu tư cho phát triển. Phân cấp, phân quyền cũng là cách để Trung ương tập trung bảo đảm an ninh, quốc phòng cũng như nâng cao chất lượng hoạch định thể chế, chính quyền địa phương có điều kiện phản ứng linh hoạt hơn trước thị trường.

Đây là những vấn đề rất lớn của các nước chuyển đổi mô hình kinh tế để bảo đảm cho thị trường thật sự trở thành cơ chế chủ yếu hoặc quyết định trong phân bổ nguồn lực, chính quyền địa phương tự chủ những vấn đề mang tính địa phương, tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng, giải quyết việc làm, bảo đảm các dịch vụ công cấp vùng và địa phương. Các nước đang phát triển còn đứng trước cơ hội và thách thức của đô thị hóa, chuyển đổi nền kinh tế, vì vậy, càng phải chú trọng nhiều hơn đến vấn đề phân quyền cho chính quyền đô thị trong quản lý và phát triển kinh tế, phát huy tốt hơn vai trò của thị trường huy động nguồn lực phục vụ đô thị hóa, giải quyết các nạn giải của xã hội đô thị.

Nhà nước và thị trường đều có giới hạn của nó; thị trường có xu hướng tối đa hóa lợi nhuận bỏ lại phía sau những người yếu thế, kém may mắn; nhà nước có khả năng khỏa lấp những khuyết tật của thị trường nhưng khó bao phủ đến mọi đối tượng, thậm chí gia tăng phúc lợi công cộng miễn phí còn đẩy người dân thụ động, ỷ lại, trông chờ, triệt tiêu năng lực sáng tạo. Mở rộng quy mô sở hữu nhà nước còn gây nên tình trạng sử dụng nguồn lực lãng phí, không hiệu quả, trì trệ, kể cả tham nhũng. Vì vậy, phát triển khu vực phi lợi nhuận (còn gọi là "khu vực thứ ba") có vai trò bổ sung cho các khiếm khuyết ấy và chế ước các hệ lụy tiêu cực phát sinh từ sự tương tác giữa nhà nước và thị trường. Đối mới, cơ cấu lại các đơn vị sự nghiệp công mở ra cơ hội cho các tổ chức xã hội tham gia cung ứng dịch vụ xã hội, nhất là trên các lĩnh vực bảo trợ xã hội, hỗ trợ nhân đạo, giảm ngheo, bình đẳng giới, tăng cường năng lực của người dân...

Với các doanh nghiệp phát triển đến một trình độ cao, có mức thặng dư lớn, các chính phủ thường điều chỉnh bằng công cụ thuế khuyến khích doanh nghiệp chuyển dịch một phần nguồn lực tài chính đầu tư cho phát triển dịch vụ xã hội phi lợi nhuận như giáo dục, y tế, giúp nhà nước giảm quy mô sở hữu trong khu vực dịch vụ công mà vẫn đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng của xã hội. Thành tựu khoa học - công nghệ được ứng dụng mạnh mẽ vào sản xuất khiến cho số lượng lao động trực tiếp được giảm thiểu, giá trị thặng dư từ các yếu tố ngoài lao động tăng lên, nhiều tập đoàn xuyên quốc gia không chỉ phân phối kết quả theo lao động mà còn áp dụng cả phân phối theo lợi nhuận, dựa trên tinh thần chia sẻ nâng cao phúc lợi công ty. Nhiều nước còn phát triển mạnh các doanh nghiệp xã hội - một hình thức chức kinh tế sử dụng nguyên tắc doanh nghiệp để giải quyết các mục tiêu xã hội; vừa làm cho người lao động phải năng động hóa, khắc phục khuyết tật của nhà nước phúc lợi khiến con người thụ động, ỷ lại, lười biếng; vừa bảo đảm công bằng xã hội, chăm lo phát triển con người. Đó là chưa kể nếu thiếu “khu vực thứ ba" nhà nước và thị trường thường có xu hướng thỏa hiệp, hình thành nhóm lợi ích vừa thao túng chính sách, vừa lũng đoạn thị trường, gây tổn hại đến lợi ích của người dân và sự phát triển của đất nước. Vì vậy, trong quá trình giải quyết mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường phải coi trọng vai trò của các tổ chức xã hội, đoàn thể, hiệp hội để thị trường vận động lành mạnh, nhà nước giữ được phẩm chất liêm chính, công tâm, không thiên vị, đủ năng lực kiến tạo phát triển.

5. Bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc trong quá trình mở rộng hội nhập thị trường toàn cầu và tham gia quản trị toàn cầu

Không ít chính giới, học giới đã có lúc lạc quan dự báo toàn cầu hóa sẽ hình thành nên các thể chế khu vực, gia tăng vai trò quan trị toàn cầu, các quốc gia - dân tộc phải chia sẻ lợi ích riêng cho lợi ích toàn cầu. Thực tế diễn ra không đúng với dự báo đó, càng thúc đẩy toàn cầu hóa, các chính phủ càng tìm cách thúc đẩy lợi ích quốc gia - dân tộc mình.

Các nước dù lớn hay nhỏ, đi trước hay đi sau, đều tìm cách duy trì và gia tăng hệ thống luật lệ bảo vệ lợi ích quốc gia – dân tộc trong quá trình hội nhập quốc tế. Những quốc gia có thể và lực lớn mạnh hơn đều gia tăng đầu tư tư bản, thúc đẩy tự do hóa thương mại, tìm kiếm thị trường.... cũng nhằm gia tăng lợi ích quốc gia - dân tộc, gây ảnh hưởng về chính trị để tạo lợi thế cho mở rộng sức mạnh kinh tế. Các tập đoàn tư bản xuyên quốc gia ít quan tâm đến lợi ích của quốc gia nhận đầu tư, mà tìm cách tối đa hóa lợi nhuận, ra sức tận dụng, khai thác lao động giá rẻ, phí tài nguyên thấp, chuyển giá,... kể cả trốn tránh các chi phí môi trường, trách nhiệm xã hội. Các nước nhận đầu tư, nếu có thể chế quản trị thông minh vừa tranh thủ tối đa được nguồn lực bên ngoài, vừa hạn chế được mặt trái của đầu tư nước ngoài. Đáng chú ý là các biện pháp chống chuyển giả, bảo vệ môi trường, các phi tổn mà doanh nghiệp FDI phải gánh chịu nếu thoái vốn để lại hậu quả xấu về môi trường và việc làm của người lao động; bắt buộc tỷ lệ nội địa hóa phù hợp để hỗ trợ công nghiệp trong nước phát triển; bảo hộ thị trường trong nước bằng rào cản phi thương mại, tiêu chuẩn kỹ thuật; phương thức ứng phó với các “cú sốc” từ bên ngoài. Không riêng các nước nhỏ, ngay kể cả các siêu cường cũng tìm mọi cách khác nhau để bảo hộ thị trường trong nước, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, gia tăng áp lực trước hành vi của quốc gia cản trở đầu tư và thúc đẩy tự do hóa thương mại, gia tăng chủ nghĩa bao hộ dưới nhiều hình thức tinh vi khác nhau. Điều này tạo nên quá trình “kép” của toàn cầu hóa đối với mỗi thể chế nhà nước: thúc đẩy tự do hóa thương mại đi đôi với tạo ra các rào cản thương mại để bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc; mở rộng hội nhập quốc tế, tham gia toàn cầu hóa gắn với xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ.

Các nước đều chủ động đổi mới quản trị chính phủ, cốt lõi là vận dụng đúng dẫn các nguyên tắc của thị trường và phát huy tính tích cực của nhà nước để bảo vệ và thúc đẩy lợi ích quốc gia - dân tộc, phòng ngừa với các mối đe dọa đến độc lập, chủ quyền quốc gia; hình thành hệ thống thể chế xử lý hài hòa giữa lợi ích quốc gia - dân tộc với lợi ích toàn cầu; xây dựng các doanh nghiệp có sức cạnh tranh thuộc cả khu vực công và khu vực tư, dễ giữ vùng, bảo vệ thị trường trong nước và vươn ra thị trường quốc tế; phát triển các hàng hóa, dịch vụ chủ lực có sức cạnh tranh trên thị trường toàn cầu.

Trong xu thế toàn cầu hóa, hầu hết các nước đều chấp nhận chia sẻ giữa lợi ích riêng với những giá trị phổ quát của nhân loại giữa quản trị quốc gia với quản trị toàn cầu. Hội nhập cảng sâu càng tạo nên tính tùy thuộc và rằng buộc lẫn nhau khiến cho chính phủ các nước không thể tự ý hành động trong phạm vi lãnh thổ của quốc gia mình, phải bảo vệ quyền tài sản của nhà đầu tư nước ngoài nếu muốn hấp dẫn thu hút đầu tư, không thể quốc hữu hóa tài sản tư bản nước ngoài khi cân nhắc hậu quả cấm vận. Hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa cũng đặt ra trách nhiệm lớn hơn đối với các nhà nước, không chỉ phải đủ năng lực bảo vệ quyền lợi kinh tế trong biên giới lãnh thổ quốc gia mình mà còn phải vươn ra bảo hộ và bảo vệ trên phạm vi quốc tế, thông qua đàm phán, ký kết các hiệp ước song phương, đa phương cũng như hành động thực tiễn khi phản ứng với các tình huống bất lợi cho doanh nghiệp và công dân. Thúc đẩy lợi ích quốc gia - dân tộc ngay khi đàm phán tham gia xây dựng các hiệp định thương mại quốc tế là lựa chọn khôn ngoan khi hình thành các hiệp định tự do thế hệ mới. Các định chế quốc tế đã từng tồn tại nhiều thập niên qua đứng trước thách thức khi những quốc gia thấy bất lợi thì khước từ hợp tác, đòi thay thế luật lệ; các thể chế khu vực cũng ở trong tình trạng tương tự, thấy có lợi thì xin gia nhập, thấy bất lợi thì xin tách ra như trường hợp Brexit. Một số định chế quốc tế mới hình thành không ngoài mục tiêu sắp xếp lại trật tự cũ, viết thêm luật lệ mới, điển hình là Sáng kiến “Vành đai, Còn đường" và Ngân hàng Đầu từ kết cấu hạ tăng châu Á (AIIB) do Trung Quốc dẫn dắt. Nhiều chính phủ chủ động đưa người tham gia ngay từ giai đoạn vận động thành lập các tổ chức quốc tế để định hình các luật chơi, thúc đẩy và bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc, nếu không muốn bị áp đặt luật chơi.

Có thể thấy, dù thúc đẩy tự do thương mại toàn cầu hay gia tăng chủ nghĩa bảo hộ, quản trị nhà nước hay quan trị toàn cầu, gia nhập hay thoái lui khỏi các thể chế khu vực... thì bản chất vẫn là nhằm bảo đảm lợi ích quốc gia – dân tộc. Giải quyết hài hòa quan hệ giữa nhà nước và thị trường cũng không nằm ngoài yêu cầu bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc trong trật tự quốc tế vận động, biển đổi không ngừng.

Đăng ký nhận email

Đăng ký email để có thể có được những cập nhật mới nhất về tải liệu được đăng tải trên website

Tập san đã phát hành