Thứ năm, 23 Tháng 9 2021 15:54

Kỹ năng đánh giá chính sách và mục tiêu điều chỉnh, thay đổi chính sách xây dựng nông thôn mới

1. Cơ sở để đánh giá chính sách và điều chỉnh, thay đổi chính sách nông thôn mới

Phân tích và đánh giá chính sách là những khái niệm thường đi liền với nhau. Tuy nhiên, chúng là hai phạm trù khác nhau, có nội hàm khác nhau và vị trí khác nhau trong toàn bộ chu kỳ chính sách.

Về nguyên tắc, việc phân tích, đánh giá chính có thể được thực hiện tại bất kỳ thời điểm nào, miễn là: (1) Chủ thể chủ trương phân tích, đánh giá chính sách có yêu cầu đủ rõ đối với việc thực hiện nhiệm vụ này (để xác định mục đích phân tích, đánh giá chính sách đó cho rõ ràng), và (2) Có đủ nguồn lực cần thiết để thực hiện nhiệm vụ phân tích, đánh giá chính sách đó. Chính vì vậy, việc đánh giá chính sách xây dựng nông thôn mới được tiến hành đánh giá trong 10 năm (từ 2010-2020) và chia làm 2 giai đoạn, giai đoạn 1 từ 2010 đến 2015 và giai đoạn 2 từ 2016-2020.

Khi đánh giá việc thực hiện chính sách xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2015 đã tìm ra được những khó khăn, hạn chế, song quá trình triển khai quyết liệt, đồng bộ, rộng khắp trong cả nước nên giai đoạn từ 2016 đến nay, Chương trình đã thực sự trở thành một phong trào có ý nghĩa nhân văn được cả hệ thống chính trị và mọi tầng lớp nhân dân đồng tình, ủng hộ, khơi dậy được những lợi thế, tiềm năng của các địa phương và phát huy vai trò chủ thể của người dân, nhất là ở vùng nông thôn.

Việc tiến hành phân tích, đánh giá chính sách căn cứ vào phương án chính sách đã được xây dựng tương đối hoàn chỉnh, cần rà soát, đánh giá xem liệu nó đã có thể được chính thức ban hành và đưa vào thực hiện hay còn cần phải hoàn thiện, điều chỉnh, sửa đổi ở những nội dung nào nữa. Vì vậy, khi đối chiếu với việc phân tích, đánh giá chính sách về xây dựng nông thôn mới có thể thấy rằng, hệ thống cơ chế chính sách và các văn bản hướng dẫn thực hiện Chương trình MTQG xây dựng NTM đã hoàn thành tương đối đồng bộ, tạo điều kiện thuận lợi để các địa phương triển khai thực hiện. Hơn nữa, nhiều cơ chế, chính sách mới được ban hành trong giai đoạn 2016-2020 không chỉ phù hợp với điều kiện thực tế mà còn trao quyền chủ động hơn cho địa phương và kịp thời đáp ứng những yêu cầu mới trong cơ cấu lại ngành nông nghiệp, cải thiện môi trường, cảnh quan, nâng cao chất lượng đời sống văn hóa; phát huy vai trò của cộng đồng dân cư nông thôn, góp phần quan trọng vào thực hiện mục tiêu phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn của Nghị quyết Trung ương 7 khóa X.

Xét ở góc độ kết quả của việc phân tích, đánh giá môi trường thực hiện chính sách và sự nhận dạng cũng như những đánh giá, phân tích về sự xuất hiện những vấn đề mới cần có chính sách để giải quyết đối với chính sách xây dựng nông thôn mới có thể nhận thấy, công tác chỉ đạo thực hiện Chương trình ở địa phương đã có sự chuyển biến mạnh mẽ cả về số lượng, chất lượng các địa phương được công nhận đạt chuẩn; nhiều cách làm sáng tạo, mô hình hiệu quả, sát thực tiễn và đảm bảo chất lượng ngày càng được phát triển và nhân rộng đã đánh dấu một bước chuyển về chất trong thực hiện Chương trình: Hệ thống hạ tầng nông thôn phát triển mạnh mẽ; sản xuất nông nghiệp hàng hóa được coi trọng và có chuyển biến; ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp; mô hình HTX kiểu mới phát triển liên kết theo chuỗi giá trị gắn với an toàn thực phẩm, môi trường và văn hóa cộng đồng,... đã được nhiều địa phương chỉ đạo thực hiện. NTM đã có sự khởi sắc rõ rệt ở cả các tỉnh vùng khó khăn với việc có một số đơn vị cấp huyện được công nhận đạt chuẩn hay hoàn thành như Lai Châu, Sơn La, Quảng Trị, Quảng Ngãi, Phú Yên, Gia Lai, Trà Vinh,…; từng bước hình thành rõ nét các các mô hình NTM đặc thù: NTM gắn với đô thị hóa vùng ven đô, NTM vùng sản xuất nông nghiệp trọng điểm, NTM gắn với công nghiệp hoá, NTM vùng khó khăn.

Xét về kết quả của công tác phân tích, đánh giá chính sách thì đây là Chương trình duy nhất đã hình thành được hệ thống bộ máy tổ chức và cán bộ tham mưu giúp việc thực hiện Chương trình đồng bộ từ Trung ương tới cơ sở (Tỉnh, huyện, xã, thôn, bản) hoạt động ngày càng chuyên nghiệp, là nòng cốt tổ chức thực hiện Chương trình hiệu quả, chất lượng. Năng lực, kinh nghiệm của đội ngũ cán bộ vận hành Chương trình xây dựng NTM các cấp đã có tiến bộ rõ rệt, nhận thức đầy đủ hơn và chỉ đạo có hiệu quả và hoạt động ngày càng chuyên nghiệp, nhất là trong việc xây dựng dự án, lập kế hoạch, vận động quần chúng và tổ chức, thực hiện dự án, thực hành dân chủ ở nông thôn.

Về mặt nội dung, những thay đổi, điều chỉnh phổ biến vớicác chính sách thường bao gồm: (1) Bổ sung thêm hoặc loại bỏ bớt những giải pháp chính sách, tức là những nội dung cụ thể của chính sách; (2) Bổ sung thêm hoặc loại bỏ bớt những đối tượng thụ hưởng, đối tượng thực hiện chính sách; (3) Bổ thêm hoặc loại bỏ bớt những điều kiện thực hiện chính sách; (4) Bổ sung thêm hoặc hạn chế bớt phạm vi tác động của một sốgiải pháp chính sách; (5) Điều chỉnh hình thức và mức độ can thiệp của chính sách (đặc biệt là sự can thiệp của các chủ thể và các giải pháp chính sách) đối với việc xử lý các vấn đề kinh tế -xã hội mà chính sách được xây dựng, thực hiện đế giải quyết; (6) Thay đổi hệ thống các công cụ và phương pháp mà chính sách sử dụng đế can thiệp vào việc xử lý các vấn đề kinh tế - xã hội đối với chính sách được xây dựng, thực hiện đế giải quyết.

Như vậy, căn cứ vào các tiêu chí về mặt nội dung có thể thấy chủ trương, chính sách xây dựng NTM đã huy động được sự tham gia của toàn xã hội sau khi có sự điều chỉnh kịp thời những khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện chương trình. Trên thực tế, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội là lực lượng tiên phong với nhiều phong trào, hội thi, cuộc vận động; các doanh nghiệp, tổ chức tín dụng đóng góp nguồn lực to lớn về cung ứng vốn, phát triển hạ tầng, tổ chức sản xuất, liên kết tiêu thụ sản phẩm; các cơ quan truyền thông nhanh chóng, kịp thời nêu gương những điển hình tiêu biểu về NTM cũng như những vấn đề tồn tại, phát sinh ở các địa phương; đặc biệt là sự tham gia của cộng đồng dân cư nông thôn, những người đóng vai trò là chủ thể của xây dựng NTM. Trong xây dựng NTM, chủ trương “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân thụ hưởng” được quán triệt sâu sắc tới mọi địa phương, được thể hiện và thực hiện thông qua vai trò tham gia ý kiến vào quy hoạch, kế hoạch, đề án NTM, tham gia góp công, góp của, thực hiện giám sát và cho ý kiến về sự hài lòng đối với kết quả xây dựng NTM.

Những thay đổi này thường gắn với những thay đổi, điều chỉnh cách tiếp cận vấn đề mà chính sách được xây dựng đ xử lý những nợ đọng xây dựng cơ bản đã được các địa phương tập trung chỉ đạo quyết liệt, có các giải pháp hiệu quả để xử lý dứt điểm và hoàn thành tiến độ theo Nghị quyết của Quốc hội.

Việc điều chỉnh, thay đổi chính sách có thể được thực hiện ở nhiều mức độ, quy mô khác nhau. Nghiên cứu, khảo sát và phân tích để xây dựng một chính sách thường rất tốn kém cả về thời gian và chi phí. Hơn nữa, ngoài các yếu tố kỹ thuật, việc thực hiện các chính sách còn có ý nghĩa chính trị - xã hội. Sự ổn định của các chính sách thường được coi là một biểu hiện của sự ổn định chính trị - xã hội. Vì thế, các chính sách thường được thi hành trong một thời gian khá dài. Tuy nhiên, do những thiếu sót trong quá trình xây dựng chính sách, những thay đổi không lường trước của bối cảnh và môi trường kinh tế - chính trị - xã hội luôn có thể có những bất cập ngay trong nội dung chính sách hoặc có những thiếu sót trong việc xác định những điều kiện thực hiện chính sách khiến không còn không gian cho sự “vận dụng chính sách. Đây là nguyên nhân dẫn tới những điều chỉnh bộ phận của các chính sách hoặc dẫn tới những thay đổi quan trọng, thậm chí những điều chỉnh cơ bản trên phạm virộng đối với mỗi chính sách.

Qua phân tích, đánh giá việc thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới trong 10 năm qua có thể thấy được những tồn tại, hạn chế cơ bản như sau:

Thứ nhất, về kết quả xây dựng NTM của một số vùng còn thấp hơn so với mặt bằng chung và còn khoảng cách chênh lệch khá lớn giữa các vùng, miền, cụ thể: Vùng Đồng bằng sông Hồng (84,86%), Đông Nam Bộ (71,91%) thì Miền núi phía Bắc (28,60%), Tây Nguyên (37,73%), Đồng bằng sông Cửu Long (45,49%), Duyên hải Nam Trung Bộ (45,85%). Trong khi cả nước đã có đến 08 tỉnh có 100% số xã đạt chuẩn NTM và một số địa phương đã cơ bản hoàn thành xây dựng NTM trên địa bàn để chuyển sang giai đoạn nâng cao và xây dựng NTM kiểu mẫu, thì một số địa phương khác có số xã đạt chuẩn rất thấp dưới 20% (như Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Sơn La, Điện Biên, Kon Tum).

Thứ hai, nông thôn phát triển chưa đồng đều, kết nối kinh tế nông thôn – đô thị còn yếu; cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, một số nơi xuất hiện tình trạng bê tông hoá nông thôn.

Thứ ba, vấn đề ô nhiễm môi trường ở một số địa bàn vẫn còn nghiêm trọng, trong đó có ô nhiễm nguồn nước ở các tuyến sông, kênh, mương; chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm, nông sản trên phạm vi cả nước đã có tiến bộ nhưng chuyển biến chưa thực sự rõ nét, vẫn đang là vấn đề được xã hội quan tâm.

Thứ tư, sự gắn kết giữa xây dựng NTM và cơ cấu lại ngành nông nghiệp chưa chặt chẽ. Chương trình MTQG xây dựng NTM đã gắn các tiêu chí, nội dung thực hiện với hoạt động cơ cấu lại ngành nông nghiệp, nhưng các cơ chế, chính sách thực hiện cơ cấu lại ngành nông nghiệp còn chậm được ban hành, kéo theo kết quả thực hiện các tiêu chí NTM về thu nhập, hộ nghèo, tổ chức sản xuất đạt kết quả chưa cao; thu nhập của người dân nông thôn tăng nhanh, dần thu hẹp với khoảng cách so với đô thị nhưng chưa thực sự đột phá; Chất lượng và năng lực hoạt động của các HTX nông nghiệp còn yếu; cơ chế, chính sách khuyến khích tích tụ ruộng đất tạo mô hình sản xuất hàng hóa tập trung chưa đủ mạnh, rõ ràng; mối liên kết trong sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, việc áp dụng khoa học và công nghệ vào sản xuất nông nghiệp còn nhiều hạn chế; chưa tạo được những sản phẩm nông nghiệp có thương hiệu quốc gia, giá trị gia tăng cao; chính sách tín dụng phục vụ nông nghiệp nông thôn còn khó tiếp cận; chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp nông thôn chậm được sửa đổi...

Thứ năm, chất lượng đạt chuẩn và công tác duy trì bền vững kết quả sau đạt chuẩn còn nhiều hạn chế. Nhiều địa phương đạt chuẩn theo bộ tiêu chí NTM ở giai đoạn trước, đến nay chưa đáp ứng được một số yêu cầu của bộ tiêu chí mới. Một số công trình hạ tầng chưa thực sự được quan tâm, duy tu, bảo dưỡng thường xuyên nên đang xuống cấp. Nhiều xã ở các khu vực khó khăn đã được ưu tiên nguồn lực đầu tư để phấn đấu đạt chuẩn, làm điển hình cho các xã khác học hỏi và làm theo. Tuy nhiên, chất lượng đạt chuẩn chỉ ở mức “chạm ngưỡng”.  

Thứ sáu, xác định Chương trình MTQG xây dựng NTM là nhiệm vụ quan trọng, lâu dài, có điểm khởi đầu nhưng không có điểm kết thúc. Tuy nhiên, việc hệ thống hóa tổ chức bộ máy vận hành chưa thực sự thống nhất và đồng bộ từ Trung ương đến địa phương.

Nguyên nhân chủ yếu của những tồn tại nói trên là do tác động của thiên tai và biến đổi khí hậu tiếp tục diễn biến phức tạp, gây thiệt hại về tài sản, con người và ảnh hưởng nặng nề đến đời sống sinh hoạt, sản xuất của người dân, qua đó, đã ảnh hưởng trực tiếp đến việc duy trì các tiêu chí về hạ tầng kinh tế - xã hội, thu nhập, hộ nghèo, môi trường....

Bên cạnh đó một số địa phương chú trọng nhiều đến phát triển kết cấu hạ tầng và sản xuất… nhưng các nội dung về phát triển y tế, giáo dục, xây dựng đời sống văn hóa, nâng cao ý thức bảo vệ môi trường chưa được quan tâm đúng mức nên chưa thực sự chuyển biến rõ nét.

Khi phân tích, đánh giá chính sách xây dựng nông thôn mới có thể thấy được một nguyên nhân quan trọng nữa là một số địa phương chưa quan tâm đúng mức đến xây dựng NTM, nhất là sự chỉ đạo của các đồng chí lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh, huyện, dẫn đến kết quả xây dựng NTM còn rất thấp, thậm chí thụt lùi so với các địa phương khác trong vùng, cũng như mặt bằng chung của cả nước; đặc biệt là một số tỉnh, thành phố có điều kiện phát triển, nguồn thu lớn (Khánh Hòa, Hải Phòng, Bà - Rịa Vũng Tàu…). Từng địa phương vẫn còn tư duy phát triển đơn lẻ, theo từng tỉnh, không gắn với liên kết vùng nên chưa phát huy được hết tiềm năng, lợi thế của vùng trong tái cơ cấu lại ngành nông nghiệp gắn với xây dựng NTM. Đồng thời, năng lực cán bộ làm công tác xây dựng NTM của một số địa phương còn hạn chế, chưa thực sự chủ động trong công tác tham mưu, đề xuất triển khai thực hiện Chương trình; chất lượng hoạt động của một số VPĐP NTM cấp tỉnh, huyện còn nhiều bất cập…

Việc tìm ra những nguyên nhân trên là cơ sở cho việc điều chỉnh chính sách tránh điều chỉnh một cách tùy tiện, không phân tích kỹ và thấu đáo kết quả cũng như tác động của việc điều chỉnh, không tính toán, xem xét đầy đủ mối quan hệ giữa việc điều chỉnh một số nội dung của chính sách xây dựng nông thôn mới với những nội dung khác của chính sách mà bản thân chính sách đó thường đem lại những tác hại lớn, gây ra những hậu quả khó khắc phục. Do đó, ngay từ khi hoạch định chính sách, cần phải dự liệu trước những điều kiện và tình huống cần điều chỉnh chính sách hoặc xây dựng cơ chế, quy trình khỏi động và thực hiện việc điều chỉnh chính sách xây dựng nông thôn mới. Sau đó, trong quá trình thực hiện chính sách xây dựng nông thôn mới, một trong những nội dung của công tác giám sát là theo dõi, ghi nhận những dấu hiệu cho phép nhận biết sự cần thiết phải điều chỉnh, thay đổi chính sách[1].

Về lý thuyết, việc điều chỉnh, thay đổi chính sách về xây dựng nông thôn mới trong chương trình mục tiêu quốc gia cũng cần thực hiện theo một quy trình như việc xây dựng mới chính sách. Tuy nhiên, trên thực tế, do áp lực thời gian và yêu cầu về mặt chính trị - xã hội, việc điều chỉnh, thay đổi thường được thực hiện một cách khá đơn giản. Theo đó, trong quá trình thực hiện những quy định cụ thể trong tổng số các quy định nhằm triển khai chính sách, sẽ có những mâu thuẫn, bất cập phát sinh. Tùy thuộc vào tầm quan trọng và quy mô, phạm vi ảnh hưởng của bản thân những bất cập phát sinh trong quá trình thực hiện văn bản mà các cơ quan, tổ chức chịu trách nhiệm thực hiện những quy định này sẽ báo cáo cho cơ quan có thẩm quyền hoặc “vận dụng" hoặc tự điều chỉnh các quy định đó cho phù hợp với điều kiện thực tế và phân cấp quản lý chính sách.

Phần nhiều những điều chỉnh này sẽ được báo cáo, thông báo cho cơ quan chủ trì việc soạn thảo và được giao trách nhiệm theo dõi quá trình thực hiện văn bản. Những thay đổi, điều chỉnh có tính bộ phận của một chính sách như vậy có thể được chấp nhận (theo những hình thức chính thức hoặc phi chính thức), hoặc bị ngăn trở/hủy bỏ hoặc được sửa đổi, nhân rộng, khái quát hóa và chính thức hóa thành điều chỉnh chính thức đối với chính sách này.

Trong nhiều trường hợp, khi việc “phân cấp quản lý chính sách" không được đặt ra hoặc không được thực hiện, thay vì điều chỉnh cục bộ một chính sách, người ta thường vận dụng một kỹ thuật gọi là “vận dụng chính sách". Theo đó, người ta sẽ tìm những “khoảng co dãn" hoặc “vùng linh hoạt" của chính sách, tức là những nội dung của chính sách mà việc thực hiện nó có thể rời khỏi “trục chính" của chính sách ở một mức độ nhất định và có thể chấp nhận được. Những khoảng co dãn như vậy thường tồn tại trong mọi chính sách, có thể bắt nguồn từ chỗ khi xây dựng chính sách, người ta chưa dự tính hết các tình huống, các trường hợp, các biến cố có thể xuất hiện và nay chúng lại xuất hiện. Nó cũng có thể bắt nguồn từ chỗ các nhà hoạch định chính sách đã dành sẵn cho những sáng kiến và đề xuất có thể nảy sinh từ những chủ thể khác nhau trong quá trình thực hiện chính sách mà vì nhiều lý do, người ta dự kiến sẽ chấp nhận có khoảng dao động “ly tâm" chính sách ở một mức độ nào đó.

Định kỳ, hoặc khi chưa đến thời hạn nhưng có quá nhiều thông tin về những bất cập của quy định hoặc khi những điều chỉnh đã được thực hiện quá nhiều, cơ quan chịu trách nhiệm soạn thảo văn bản hoặc cơ quan được giao trách nhiệm theo dõi, giám sát quá trình thực hiện văn bản sẽ đề xuất sửa đổi một số nội dung của một chính sách hoặc đề xuất điều chỉnh/sửa đổi nó một cách cơ bản. Khi đó, một quá trình đánh giá một văn bản mới để thay thế cho văn bản đang được thực hiện hoặc để điều chỉnh/thay đổi văn bản đó một cách toàn diện, có hệ thống sẽ được triển khai. Việc điều chỉnh/thay đổi, sửa đổi những văn bản riêng lẻ có thể được xem như việc điều chỉnh/thay đổi từng phần của một hoặc một số chính sách. Việc xem xét, thay đổi một cách toàn diện một chính sách thường được quyết định khi có nhiều quy định trong các văn bản khác nhau cùng có liên quan tới chính sách đó được thay đổi và điều chỉnh một cách cơ bản hoặc khi có những quyết định thay đổi cơ bản đường hướng phát triển hoặc những nội dung cụ thể có liên quan tới chính sách đó.

2. Bài học kinh nghiệm dựa trên kết quả đánh giá chính sách nông thôn mới giai đoạn 2010 đến nay

Ở trên chúng ta đã phân tích những tồn tại, hạn chế và xác định nguyên nhân của chương trình xây dựng nông thôn mới, đây là tiền đề nghiên cứu bước tiếp theo của chương trình xây dựng nông thôn mới trong giai đoạn 2021-2026 trên cơ sở rút ra bài học kinh nghiệm thực hiện chính sách giai đoạn 2010 đến nay.

Về lý thuyết, một chính sách đang được thực hiện nhưng gặp nhiều khó khăn, trắc trở, tốn kém nhiều nguồn lực nhưng chỉ đem lại kết quả hạn chế, không thấy dấu hiệu của những tác động mong muốn sẽ tiến hành phân tích, đánh giá chính sách. Đối chiếu với nguyên tắc đánh giá chính sách có thể rút ra những bài học cơ bản như sau:

Thứ nhất, kết quả của chương trình đạt kết quả tốt là so sự quan tâm, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp, nhất là vai trò của người đứng đầu thực sự quan tâm, vào cuộc quyết liệt, thường xuyên. Thực tiễn cho thấy, ở những nơi nào có sự chỉ đạo sát sao, quyết liệt của chính quyền thì xây dựng nông thôn mới đạt được cả mục tiêu về số lượng và đi vào chiều sâu chất lượng. Kinh nghiệm trong công tác chỉ đạo, điều hành xây dựng NTM, phải phân công trách nhiệm rõ ràng cho từng cấp, từng ngành; đồng thời, nếu nhịp nhàng trong công tác điều phối chung, sẽ tạo sức mạnh tổng hợp. Bên cạnh đó, việc phân cấp mạnh mẽ cho chính quyền các cấp đã tạo ra sức sáng tạo ở mỗi địa phương, trong đó, vai trò chỉ đạo, vào cuộc của chính quyền cấp huyện có ý nghĩa quan trọng góp phần đẩy nhanh tiến độ xây dựng NTM.

Thứ hai, nâng cao vai trò chủ thể của nhân dân trong xây dựng nông thôn mới, điều này có ý nghĩa quyết định chính đến kết quả xây dựng NTM. Phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” là kim chỉ nam cho quá trình xây dựng NTM bền vững. Từ thực tiễn tổ chức thực hiện việc lấy ý kiến hài lòng của người dân khi xét, công nhận đạt chuẩn NTM đã tạo ra hiệu ứng rất tốt trong xã hội, giúp chính quyền các cấp có cơ sở khi quyết định công nhận đạt chuẩn/hoàn thành nhiệm vụ xây dựng NTM; bên cạnh đó, những vấn đề người dân chưa hài lòng, chính là kênh thông tin quan trọng để cấp ủy, chính quyền các cấp đưa ra giải pháp, cam kết tiến độ xử lý để đảm bảo xây dựng NTM bền vững.

Thứ ba, phân tích và tổ chức khai thác tiềm năng, lợi thế sẵn có của địa phương về điều kiện tự nhiên và nhân lực trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với xây dựng nông thôn mới. Kinh nghiệm rút ra từ thực tế tổ chức thực hiện giai đoạn 2010 đến nay cho thấy điều kiện nguồn lực hỗ trợ trực tiếp của ngân sách nhà nước có hạn, phải đa dạng hóa việc huy động nguồn lực từ các thành phần kinh tế (doanh nghiệp, tín dụng, đóng góp của nhân dân,....), nguồn từ đấu giá quyền sử dụng đất.

Thứ tư, kinh nghiệm triển khai thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới, việc chú trọng kiện toàn, củng cố tổ chức bộ máy tham mưu, giúp việc Ban Chỉ đạo các cấp là một giải pháp quan trọng tạo nên thành công. Việc có bộ máy chuyên trách, chuyên nghiệp mạnh dạn nghiên cứu, tham mưu, đề xuất cơ chế, chính sách đủ mạnh đã góp phần đẩy nhanh tiến độ, chất lượng và hiệu quả xây dựng nông thôn mới ở các địa phương;

Thứ năm, chương trình xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 đến nay đã được tổ chức đánh giá giữa giai đoạn (2010-2015) để tổng kết, bám sát thực tiễn để kịp thời điều chỉnh, bổ sung cơ chế, chính sách và cách làm sáng tạo, phù hợp với điều kiện của từng địa phương thông qua lựa chọn nội dung trọng tâm, nhiệm vụ ưu tiên để tập trung chỉ đạo và nguồn lực thực hiện.

Từ những bài học cơ bản được rút ra trong quá trình đánh giá, chính sách nông thôn mới có thể rút ra mục tiêu cho việc xây dựng NTM trong giai đoạn tiếp theo nhằm đáp ứng yêu đời sống vật chất và tinh thần của người dân nông thôn giàu có và thịnh vượng, tiệm cận với khu vực đô thị; kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn đồng bộ, hiện đại và kết nối chặt chẽ với quá trình đô thị hóa; kinh tế nông thôn phát triển mạnh mẽ, trình độ sản xuất tiên tiến, nông dân chuyên nghiệp, sản phẩm có sức cạnh tranh cao, sản xuất nông nghiệp gắn với phát triển thương mại, dịch vụ, du lịch và chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu; xã hội nông thôn dân chủ, bình đẳng, ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; môi trường, cảnh quan, không gian nông thôn sáng, xanh, sạch, đẹp; hệ thống chính trị ở nông thôn được tăng cường; quốc phòng và an ninh trật tự được giữ vững.

Tài liệu tham khảo

Nghị quyết Trung ương 7 khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn.

 


[1] Ở Việt Nam, cũng như nhiều nước khác, việc điều chỉnh chính sách ít được đề cập tới hơn là việc điều chỉnh các văn bản pháp lý. Quy trình điều chỉnh các văn bản pháp lý được chun hóa và quy định rõ trong những văn bản có giá trị pháp lý khác nhau.

Đăng ký nhận email

Đăng ký email để có thể có được những cập nhật mới nhất về tải liệu được đăng tải trên website

Tập san đã phát hành