- 1.Một số hạn chế, khó khăn, vướng mắc
Có thể nói, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác phát hiện tiền, tài sản tham nhũng còn gặp phải rất nhiều khó khăn, vướng mắc, cụ thể là:
Một là, cơ chế kiểm soát tài sản và thu nhập của cán bộ, công chức thực tế khó thực hiện một cách đầy đu, toàn diện và hiệu quả.
Việc kê khai và công khai bản kê khai tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức cũng như việc kiểm tra, xác minh việc kê khai tài sản, thu nhập của cơ quan có thẩm quyền hiện nay vẫn còn rất hình thức, hầu như khó có thể phát hiện tiền, tài sản tham nhũng mà mới chỉ dừng lại ở việc xác định việc kê khai có trung thực hay không mà thôi. Còn nhiều tài sản khó kiểm soát như các khoản chi phí sinh hoạt, các khoản hiến, tặng, cho các đối tượng ngoài phạm vi kê khai; tài sản là hàng hóa được sử dụng vào mục đích kinh doanh...
Kiểm soát thu nhập không chỉ đơn giản là việc kê khai, giải trình và xác minh (kể cả quy định chi tiết về mức thu nhập phải kê khai theo các kỳ kê khai).
Việc kiểm soát thu nhập nhất thiết phải gắn liền với kiểm soát tài sản và tất cả các khoản chi tiêu, chi đầu tư, để tất cả tiền, tài sản liên quan đến người có chức vụ, quyền hạn đều bị kiểm soát và có các cơ sở đối chứng khi xác minh để phát hiện tiền, tài sản tham nhũng. Ngoài ra, việc kiểm soát thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn cần thực hiện nhiều biện pháp, tạo một cơ chế đồng bộ và có sự kết nối giữa các phương thức như: về minh bạch tài sản, thu nhập, về nộp thuế thu nhập cá nhân, về thanh toán không dùng tiền mặt và quy định về việc nhận quà tặng và nộp lại quà tặng. Tạo sự kết nối giữa các phương thức trên trong việc giám sát, phát hiện và xác minh các khoản thu nhập có nguồn gốc bất hợp pháp của người có chức vụ, quyền hạn làm cơ sở cho việc phát hiện tiền, tài sản tham nhũng.
Trong nhiều trường hợp, tài sản của người có nghĩa vụ kê khai được chuyển dịch sang cho con đã thành niên không thuộc diện có nghĩa vụ kê khai để tránh sự kiểm soát, song chưa có công cụ hữu hiệu để giải quyết tình trạng này. Bên cạnh đó, việc kê khai và xác minh các tài sản kê khai thuộc sở hữu chung của nhiều thế hệ trong gia đình, đặc biệt ở một số địa phương miền núi có nhiều thế hệ cùng sống chung khó thực hiện.
Hai là, chưa khai thác, sử dụng được dữ liệu về tài sản, thu nhập nhằm phục vụ cho việc phát hiện tiền, tài sản tham nhũng.
Việc kê khai tài sản của cán bộ, công chức hiện nay chỉ dựa vào ý thức tự giác, không kiểm tra, xác nhận, không kê khai nguồn gốc và được quản lý theo chế độ quản lý hồ sơ cán bộ; bản kê khai chỉ được sử dụng để xác minh khi bổ nhiệm, có đơn tố cáo, khi giải trình về nguồn gốc tài sản tăng lên chưa hợp lý hoặc có yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền. Trong khi đó, phạm vi công khai bản kê khai tài sản, thu nhập chỉ được thực hiện trong cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi người có nghĩa vụ kê khai thường xuyên làm việc, công tác. Do vậy, rất khó phát hiện những tài sản có nguồn gốc từ hành vi tham nhũng. Bên cạnh đó, việc quản lý bản kê khai tại nhiều cơ quan, nhiều cấp có sự khác nhau dẫn đến những khó khăn cho việc chủ động kiểm tra hoặc khai thác các dữ liệu về tài sản, thu nhập nhằm phục vụ cho công tác phát hiện tiền, tài sản tham nhũng.
Kết quả thực hiện minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức và thực hiện thanh tra, kiểm tra về công tác này cho thấy, các cơ quan nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước chưa chủ động sử dụng hoặc khai thác các dữ liệu về tài sản, thu nhập thông qua hoạt động kê khai để phục vụ cho việc phát hiện tiền, tài sản tham nhũng, phát hiện sớm dấu hiệu tham nhũng. Việc xác minh tài sản, thu nhập trong thời gian qua thường chỉ được tiến hành khi trước đó đã có dấu hiệu tham nhũng. Bởi vậy, số trường hợp được tiến hành xác minh tài sản, thu nhập trong thời gian qua còn thấp, chưa đáp ứng yêu cầu của công tác phát hiện tiền, tài sản tham nhũng và phòng, chống tham nhũng hiện nay.
Ba là, số vụ án tham nhũng bị phát hiện, xử lý chưa tương xứng với tình hình tội phạm tham nhũng đã xảy ra trong thực tế.
Hiện nay, pháp luật chưa có những quy định cho phép các cơ quan chức năng áp dụng các biện pháp đặc biệt để có thể phát hiện các hành vi tham nhũng cho nên hiệu quả phát hiện tiền, tài sản tham nhũng là rất thấp (chỉ khoảng 5%, ẩn lậu đến 95% theo tổng kết của ngành công an). Có thể nói, tham nhũng là một loại tội phạm đặc biệt, chủ thể của nó là những người có chức vụ, quyền hạn, có trình độ nên thực hiện hành vi tham nhũng rất tinh vi, khó phát hiện và trong nhiều trường hợp kẻ vi phạm dùng nhiều thủ đoạn, kể cả dưới danh nghĩa nhà nước để cản trở việc điều tra và truy cứu trách nhiệm. Đặc biệt là liên quan đến việc thu thập chứng cứ để chứng minh hành vi phạm tội tham nhũng và phát hiện tiền, tài sản tham nhũng là cực kỳ khó khăn, nhất là đối với hành vi nhận hối lộ. Trong rất nhiều vụ việc, số tài sản chứng minh là bị thất thoát thì rất lớn, thậm chí có những vụ cơ quan điều tra thu giữ được những tài liệu trong đó có danh sách ghi chép tỉ mỉ tên tuổi những người nhận hối lộ với từng khoản tiền cụ thể nhưng vẫn bất lực vì không có chứng cứ để buộc tội người nhận hối lộ. Một điều hết sức vô lý là trong các vụ hối lộ có người đưa hối lộ và bị kết tội đưa hối lộ nhưng lại không chứng minh và không truy cứu trách nhiệm của người nhận hối lộ. Cho nên trong rất nhiều trường hợp các cơ quan tố tụng hoặc là không quy kết được trách nhiệm hoặc là kết luận hành vi sai phạm của họ là “cố ý làm trái” hoặc “thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” là những hành vi không bị coi là tham nhũng với mức xử lý nhẹ hơn rất nhiều so với hành vi tham ô và nhận hối lộ.
Việc điều tra làm rõ việc sử dụng, cất giấu tiền, tài sản tham nhũng hoặc che giấu nguồn gốc bất hợp pháp tiền, tài sản tham nhũng còn hạn chế, nhiều trường hợp tài sản tham nhũng được xác định là đã sử dụng vào hoạt động kinh doanh, đánh bạc, chi tiêu hết không thu hồi được. Việc điều tra, phát hiện và xác định tài sản bị chiếm đoạt hoặc thiệt hại do tham nhũng gây ra chưa đầy đủ so với thực tế, hoặc có xác định được số tài sản, tiền đã bị tham ô, chiếm đoạt nhưng không thu giữ được.
Trong lĩnh vực thanh tra - lĩnh vực phức tạp, nhạy cảm, liên quan đến nhiều ngành, nghề, lĩnh vực; một số kết luận thanh tra đã được Thanh tra Chính phủ đôn đốc bằng văn bản nhiều lần nhưng kết quả thực hiện của các đơn vị, địa phương đến nay vẫn chưa thực hiện dứt điểm, còn để tồn đọng kéo dài, gây bức xúc trong dư luận; công tác phối hợp của các cục, vụ, đơn vị thuộc Thanh tra Chính phủ có lúc còn chưa chặt chẽ, nhịp nhàng, tỷ lệ thu hồi nhìn chung còn thấp, nhất là của các bộ, ngành Trung ương. Kiến nghị sửa đổi về cơ chế, chính sách thực hiện còn chậm, chưa đẩy mạnh hoạt động quản lý nhà nước trong công tác đôn đốc, xử lý sau thanh tra, kiến nghị về xử lý cán bộ còn thực hiện mang tính hình thức, thậm chí không thực hiện. Mặt khác, do đặc thù của công tác thanh tra là thời kỳ thanh tra thường là từ 3 đến 5 năm trở về trước so với thời điểm ban hành quyết định thanh tra, do đó khi phát hiện được sai phạm thì thời hiệu, thời hạn xử lý hành chính cán bộ, công chức, viên chức đã hết theo quy định tại khoản 1, Điều 6 và khoản 1, Điều 7 của Nghị định số 34/2011/NĐ-CP ngày 17/5/2011 quy định về xử lý kỷ luật đối với công chức[1].
Bốn là, quá trình điều tra, truy tố và xét xử các tội phạm về tham nhũng và phát hiện tiền, tài sản tham nhũng thường gặp nhiều khó khăn hơn so với các tội phạm khác.
Khó khăn ở đây không phải vì chủ trương mà vì biện pháp thực hiện chủ trương. Trong tất cả các văn bản của Đảng, Nhà nước cũng như việc chỉ đạo thực hiện đều khẳng định không loại trừ một ai nếu có tội thì đều phải xử lý theo pháp luật. Tuy vậy, thực tế không ít trường hợp khi cơ quan mình, cán bộ của mình phạm tội thì bằng cách này hay cách khác lãnh đạo đứng ra bao che, còn bản thân người phạm tội là người có chức vụ, quyền hạn và có quan hệ rộng. thậm chí quan hệ cả với những người trong các cơ quan bảo vệ pháp luật nhằm mục đích chạy tội cho bản thân. Trường hợp người phạm tội là người ở trong các cơ quan bảo vệ pháp luật thì việc điều tra, truy tố, xét xử để phát hiện tiền, tài sản tham nhũng lại càng khó khăn bởi vì bản thân họ là những người hiểu biết về pháp luật nên chắc chắn sẽ có nhiều thủ đoạn lách luật hoặc tìm cách chống đối, gây khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình chứng minh tiền, tài sản tham nhũng và những hành vi phạm tội của họ.
Những vụ án có ý kiến khác nhau giữa các cơ quan tiến hành tố tụng về hành vi phạm tội của cán bộ thuộc diện quản lý của cơ quan có thẩm quyền cần có ý kiến trước khi khởi tố, nhưng một số cơ quan, tổ chức chậm cho ý kiến hoặc chỉ cho ý kiến chung chung. Do đó, các cơ quan tiến hành tố tụng, trong đó có cơ quan xét xử, rất khó thực hiện. Bên cạnh đó, vai trò lãnh đạo của các cấp uỷ đảng đối với các cơ quan tiến hành tố tụng ở một số nơi còn có tình trạng bao biện, làm thay, can thiệp quá sâu vào công tác chuyên môn; ngược lại, có nơi lại không quan tâm, không ủng hộ, hợp tác; thậm chí phó mặc hoàn toàn cho các cơ quan tiến hành tố tụng.
Những người phạm các tội về chức vụ thường là cán bộ, đảng viên, những người đang giữ các chức vụ chủ chốt trong các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, có quan hệ với nhiều ngành, nhiều cấp và với nhiều người. Khi vụ án bị phát hiện, các cơ quan tiến hành tố tụng thường vấp phải sức ép của việc can thiệp không đúng đắn từ một số người có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội thám chí còn đứng ra bao che cho hành vi phạm tội của cán bộ, đảng viên do mình quản lý và phụ trách.
Chống tham nhũng cùng với việc phát hiện tiền, tài sản tham nhũng là cuộc đấu tranh vô cùng phức tạp và quyết liệt. Đối tượng tham nhũng hầu hết là cán bộ, công chức trong bộ máy chính quyền các cấp. Lực lượng đấu tranh luôn phải chịu những sức ép, lực cản vô hình và đối đầu với những cám dỗ không dễ vượt qua. Trong số các đối tượng tham nhũng, có những người có chức vụ cao, là đảng viên tham gia cấp uỷ nên việc khởi tố, điều tra, xét xử và phát hiện tiền, tài sản tham nhũng đối với số đối tượng này phải trải qua rất nhiều thủ tục dẫn đến tiến độ điều tra, xử lý vụ án thường bị chậm.
Việc điều tra, giám định, xác định hậu quả thiệt hại cũng gặp nhiều khó khăn, thời gian kéo dài, không bảo đảm chính xác... Tính chất của các vụ án tham nhũng thường là nghiêm trọng, phức tạp, có nhiều đồng phạm và liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều địa phương; có sự thông đồng, móc nổi, che chắn từ nhiều phía. Do đó, việc điều tra, xác minh để phát hiện tiền, tài sản tham nhũng gặp rất nhiều khó khăn; thời gian điều tra, xử lý bị kéo dài.
Trong công tác xét xử các tội phạm về tham nhũng, một số cán bộ, công chức có biểu hiện tiêu cực, sự phối hợp giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật đối khi chưa chặt chẽ, hướng dẫn, giải thích pháp luật của các cơ quan có thẩm quyền chưa kịp thời, đầy đủ và thống nhất; do đó, những phần tử xấu lợi dụng khai thác để mưu lợi riêng.
Hoạt động điều tra, thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, giám sát đã thu được một số kết quả tích cực nhưng trên thực tế vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác phát hiện tiền, tài sản tham nhũng. Cơ chế phối hợp của các cơ quan nói trên đôi khi còn lỏng lẻo, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của từng cơ quan trong phát hiện tiền, tài sản tham nhũng nói chung còn chưa rõ ràng, cụ thể dẫn đến tình trạng lẫn lộn, chồng chéo, thiếu hiệu quả trong hoạt động phát hiện và xử lý tiền, tài sản tham nhũng.
Trong mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan đảng và chính quyền về phát hiện, xử lý tham nhũng còn một số hạn chế, thiếu sót như:
Nhận thức và trách nhiệm của một số tổ chức đảng, uỷ ban kiểm tra các cấp, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội chưa đầy đủ; nhiều cấp uỷ chưa trực tiếp điều hành sự phối hợp. Các cơ quan có chức năng chưa chủ động phối hợp thực hiện, có trường hợp thiếu thiện chí, gây khó khăn cho việc kiểm tra, thanh tra, điều tra, xử lý vụ việc liên quan đến hành vi tham nhũng.
Việc so sánh đối chiếu kết quả công tác giữa việc có và không có quy chế phối hợp thường xuyên đặt ra đối với một số cơ quan có chức năng ở các cấp, dẫn đến tư tưởng “dễ làm, khó bỏ”, nhất là khi các cơ quan đó còn phải tập trung làm những việc trọng tâm, chính yếu khác của mình.
Chưa có chế độ bồi dưỡng hợp lý và cơ chế bảo vệ cán bộ, đảng viên tham gia phối hợp thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, thanh tra, xử lý khi vụ việc có sự đụng chạm đến cơ quan, tổ chức đảng nơi họ sinh hoạt, công tác, nhất là đối với trường hợp cán bộ, đảng viên vi phạm tham nhũng lại là những người có chức, có quyền. Một số cán bộ, đảng viên trong các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội có tâm lý né tránh, ngại va chạm, sợ ảnh hưởng đến bản thân khi được yêu cầu phối hợp kiểm tra, thanh tra, xem xét, kết luận đề nghị xử lý cán bộ, đảng viên có hành vi tham nhũng.
Cơ chế khuyến khích, bảo vệ người tố giác, tin báo về tội phạm tham nhũng chưa thực sự hữu hiệu, thậm chí việc khen thưởng đối với người tố cáo tham nhũng còn mang tính hình thức. Do vậy, việc cung cấp thông tin về tội phạm tham nhũng từ phía người dẫn cho các cơ quan tố tụng còn hạn chế.
2. Nguyên nhân của những hạn chế
Những hạn chế, yếu kém nêu trên xuất phát từ một số nguyên nhân cơ bản sau:
Một là, các quy định về kê khai tài sản, thu nhập còn nhiều bất cập, dẫn đến khó khăn trong việc phát hiện, xác minh tiền, tài sản tham nhũng.
Các đối tượng có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập quá rộng dẫn đến khó quản lý, khó kiểm soát và khai thác, sử dụng các dữ liệu về tài sản, thu nhập của người có nghĩa vụ kê khai cho công tác phát hiện, xác minh tiền, tài sản tham nhũng. Hơn thế, việc mở rộng các đối tượng có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập cũng dẫn đến sức ép về năng lực tổ chức thực hiện cho các cơ quan có thẩm quyền và dẫn đến tính hình thức trong việc thực hiện các biện pháp này.
Quy định về thẩm quyền ra quyết định xác minh tài sản còn cứng nhắc và chưa phù hợp khi chỉ giao cho người có thẩm quyền quản lý cán bộ, công chức, viên chức có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập.
Quy định về căn cứ xác minh tài sản, thu nhập còn cứng nhắc và chưa linh hoạt cho mục tiêu phát hiện, xác minh tiền, tài sản tham nhũng nói chung, đặc biệt là chưa tạo được tính chủ động cho các cơ quan trong phát hiện dấu hiệu tham nhũng như việc xác minh tài sản ngẫu nhiên hoặc theo phương pháp quản lý rủi ro để phát hiện tiền, tài sản tham nhũng.
Hiện nay, chưa có quy định về cơ chế kiểm soát thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn và rộng hơn là cơ chế kiểm soát thu nhập trong xã hội nói chung để giúp phát hiện nguy cơ tham nhũng đối với nhóm người có chức vụ, quyền hạn. Cơ chế kiểm soát tiền, tài sản, kiểm soát thu nhập, việc sử dụng tiền mặt, việc quản lý các giao dịch lớn ở Việt Nam còn rất lỏng lẻo và nhiều bất cập.
Mặt khác, hiện nay chưa quy định về việc xử lý tài sản tăng thêm mà không giải trình được nguồn gốc một cách hợp lý và các hình thức xử lý vi phạm đối với người kê khai không trung thực, giải trình không hợp lý, còn nhẹ, chưa mang tính phòng ngừa và răn đe.
Đối với việc kê khai tài sản, thu nhập và phạm vi quản lý đối tượng kê khai ở từng cấp; việc phân công cơ quan đầu mối giúp quản lý, tham mưu, tổng hợp báo cáo, đôn đốc và kiểm tra việc kê khai tài sản, thu nhập còn chưa thống nhất, có nơi giao cơ quan thanh tra, có nơi giao cho cơ quan nội vụ, tổ chức; sự phối hợp giữa cơ quan đầu mối về kê khai tài sản, thu nhập với ủy ban kiểm tra đảng các cấp chưa đồng bộ, kịp thời
Hai là, các vụ án về tham nhũng là những vụ án phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau, dẫn đến khó khăn trong việc phát hiện, xác minh tiền, tài sản tham nhũng.
Các vụ án về tham nhũng là những vụ án phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau, thường có nhiều người tham gia và có sự cấu kết chặt chẽ với nhau, đối tượng phạm tội thường là người có trình độ, có chức, có quyền nên thủ đoạn phạm tội cũng rất tinh vi, việc thu thập, đánh giá chứng cứ gặp nhiều khó khăn, phức tạp dẫn đến việc điều tra, truy tố, xét xử bị kéo dài.
Việc xác định hành vi phạm tội, mức độ tham gia của từng bị cáo và những vấn đề liên quan trách nhiệm bồi thường dân sự của từng bị cáo là rất khó khăn, liên quan đến nhiều lĩnh vực nên trong một số trường hợp đã vi phạm thời hạn giải quyết. Đồng thời, một số tội phạm về tham nhũng như tội “lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ”, “lạm quyền trong khi thi hành công vụ”, “lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản”,... có cấu thành tội phạm tương đối giống nhau; một số dấu hiệu định khung hình phạt trong các tội về tham nhũng, chức vụ hiện nay chưa có quy định rõ ràng. Do vậy, trên thực tế, các cơ quan tiến hành tố tụng trong một số trường hợp còn có sự nhận thức khác nhau khi đánh giá chứng cứ và xác định tội danh, khung hình phạt. Đây là nguyên nhân cơ bản dẫn tới việc trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết các vụ án tham nhũng, làm kéo dài thời gian giải quyết vụ án.
Ba là, năng lực, trình độ, trách nhiệm, bản lĩnh của một số cán bộ, công chức trong các cơ quan thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử chưa đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm về tham nhũng và thu hồi tiền, tài sản do tham nhũng mà có.
Sự hạn chế về năng lực, trình độ, kỹ năng thanh tra, điều tra, truy tố, xét xử, nhất là kiến thức tổng hợp về quản lý ngân sách, tài chính - ngân hàng, đầu tư, xây dựng... của một bộ phận thanh tra viên, điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán là nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong việc điều tra, xác định và xử lý tài sản tham nhũng.
Trong hoạt động thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, việc đôn đốc, kiểm tra và xử lý sau thanh tra, kiểm tra, kiểm toán gặp không ít khó khăn, tỷ lệ thu hồi tổng hợp chung có chuyển biến tiến bộ hơn trước nhưng tỷ lệ này ở nhiều nơi còn thấp, kiến nghị về xử lý cán bộ còn thực hiện mang tính hình thức, kiến nghị về sửa đổi về cơ chế, chính sách thực hiện còn chậm xuất phát từ các yếu tố như: (1) Một số kết luận thanh tra, kiểm tra, kiểm toán có những nội dung kiến nghị chưa rõ hoặc không khả thi nên mất nhiều thời gian nghiên cứu tài liệu, chuẩn bị văn bản lấy ý kiến, trả lời; (2) Các kiến nghị trong kết luận thanh tra, kiểm tra, kiểm toán còn chung chung chưa chỉ rõ vi phạm, chưa chỉ ra cụ thể những tập thể, cá nhân có vi phạm, gây khó khăn trong quá trình triển khai thực hiện việc xử lý sau thanh tra, kiểm tra, kiểm toán; (3) Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước ở một số bộ, ngành và địa phương chưa quan tâm đến việc lãnh đạo, chỉ đạo việc thực hiện các kiến nghị xử lý sau thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, nhất là việc thu hồi tiền, tài sản và xử lý cán bộ có vi phạm bị phát hiện; (4) Việc phối hợp giữa các cơ quan có trách nhiệm trong công tác xử lý sau thanh tra, kiểm tra, kiểm toán chưa chặt chẽ, nhất là trong xử lý về kinh tế; tình trạng suy thoái kinh tế toàn cầu và những tác động của suy thoái phần nào tiếp tục ảnh hưởng đến nền kinh tế Việt Nam mà trực tiếp là hoạt động của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, trong đó có đối tượng được thanh tra, kiểm tra, kiểm toán.
Đây cũng là một trong những nguyên nhân khách quan khiến đối tượng thanh tra, kiểm tra, kiểm toán chậm hoặc không có khả năng thực hiện kiến nghị, kết luận thanh tra, kiểm tra, kiểm toán.
[1] Điều 6. Thời hiệu xử lý kỷ luật
1.Thời hiệu xử lý kỷ luật là 24 tháng, kể từ thời điểm công chức có hành vi vi phạm pháp luật cho đến thời điểm người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền ra thông báo bằng văn bản về việc xem xét xử lý kỷ luật.
....
Điều 7. Thời hạn xử lý kỷ luật
1.Thời hạn xử lý kỷ luật tối đa là 02 tháng, kể từ ngày phát hiện công chức có hành vi vi phạm pháp luật cho đến ngày cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền ra quyết định xử lý kỷ luật...