Thứ năm, 23 Tháng 6 2022 16:02

KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CÔNG DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC

Ngày 28/11/2013, Hiến pháp Việt Nam được Quốc hội Việt Nam thông qua đánh dấu bước phát triển mới trong đời sống chính trị - xã hội Việt Nam, đồng thời đặt ra những yêu cầu triển khai thi hành Hiến pháp, điều chỉnh mới về mọi mặt đời sống xã hội để phù hợp với tình hình mới.

Hiến pháp năm 2013 đặt ra một loạt các vấn đề liên quan trực tiếp đến mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân, qua đó, ảnh hưởng mật thiết tới hoạt động bảo đảm quyền công dân trong hoạt động của các cơ quan hành chính Nhà nước. Liên quan đến bảo đảm quyền công dân trong hoạt động của các cơ quan hành chính Nhà nước, yêu cầu hàng đầu là phải tiếp tục ban hành các đạo luật bảo đảm cho các quyền con người, quyền cơ bản của công dân, trong đó có các quyền về quyền tự do lập hội, quyền biểu tình… . Bên cạnh đó, hàng loạt các vấn đề liên quan đến tổ chức và hoạt động của bộ máy của Nhà nước cũng cần được giải quyết thấu đáo, khoa học, khả thi, kịp thời.

Trong đó có các vấn đề liên quan đến cơ quan tư pháp như: tiếp tục làm rõ vai trò của Tòa án nhân dân là cơ quan “thực hiện quyền tư pháp” (Điều 102); cụ thể hóa một số nguyên tắc tố tụng mang tính hiến định, nhất là nguyên tắc tranh tụng trong xét xử; triển khai chủ trương tổ chức lại Tòa án theo thẩm quyền xét xử (Tòa án khu vực), không tương ứng với chính quyền cấp tỉnh, cấp huyện như hiện nay để bảo đảm nguyên tắc độc lập của Tòa án; tiếp tục nghiên cứu, triển khai xây dựng và thực thi cơ chế bảo vệ hiến pháp trên cơ sở quy định tại khoản 2 Điều 119 của Hiến pháp năm 2013.

1. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân

Đánh giá thực trạng hệ thống pháp luật của Việt Nam nói chung, lĩnh vực quyền con người, quyền công dân nói riêng, có thể thấy hệ thống pháp luật nước ta trong hơn hai thập kỷ qua đã có sự phát triển mạnh mẽ, với nhiều thành tựu to lớn. Tuy nhiên, còn tồn tại một số hạn chế trong hệ thống pháp luật như: khá cồng kềnh; thiếu ổn định, thường xuyên thay đổi; rất nhiều văn bản pháp luật có tính quy phạm thấp, dẫn đến chậm trễ thi hành, chờ văn bản hướng dẫn của các cấp khác nhau, làm nảy sinh không ít mâu thuẫn giữa văn bản hướng dẫn và văn bản được hướng dẫn thi hành; tính minh bạch, hệ thống của hệ thống pháp luật còn hạn chế; xây dựng pháp luật chưa gắn với quản lý thi hành pháp luật, do đó, thiếu tính dự báo và tính khả thi[1].

Đây chính là vật cản lớn nhất đối với sự phát triển của xã hội cũng như trong việc bảo đảm thực thi các quyền con người, quyền công dân. Nhận thức được điều này, từ năm 2005, Đảng và Nhà nước đã triển khai Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020[2]. Theo đó, trước mắt là rà soát lại toàn bộ hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật nhằm loại bỏ các văn bản luật mâu thuẫn, chồng chéo hoặc không còn phù hợp với thực tiễn; bảo đảm tính hợp hiến, tính thống nhất, tính khả thi, công khai, minh bạch, dễ tiếp cận và dễ thực hiện của các văn bản quy phạm pháp luật này.

Đồng thời, trong lĩnh vực pháp luật về bảo đảm quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân, chú trọng các nội dung lớn như Nghị quyết số 48 NQ/TW đã khẳng định:

Thứ nhất, củng cố cơ sở pháp lý về trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc xây dựng, ban hành kịp thời, đồng bộ và tổ chức thực thi các quy định pháp luật, các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên về quyền con người, quyền công dân trong các lĩnh vực dân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội.

Thứ hai, hoàn thiện chế độ bảo hộ của Nhà nước đối với các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, chế độ trách nhiệm của cơ quan nhà nước, nhất là toà án trong việc bảo vệ các quyền đó; xử lý nghiêm minh mọi hành vi xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; khắc phục việc xử lý oan, sai; khẩn trương ban hành Luật về bồi thường Nhà nước. Xây dựng các đạo luật về lập hội, biểu tình nhằm xác định rõ quyền, trách nhiệm của công dân trong việc thực thi quyền dân chủ và trách nhiệm của Nhà nước trong việc duy trì, bảo đảm kỷ cương, trật tự công cộng.

Thứ ba, hoàn thiện pháp luật về quyền giám sát của các cơ quan dân cử, quyền trực tiếp giám sát, kiểm tra của công dân đối với các hoạt động của cơ quan, cán bộ, công chức; mở rộng các hình thức dân chủ trực tiếp để người dân tham gia vào công việc của Nhà nước; ban hành Luật về trưng cầu ý dân.

Phải khẳng định rằng, cùng với việc thông qua Hiến pháp sửa đổi năm 2013, cho đến nay, pháp luật về bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân đã có những bước tiến lớn. Tuy nhiên, vẫn còn một số đạo luật liên quan chặt chẽ đến việc bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân vẫn cần tiếp tục được hoàn thiện, xây dựng như:

Đối với các quyền trong lĩnh vực chính trị - dân sự: các quyền mang tính thời sự hiện nay bao gồm: quyền tiếp cận thông tin, quyền lập hội, quyền biểu tình, quyền tham gia trưng cầu ý dân... Đặc biệt, quyền tiếp cận thông tin cần được ưu tiên hàng đầu, bởi quyền này liên quan trực tiếp đến quyền rất cơ bản và quan trọng của mỗi cá nhân, được quy định tại Điều 25 của Hiến pháp năm 2013: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp biểu tình”. Quy định này dựa trên tinh thần của Tuyên ngôn nhân quyền quốc tế và Công ước dân sự chính trị quốc tế mà Việt Nam là thành viên, theo đó:

Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm quyền tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt mọi thông tin, ý kiến không phân biệt lĩnh vực, hình thức tuyên truyền bằng miệng, bằng bản viết, in hoặc dưới hình thức nghệ thuật, thông qua bất kỳ phương tiện thông tin đại chúng nào tuỳ theo sự lựa chọn của họ.

Tuy ngày 06/4/2016, Quốc hội đã thông qua Luật Tiếp cận thông tin, nhưng để triển khai đạo luật này, vẫn còn rất nhiều việc phải làm. Bên cạnh đó, vẫn cần chú ý đến những giới hạn của quyền tiếp cận thông tin, được gọi là “tiếp cận hạn chế”. Việc quy định các giới hạn thông tin nhằm bảo vệ an ninh quốc gia, bí mật đời tư và bí mật thương mại là cần thiết. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay, các bí mật Nhà nước lại được cho là rộng hơn cả thông tin nhà nước, do đó, có nguy cơ hạn chế đến quyền tiếp cận thông tin của người dân. Vì vậy, để bảo đảm cho quyền này của người dân được thực hiện đầy đủ trong thực tế, cũng là nhằm hướng tới sự minh bạch hơn trong quản trị quốc gia, cần thiết phải sửa đổi Pháp lệnh (hoặc ban hành Luật) về Bảo vệ Bí mật Nhà nước theo hướng: xác định những nội dung nào được xem là “bí mật Nhà nước”, đồng thời với việc thiết lập một quy trình thẩm định các tiêu chí đánh giá một thông tin có cần được xem là bí mật Nhà nước hay không. Quy trình này phải bảo đảm sự khách quan, hiệu quả, được đặt dưới sự giám sát tin cậy của các thiết chế độc lập.

Đối với các quyền về kinh tế - văn hoá - xã hội: trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, theo chúng tôi, các quyền cần được ưu tiên hàng đầu là quyền sở hữu, quyền tự do kinh doanh ...

2. Hoàn thiện thủ tục thực hiện bảo đảm pháp lý cho công dân theo hướng đảm bảo tính công khai, minh bạch và kịp thời

Để đảm bảo chất lượng và hiệu quả thực hiện việc bảo đảm pháp lý cho công dân thì một yêu cầu hàng đầu là phải thiết lập một nền tảng pháp lý về trình tự, thủ tục thực hiện hoạt động này một cách hợp lý, khoa học, công khai, minh bạch và kịp thời. Nhất là yêu cầu công khai minh bạch có ý nghĩa đảm bảo sự giám sát trực tiếp của công dân, các tổ chức liên quan đến hoạt động đó, góp phần hạn chế những biểu hiện thiếu trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ cũng như hạn chế những hoạt động vượt ra ngoài phạm vi pháp luật cho phép. Yêu cầu công khai, minh bạch về thủ tục đối với hoạt động của các cơ quan, tổ chức có mục đích nâng cao tính thuyết phục, đồng thuận từ phía xã hội. Dưới khía cạnh quyền, tính công khai, minh bạch còn là một đòi hỏi bắt buộc để bảo đảm quyền tiếp cận thông tin từ phía người dân, nâng cao năng lực thực hành quyền của họ.

Liên quan đến các quy định về thủ tục, một điều cần thấy rõ là hoạt động bảo hộ pháp lý cho công dân cần phải được tạo cơ chế thông thoáng, để có thể thực hiện nhanh chóng, kịp thời, tránh tình trạng người dân phải đi khiếu kiện kéo dài hoặc những chậm trễ không đáng có gây nên những hậu quả đáng tiếc. Hiện nay, chúng ta đang tiến hành công cuộc cải cách hành chính và cải cách tư pháp và đã thu được những kết quả đáng khích lệ, như cơ chế “một cửa một dấu” trong hành chính hay chủ trương áp dụng thủ tục xét xử rút gọn cho một số vụ án. Tuy nhiên, để phát huy hơn nữa hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung, hoạt động bảo hộ pháp lý đối với công dân nói riêng, yêu cầu tiếp tục cải cách và hoàn thiện hệ thống thủ tục về bảo đảm pháp lý cho công dân vẫn mang tính thời sự cấp thiết.

Để tạo nền tảng pháp lý vững chắc, trước hết cần rà soát những hạn chế, bất cập để sửa đổi, bổ sung các đạo luật về khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh, khởi kiện... trên mọi lĩnh vực: hành chính, dân sự, hình sự, thi hành án... Các văn bản pháp luật được kiến nghị rà soát bao gồm: Luật hoạt động giám sát của Quốc hội, Luật tiếp công dân, Luật khiếu nại, Luật tố cáo; rà soát các văn bản hướng dẫn thi hành Luật đất đai nhất là các quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi thu hồi đất, bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất, sát thực tế; thống nhất các quy định về thời hiệu, thời hạn, về thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp đất đai, khiếu nại, tố cáo. Tiếp tục rà soát, hoàn thiện các Luật về Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính, Luật Thi hành án dân sự, nhằm khắc phục những hạn chế bất cập trong việc bảo đảm pháp lý của người dân.

3. Hoàn thiện cơ sở pháp lý cho các thiết chế bảo đảm pháp lý đối với công dân

Một là, trong pháp luật về tổ chức và hoạt động bộ máy quyền lực nhà nước, cần bảo đảm nguyên tắc phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan thực hiện các chức năng lập pháp, hành pháp, tư pháp

Các cơ quan nhà nước được tổ chức và vận hành một cách khoa học, nhịp nhàng, hiệu quả sẽ là nền tảng vững chắc cho hiệu quả hoạt động bảo đảm quyền công dân trong hoạt động của các cơ quan hành chính Nhà nước.

Hiến pháp sửa đổi năm 2013 đã có một số quy định nhằm khắc phục phần nào những hạn chế này. Tuy vậy trong tương lai, yêu cầu sửa đổi, bổ sung hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của bộ máy quyền lực nhà nước để nguyên tắc phân công, phối hợp, kiểm soát được bảo đảm, nâng cao tính khoa học, hợp lý, hiệu lực, hiệu quả vẫn cần tiếp tục được đặt ra.

Hai là, xác định rõ phạm vi quyền hạn và nhiệm vụ của các thiết chế có nhiệm vụ bảo đảm pháp lý cho công dân trong hoạt động của các cơ quan hành chính Nhà nước hiện nay

Có thể nói, hiện nay trong cơ cấu tổ chức hệ thống chính trị và bộ máy nhà nước ta, cơ chế bảo đảm quyền công dân trong hoạt động của các cơ quan hành chính Nhà nước được thiết lập tương đối đa dạng về hình thức.

Tuy nhiên, trên thực tế, tình trạng chồng chéo về quyền hạn, trách nhiệm giữa các cơ quan, đặc biệt là các chủ thể có nhiệm vụ bảo hộ pháp lý cho công dân trong hệ thống cơ quan hành chính vẫn tiếp diễn. Tình trạng này có thể dẫn đến một trong hai hệ quả: đó là đùn đẩy trách nhiệm lẫn nhau; hoặc thực hiện nhiệm vụ chồng chéo gây cản trở hoạt động bình thường của các cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan. Để hạn chế, khắc phục tồn tại này, cần nghiên cứu một cách có hệ thống về tổ chức, hoạt động, quyền hạn và nhiệm vụ của các chủ thể bảo hộ. Căn cứ vào chủ thể được bảo hộ hoặc đối tượng quyền cần bảo đảm để xác định phạm vi quyền hạn, nhiệm vụ của các chủ thể này một cách khoa học, rành mạch. Bên cạnh đó, qui định cơ chế phối kết hợp thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn giữa các chủ thể một cách thông suốt. Như vậy mới bảo đảm thực hiện có hiệu quả hoạt động bảo đảm pháp lý cho công dân.

Ba là, thiết lập và nâng cao năng lực của các thiết chế đặc thù trong hệ thống các thiết chế bảo đảm pháp lý cho công dân trong hoạt động của các cơ quan hành chính Nhà nước hiện có

Trong hoạt động thực hiện bảo đảm pháp lý cho công dân, có thể nhận thấy các chủ thể cần được bảo hộ, đối tượng được bảo hộ là hết sức đa dạng. Các chủ thể có thể là người chưa thành niên, người già yếu, người có nhược điểm về thể chất và tinh thần, chủ thể thi hành công vụ... Các đối tượng có thể đơn giản (như quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở) đến những quyền mà cơ chế xâm hại và yêu cầu bảo hộ hết sức phức tạp (như quyền sở hữu trí tuệ)… Vì vậy, cần định hướng xây dựng hệ thống các thiết chế bảo hộ pháp lý cho công dân có tính chất chuyên sâu, đủ năng lực để bảo hộ pháp lý cho các chủ thể cũng như các đối tượng quyền có tính chất đặc thù. Ví dụ: thiết lập các tòa án chuyên trách như Tòa án xét xử người chưa thành niên, Tòa án gia đình trong hệ thống tòa án.

Cùng với việc thiết lập các thiết chế nêu trên cần có những hình thức đào tạo chuyên sâu nhằm nâng cao năng lực thực hiện nhiệm vụ và đạo đức nghề nghiệp của cán bộ, công chức, viên chức và những người thực hiện nhiệm vụ bảo hộ pháp lý cho công dân trong các cơ quan, tổ chức được giao thực hiện nhiệm vụ này.

Cần tích cực nghiên cứu, tổng kết để có thể triển khai, cụ thể hoá Điều 119 khoản 2 của Hiến pháp bằng một đạo luật về cơ chế bảo hiến ở Việt Nam, trong đó, quy định cụ thể về vị trí, vai trò, chức năng, thẩm quyền, tổ chức và hoạt động của cơ quan bảo hiến cụ thể.

Bốn là, hoàn thiện các thiết chế bảo hộ pháp lý cho công dân theo hướng đề cao tính độc lập về tổ chức và hoạt động của các thiết chế này

Nhìn chung, các thiết chế bảo đảm pháp lý cho công dân không chỉ có nhiệm vụ phát hiện, xử lý các vi phạm quyền công dân từ các chủ thể xã hội mà hoạt động này còn nhằm phát hiện và xử lý vi phạm của các cá nhân, nhóm cá nhân thực thi công vụ trong các cơ quan nhà nước. Mặt khác, tính chất của hoạt động bảo đảm pháp lý cho công dân được các chủ thể nhà nước thực hiện thường đi kèm với thẩm quyền xử lý vi phạm và tội phạm nhân danh nhà nước.

Vì vậy, để tránh những tác động tiêu cực từ các cơ quan hữu quan, cần nghiên cứu, qui định cho các thiết chế này có tính độc lập tương đối về tổ chức, về phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn, để đề cao tính độc lập trong hoạt động bảo đảm có hiệu quả quyền và lợi ích hợp pháp cho công dân. Đó cũng là một yêu cầu của xây dựng Nhà nước pháp quyền trong việc thiết kế hệ thống các cơ quan tư pháp mà trước hết là Tòa án.

 


[1] Hà Hùng Cường (2009), “Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, 18(139 + 140), Tr.20-27.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Nghị quyết 48/NQ-TW ngày 24/05/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Nội

Đăng ký nhận email

Đăng ký email để có thể có được những cập nhật mới nhất về tải liệu được đăng tải trên website

Tập san đã phát hành