1. Cơ quan giải quyết tranh chấp của Tổ chức thương mại thế giới (WTO)
Theo quy định tại Thỏa thuận về các quy tắc và thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp (DSU) thì thành viên tham gia cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO với tư cách là bên thứ ba được quy định khá chi tiết. Việc tham gia này có thể diễn ra ở các giai đoạn của quá trình giải quyết tranh chấp với những điều kiện tham gia tương ứng khác nhau. Đến nay, Cơ quan giải quyết tranh chấp của tổ chức này đã thụ lý tổng số 590 vụ kiện.[1] Trong số những vụ kiện trên, tuyệt đại đa số đều có sự tham gia của các thành viên vào cơ chế giải quyết tranh chấp của với tư cách là bên thứ ba. Việc tham gia với tư cách bên thứ ba vào cơ chế này được thể hiện khái quát theo mô hình như sau:
Giai đoạn tham vấn
Giai đoạn tham vấn là giai đoạn khởi đầu của cơ chế giải quyết tranh chấp và có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với các bên tranh chấp trong bất kì một vụ kiện nào tại WTO. Nếu thủ tục tham vấn diễn ra một cách thành công thì lợi íchmà nó đem lại là không nhỏ cho các bên có thể kể đến như: chi phí phát sinh từ vụ kiện, thời gian theo đuổi vụ kiện, con người tham gia vụ kiện, quan hệ ngoại giao hữu hảo,... Việc tham gia với tư cách thứ ba trong giai đoạn tham vấn được quy định chi tiết tại khoản 11, Điều 4 của DSU[2]. Cụ thể:
Thứ nhất, theo quy định pháp luật quốc tế, các thành viên tuy không phải là bên tranh chấp nhưng vẫn có thể tham gia giai đoạn tham vấn nếu như quyền lợi mang tính thương mại của mình đang được các thành viên tham vấn tiến hành[3].
Thứ hai, thành viên đó sẽ thông báo cho các thành viên tham vấn và Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO (DSB) về nguyện vọng tham gia vào thủ tục tham vấn với tư cách là bên thứ ba. Điều kiện để được tham gia với tư cách này là được sự đồng ý của thành viên được yêu cầu tham vấn trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu tham vấn. Trong thời gian này, thành viên được yêu cầu tham vấn sẽ xem xét và chấp thuận yêu cầu tham gia của thành viên có liên quan vào thủ tục tham vấn khi xét thấy quyền lợi mang tính thương mại của mình được đề cập là có căn cứ.
Thứ ba, nếu thành viên được yêu cầu tham vấn không chấp nhận yêu cầu tham vấn thì thành viên có nguyện vọng tham gia tư cách bên thứ ba có quyền tự do yêu cầu tham vấntheo quy định tại khoản 1, Điều XXII hoặc khoản 1, Điều XXIII của Hiệp định chung về Thuế quan và thương mại (GATS), hoặc những điều khoản tương tự trong các hiệp định có liên quan khác.
Căn cứ theo quy định của DSU trên đây, một thành viên trở thành bên thứ ba trong giai đoạn tham vấn với điều kiện khá đơn giản. Điều này cũng góp phần thể hiện cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO không những đảm bảo lợi ích của các bên tranh chấp mà còn chú trọng tới lợi ích của bất kì thành viên nào khi xét thấy lợi ích của mình có liên quan. Thực tế, các bên khi yêu cầu tham gia vụ tranh chấp với tư cách bên thứ ba đều được chấp nhận, Trên thực tế, hầu hết các yêu cầu tham gia với tư cách bên thứ ba đều được chấp nhận với lý do là nước đó có lợi ích chung có tính hệ thống liên quan đến vụ kiện[4].
Giai đoạn Ban hộithẩm xem xét
Thành viên yêu cầu tham vấn có thể trực tiếp gửi văn bản yêu cầu DSBthành lập Ban hội thẩm nhằm thực hiện việc xem xét giải quyết tranh chấp nếu việc tham vấn không đạt được kết quả như mong muốn. Ở giai đoạn xem xét bởi Ban hội thẩm của DSU, thành viên được quyền tham gia với tư cách khi cho rằng quyền lợi đáng kể đối với vấn đề đang được xem xét bởi cơ quan này và không cần phải được sự đồng ý của nguyên đơn hay bị đơn[5] (khoản 2, Điều 10 DSU).
Ở giai đoạn này, bên thứ ba đã thực sự được sử dụng quyền tham gia đểthể hiện vai trò và ảnh hưởng của mình trong vụ tranh chấp giữa các bên như sau. Cụ thể theo quy định của DSU, bên thứ ba có quyền:
Thứ nhất, bên thứ ba khi tham gia vụ tranh chấp có quyền được trình bày ý kiến của mình bằng văn bản trước Ban Hội thẩm về các vấn đề được xem xét trong tranh chấp
Thứ hai, những ý kiến này phải được Ban Hội thẩm ghi nhận và viết trong báo cáo, song song vơi đó, văn bản này phải được gửi tới các bên tranh chấp.
Thứ ba, bên thứ ba khi tham gia vụ tranh chấp có quyền trình bày ý kiến tại các phiên họp trước Ban Hội thẩm khi Ban này chủ trì cuộc họp.
Thứ tư, bên thứ ba cũng có quyền được nhận văn bản do các bên tranh chấp đệ trình ở phiên họp đầu tiên do Ban Hội thẩm xem xét.
Từ những phân tích về các quy định trên đây, tham gia ở giai đoạn xem xét bởi Ban hội thẩm, bên thứ ba đã thể hiện một cách đầy đủ và rõ nét nhất quyền can thiệp của mình vào cơ chế giải quyết tranh chấp giữa các bên để bảo vệ quyền lợi của chính thành viên đó.
Giai đoạn Cơ quan phúcthẩm xem xét
Trong trường hợp các bên tranh chấp thực hiện quyền kháng cáo báo cáo của Ban hội thẩm bằng cách gửi “quyết định kháng cáo” tới DSB trong thời gian quy định, thì DSB sẽ chuyển vụ việc để Cơ quan phúc thẩm (AB) để thụ lý giải quyết. Theo đó, cơ quan này có nhiệm vụ xem xét các kháng cáo của bên tranh chấp có nội dung liên quan về măt pháp lý và vấn đề giải thích của pháp luật trong nội dung báo cáo của Ban Hội thẩm. Ở giai đoạn phúc thẩm này, việc tham gia tưcách bênthứbađượcquyđịnhtạikhoản4,Điều17DSUvàđượcgiảithíchnhưsau:
Một là, các bên tranh chấp không có quyền trì hoãn hay phải đối việc một thành viên tiếp tục tham gia thủ tục phúc thẩm trong giai đoạn này. Thành viên này đã có yêu cầu tham gia với tư cách bên thứ ba gửi DSB trong giai đoạn xem xét bởi Bản hội thẩm sẽ tiếp tục được tham gia với tư cách này ở giai đoạn xem xét bởi Cơ quan phúc thẩm;
Hai là, chủ thể tham gia với tư cách bên thứ ba vào vụ kiện có quyền thể hiện ý kiến của mình trong văn bản báo cáo gửi tới AB khi xem xét giải quyết tranh chấp;
Ba là, khi AB chủ trì phiên họp thì chủ thể tham gia với tư cách bên thứ ba được phép trình bày quan điểm, ý kiến của mình;
Bốn là, AB có trách nhiệm ghi nhận và phản ánh các ý kiến của bên tham dự với tư cách là bên thứ ba ở giai đoạn này.
Như vậy, xem xét căn cứ quy định thẩm quyền củaCơ quan phúcthẩm đối với việc quyết định về việc tham gia của bênthứbatrong giai đoạn này có thể thấy bên thứ ba đượctạođiềukiệnđểthểhiệnýchí,quanđiểm của mình đối với cơ quan xét xử tranh chấp với mục đích bảo vệ lợi ích củamình.
Thực thi phán quyết
Sau khi báo cáo của Ban hội thẩm hoặc Cơ quan phúc thẩm được DSB thông qua theo nguyên tắc “đồng thuận phủ quyết”, các khuyến nghị và phán quyết của DSB sẽ có hiệu lực bắt buộc và ngay lập tức đối với đối với các bên tranh chấp. Đây là một trong những quy định thiết yếu giúp cho các mục tiêu của việc giải quyết tranh chấp được hiệu quả và đảm bảo lợi ích của tất cả các thành viên WTO.
Ngoài ra,DSB có trách nhiệm duy trì và giám sát việc thực hiện hoặc các phán quyết đã được thông qua và đã có hiệu lực bắt buộc thi hành với các bên tranh chấp theo quy định của DSU. Mặt khác, bất cứ thành viên nào của DSB kể cả thành viên tham gia với tư cách thứ ba đều có thể sử dụng quyền yêu cầu cơ quan giải quyết tranh chấp này tiếp tục giám sát việc thực hiện các khuyến nghị và phán quyết mà mình đã đưa ra;
Bên cạnh đó, trong giai đoạn thực thi phán quyết của DSB, bên thứ ba có quyền bắt đầu một vụ kiện mới nếu cho rằng quyền lợi của mình bị xâm hại hoặc bị ảnh hưởng bởi các khuyến nghị hoặc quyết định của cơ quan giải quyết tranh chấp liên quan theo bất cứ hiệp định nào có liên quan (khoản 4, Điều 10 DSU).
Như vậy, có thể thấy rằng vai trò của bên thứ ba khi tham gia vụ tranh chấp không dừng lại ở việc tham gia vào giai đoạn thực thi phán quyết mà còn có vai trò tham gia ở khác giai đoạn giải quyết tranh chấp khác nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp khác của bất cứ thành viên nào của WTO mà không phải là bên tranh chấp.
2.Tòa án Công lý quốc tế ICJ
Cơ quan tư pháp thuộc hệ thống các cơ quan của Liên Hiệp quốc là Tòa án Công lý quốc tế (ICJ). ICJ được thành lập và hoạt động theo quy định của Hiến chương Liên hợp quốc. Theo quy định của Hiến chương liên hợp quốc, ICJ được tổ chức và hoạt động theo Quy chế của Tòa án Công lý quốc tế. Quy chế của Tòa án này được thiết lập vào năm 1946 và là một bộ phận quan trọng của Hiến chương. Quy định về việc tham gia cơ chế giải quyết tranh chấp của ICJ với tư cách là bên thứ ba được ghi nhận tại các Điều 62, Điều 63 của Quy chế của Tòa án. Theo đó, Điều 62 Quy chế Tòa án quy định:
“1. Nếu như một quốc gia nào đó thấy rằng phán quyết về vụ tranh chấp có thể động chạm đến lợi ích nào đó có tính chất pháp lý của quốc gia đó thì nước đó có thể yêu cầu Tòa án quyết định cho tham gia vào vụ việcđó.
2. Quyết định một yêu cầu như vậy thuộc về Tòaán.”
Như vậy, có thể thấy rằng một quốc gia có quyền yêu cầu ICJ cho tham gia vụ kiện với tư cách là bên thứ ba nếu có căn cứ cho rằng phán quyết của Tòa án về vụ tranh chấp giữa các bên có thể vi phạm lợi ích nào đó của họ mà có tính chất pháp lý của quốc gia đó. Việc tham gia vào vụ kiện với tư cáchlà bên thứ ba phải được Tòa án xem xét và ra quyếtđịnh.
Điều 63 về quy chế Tòa án của Liên hiệp Quốc quy định:
1. Trong trường hợp xảy ra các vấn đề phải giải thích bản điều ước mà trong đó, trừ các bên hữu quan của vụ tranh chấp có các quốc gia khác tham gia, thư ký Tòa án phải nhanh chóng báo cho tất cả các quốc gianày.
2. Mỗi quốc gia trong số các quốc gia này sau khi đã nhận được thông báo, có quyền tham gia vào vụ việc, và nếu quốc gia đó sử dụng quyền này, thì việc giải thích được ghi trong phán quyết cũng nhất thiết nhưnhau.”
Theo quy định tại Điều 63 của Quy chế này, nếu Tòa án phải giải thích điều ước quốc tế có liên quan đến các bên trong tranh chấp và những thành viên của điều ước đó thì những nước này sẽ được Tòa án thông báo và được quyền tham gia vào vụ việc tranh chấp với tư cách là bên thứ ba. Vấn đề giải thích điều ước trong phán quyết phải là như nhau đối với tất cả các nước tham gia vụ tranh chấp kể cả với tư cách là bên thứ ba.
3. Tòa án quốc tế về Luật biển (ITLOS)
Công ước Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 (UNCLOS đã quy định việc thành lậpTòa án quốc tế về Luật biển (ITLOS). Tòa án quốc tế này được tổ chức và hoạt động theo Quy chế của Tòa án quốc tế về Luật biển (Phụ lục VI của UNCLOS). Thẩm quyền của ITLOS về giải quyết tranh chấp quốc tế được quy định tại Điều 21 của Quy chế này: “Tòa án có thẩm quyền đối với tất cả các vụ tranh chấp và tất cả các yêu cầu được đưa ra Tòa theo đúng Công ước, và đối với tất cả các trường hợp được trù định rõ trong mọi thỏa thuận khác, giao thẩm quyền cho Tòa án.”.
Căn cứ theo Quy chế của ITLOS, Tòa có thẩm quyền xem xét đơn đề nghị và cho phép một nước tham gia với tư cách là bên thứ ba trong vụ kiện liên quan. Cơ sở pháp lý của việc tham gia cơ chế giải quyết tranh chấp với tư cách là bên thứ ba cũng được quy định cụ thể tại Điều 31 và Điều 32 của Quy chế. Điều 31 về việc yêu cầu được tham gia quy định như sau:
“Trong một vụ tranh chấp, khi một quốc gia thành viên cho rằng một quyền lợi có tính chất pháp lý của mình bị đụng chạm, thì có thể gửi lên cho Toà án một đơn thỉnh cầu để yêu cầu xin thamgia.
- Toà án phát biểu ý kiến về đơn thỉnh cầunày.
- Nếu Toà án chấp nhận đơn thỉnh cầu, thì quyết định liên quan đến vụ tranh chấp có tính chất bắt buộc đối với quốc gia xin tham gia trong phạm vi mà quyết định này có quan hệ đến các điểm là nội dung của việc thamgia.”
Theo quy định tại Điều 31 của Quy chế được hiểu là một thành viên có quyền gửi yêu cầu cho Tòa án về việc tham gia vụ tranh chấp nếu có căn cứ cho rằng quyền hợp phápcủa mình bị xâm hại. Yêu cầu tham gia với tư cách là bên thứ ba này sẽ được Tòa án xem xét. Nếu Tòa án chấp nhận yêu cầu, thì quyết định liên quan đến vụ tranh chấp sẽ có tính chất bắt buộc đối với bên thứ ba trong phạm vi các điểm là nội dung của việc tham gia.
Điều 32 về quyền can thiệp và những vấn đề giải thích hay áp dụng quy định:
“Khi một vấn đề về giải thích hay áp dụng Công ước được đặt ra, thư ký Toà án lập tức thông báo cho tất cả các quốc gia thànhviên.
- Trong khuôn khổ của các Điều 21 và 22 của Phụ lục này, khi việc giải thích hay áp dụng một điều ước quốc tế được đặt ra, thư ký Toà án thông báo điều đó cho tất cả các bên tham gia vào điều ướcđó.
- Mỗi bên nói ở các khoản 1 và 2 có quyền tham dự vào vụ kiện, và nếu bên đó thi hành quyền hạn này, thì nội dung giải thích trong bản án cũng có tính chất bắt buộc đối với bênđó.”
TheoquyđịnhtạiĐiều32củaQuychếnàycóthểđượchiểulàtrườnghợp liên quan đến nội dung giải thích và áp dụng Công ước, thì tất cả các quốc gia thành viên sẽ được Tòa án thông báo và có quyền tham gia với tư cách là bên thứ ba trong vụ kiện. Trường hợp liên quan đến việc giải thích hay áp dụng một điều ước quốc tế trong khuôn khổ của các Điều 21 và 22 của Phụ lục VI của Quy chế, các thành viên của điều ước đó sẽ được Tòa án thông báo và có quyền tham gia với tư cách là bên thứ ba trong vụ kiện.
4. Cơ quan giải quyết tranh chấp của ASEAN
Ngày 20/11/2007, Hiến chương ASEAN đã được các nhà Lãnh đạo ASEAN đã ký thông qua tại Hội nghị Cấp cao ASEAN-13 tại Singapore. Hiến chương ASEAN chính thức có hiệu lực từ ngày 15/12/2008. Các quốc gia ASEAN một lần nữa thể hiện tôn chỉ và mục đích của mình nhằm “cùng hợp tác phát triển, hỗ trợ nhau tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội và phát triển văn hóa trong khu vực thông qua các nỗ lực chung trên tinh thần bình đẳng và hợp tác nhằm tăng cường cơ sở cho một cộng đồng các nước Đông Nam Á hòa bình và thịnh vượng”[6]. Theo quy định tại Điều 24 của Hiến chương các tranh chấp liên quan đến các lĩnh vực hợp tác kinh tế, thương mại, nếu không có quy định giải quyết tranh chấp riêng trong văn kiện có liên quan sẽ giải quyết theo các quy định của Nghị định thư ASEAN về tăng cường cơ chế giải quyết tranh chấp năm 2004 (gọi tắt Nghị định thư 2004).
Nghị định thư 2004 (gồm 21 điều và 02 phụ lục) được ký ngày 29/11/2004 và thay thế Nghị định thư năm 1996 được ký kết trước đó. Nội dung của Nghị định thư 2004 quy định về cơ chế giải quyết tranh chấp kinh tế - thương mại củaASEAN.CóthểthấyrằngNghịđịnhthư2004cónhữngquyđịnhtươngtựvớicác quy định của cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO (DSU). Đặc biệt là quy định của Nghị định thư về việc tham gia cơ chế giải quyết tranh chấp với tư cách là bên thứ ba trong quy trình thủ tục tố tụng của cơ chế giải quyết tranh chấp ASEAN. Theo quy định tại Điều 11 của Nghị định thư 2004[7], bên thứ ba trong vụ tranh chấp có những quyền lợi như sau:
Bên thứ ba có quyền lợi liên quan đến hiệp định được xem xét đầy đủ trong quá trình giải quyết tranh chấp của Ban hộithẩm;
Bên thứ ba nếu xét thấy quyền lợi đáng kể liên quan đến vụ kiện cho thể thông báo cho SEOM để tham gia vào vụkiện;
Bên thứ ba có quyền được điều trần trước và gửi văn bản giải trình cho Ban hội thẩm. Bản giải trình này sẽ được gửi cho các bên tranh chấp và được phản ánh trong báo cáo của Ban hội thẩm;
Bên thứ ba sẽ được nhận bản giải trình của các bên tranh chấp tại cuộc họp chính thức đầu tiên của Ban hội thẩm liên quan đến vụkiện;
Bên thứ ba có thể khởi kiện một vụ việc mới nếu có căn cứ cho rằng biện pháp là đối tượng điều tra của Ban hội thẩm đã làm mất mát hoặc gây tổn hại đến quyền lợi củamình.
Bên cạnh đó, các nước ASEAN cùng ký kết Nghị định thư của Hiến chương ASEAN về cơ chế giải quyết tranh chấp (gọi tắt Nghị định thư 2010) vào ngày 8/4/2010 tại Hà Nội. Nghị định thư được đánh giá là một văn kiện quan trọng nhằm góp phần hoàn thiện khung pháp lý theo quy định của Hiến chương ASEAN. Đồng thời, mục tiêu của Nghị định thư này nhằm tạo khuôn khổ pháp lý để giải quyết các tranh chấp phát sinh do sự nhận thức khác nhau trong quá trình thực hiện Hiến chương ASEAN và các văn bản khác của hiến chương. Về phạm vi của Nghị định thư 2010 áp dụng cho các tranh chấp liên quan đến: (1) giải thích và áp dụng Hiến chương ASEAN; (2) các văn kiện khác của ASEAN không quy định các biện pháp giải quyết tranh chấp; (3) các văn kiện khác của ASEAN quy định sẽ áp dụng Nghị định thư; (4) trường hợp các Bên tranh chấp cùng áp dụng Nghị định thư này[8]. Có thể nói Nghị định thư 2010 có tham vọng xây dựng các cơ chế giải quyết tranh chấp cho tất cả các loại hình tranh chấp còn lại không thuộc phạm vi điều chỉnh của Hiệp ước Bali (TAC), Nghị định thư 2004 và các văn kiện cụ thểkhác của ASEAN. Về mặt chính trị, ASEAN xây dựng Nghị định thư 2010 nhằm tăng cường năng lực giải quyết tranh chấp giữa các nước thành viên với mục đích không tạo nên xung đột, tạo điều kiện xây dựng một môi trường hòa bình, ổn định và hợp tác giữa các nước thành viên để từ đó giúp các quốc gia này thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế, và xây dựng một khu vực Đông Nam Á thống nhất, vững mạnh và thịnh vượng. Về căn cứ pháp lý, Nghị định thư 2010 đã quy định các biện pháp giải quyết tranh chấp cụ thể bao gồm: Tham vấn; Môi giới; Trung gian; Hòa giải; và Trọng tài. Nghị định thư 2010 tiếp tục quy định cho các nước thành viên có thể tham gia cơ chế giải quyết tranh chấp với tư cách là bên thứ ba tại Điều 13 Nghị định thư 2010[9]. Theo đó:
Bất kỳ nước thành viên nào đã có thông báo về lợi ích đáng kể trong vấn đề tranh chấp trong vòng 30 ngày kể từ ngày thông báo về việc trả lời của bên được yêu cầu có quyền yêu cầu thành lập Hội đồng trọng tài căn cứ theo khoản 3, Điều 8 hoặc có thể được quyền tham gia với tư cách là bên thứ ba trong tranh chấp.
Bên thứ ba có cơ hội thể hiện ý kiến của mình bằng cách tham gia phát biểu và gửi văn bản cho Hội đồng trọng tài. Những văn bản này sẽ được gửi cho các bên tranh chấp và sẽ được phản ánh trong các phán quyết của Hội đồng trọng tài.
Bên thứ ba sẽ được nhận các văn bản đệ trình của các bên tranh chấp trong cuộc họp chính thức đầu tiên của Hội đồng trọng tài.
Từ những phân tích các quy định trên đây, có thể khẳng định rằng các quy định về tham gia cơ chế giải quyết tranh chấp với tư cách bên thứ ba của ASEAN rất giống với các quy định của DSU. Bằng việc học hỏi một cơ chế giải quyết tranh chấp đáng tin cậy và hiệu quả của WTO, Nghị định thư 2004 và Nghị định thư 2010 tạo cơ sở pháp lý quan trọng trong cơ chế giải quyết tranh chấp về kinh tế - thương mại, các tranh chấp khác liên quan đến việc giải thích Hiến chương ASEAN, các tranh chấp khác chưa được quy định trong các văn bản của ASEAN,... Điều này góp phần lý giải tại sao ASEAN có xu hướng tạo thành một mô hình cơ chế giải quyết tranh chấp thu nhỏ của WTO trong khu vực, đồng thời mở rộng quy mô giải quyết các các tranh chấp liên quan đến các lĩnh vực mà các nước thành viên ASEAN cùng tham gia.
Từ kết quả nghiên cứu và phân tích trên, có thể thấy cơ sở pháp lý của việc tham gia vụ tranh chấp với tư cách là bên thứ ba tại một số thiết chế tài phán quốc tế điển hình có một số điểm nhận xét như sau:
Một là,cơ sở pháp lý việc tham gia vụ tranh chấp với tư cách là bên thứ ba tại một số thiết chế tài phán quốc tế được quy định một cách cụ thể bằng văn bản pháp lý được thể hiện dưới dạng như: Điều ước quốc tế, Bản thỏa thuận ghi nhớ, Quy chế Tòa án v.v.. Đây là những văn bản có tính chất pháp lý quốc tế được các thành viên công nhận và vận dung khi tham gia vụ tranh chấp với tư cách là bên thứ ba tại các thiết chế tài phán quốc tế.
Thứ hai, quy định tham gia vụ tranh chấp với tư cách là bên thứ ba tại các thiết chế tài phán quốc tế cũng có những điểm khác biệt nhất định khi so sánh. Cụ thể, tham gia vụ tranh chấp với tư cách bên thứ ba tại Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO, Cơ quan giải quyết tranh chấp của ASEAN có thể đề nghị cơ quan xét xử cho phép tham gia ở các giai đoạn khác nhau trong quá trình giải quyết tranh chấp như: Giai đoạn tham vấn; Giai đoạn xem xét bởi Ban hội thẩm; Giai đoạn xem xét bởi Cơ quan phúc thẩm; Giai đoạn thực thi phán quyết. Trong khi đó, tham gia vụ tranh chấp với tư cách bên thứ ba tại ICJ, ITLOS diễn ra sau khi các bên tranh chấp có yêu cầu Tòa án xem xét thụ lý và giải quyết vụ việc. Việc tham gia vụ tranh chấp với tư cách là bên thứ ba được Tòa xem xét trên cơ sởtham vấn ý kiến của các bên tranh chấp. Tư cách bên thứ ba tham gia vụ tranh chấp sẽ được Tòa án chấp thuận và cho phép tham gia vụ tranh chấp cho đến khi có phán quyết cuối cùng của Tòa.
Thứ ba, cơ sở pháp lý việc tham gia vụ tranh chấp với tư cách bên thứ ba tại các thiết chế tài phán quốc tế có những đặc điểm khác biệt so với những hình thức khác như tham gia với tư cách bên tranh chấp, tư cách quan sát viên, hay tham gia bằng cơ chế Amicus Curiae (cơ chế bạn của Tòa án). Hình thức tham gia với tư cách bên thứ ba có những điểm tương đồng và khác biệt khi so sánh với một trong các hình tham gia này.
[1]http://www.wto.or
[2]Liên hợp quốc (1946), Quy chế của Tòa án Công lý quốctế
[3]Quy định tại khoản 1, Điều XXII của GATT 1994, khoản 1, Điều XXII của GATS
[4]Nguyễn Tiến Vinh (2011), “Một số vấn đề nhìn từ góc độ tố tụng trong vụ kiện đầu tiên của Việt Nam tại WTO”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp
[5]Khoản 2 điều 10 DSU
[6]Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (2007), Hiến chương Hiệp hội các quốc gia Đông NamÁ
[7]Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (2004), Nghị định thư về tăng cường cơ chế giải quyết tranh chấp củaASEAN.
[8]Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (2010), Nghị định thư của Hiến chương ASEAN về các cơ chế giải quyết tranhchấp
[9]Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (2010), Nghị định thư của Hiến chương ASEAN về các cơ chế giải quyết tranhchấp