Thứ tư, 09 Tháng 11 2022 15:47

Góp ý các giải pháp đảm bảo thi hành pháp luật hợp đồng gia nhập

Việc thực hiện các giải pháp hoàn thiện pháp luật hợp đồng gia nhập, cần phải tiến hành đồng bộ với nhóm giải pháp đảm bảo thi hành pháp luật hợp đồng gia nhập, đây được coi là các giải pháp bổ trợ, các giải pháp này tập trung vào những vấn đề sau: Phát triển công nghệ thông tin để hỗ trợ việc đăng ký và công bố hợp đồng gia nhập; Nâng cao năng lực bộ máy thi hành pháp luật hợp đồng gia nhập; Đẩy mạnh việc phổ biến, giáo dục pháp luật hợp đồng gia nhập; Đảm bảo để các tranh chấp về hợp đồng gia nhập được giải quyết nhanh chóng tại Tòa giản lược theo thủ tục rút gọn.

1. Phát triển công nghệ thông tin để hỗ trợ việc đăng ký và công bố hợp đồng gia nhập

Một trong những tiền đề quan trọng đảm bảo cho việc thi hành hiệu quả các qui định pháp luật hợp đồng gia nhập là hạ tầng công nghệ thông tin. Việc quản lý của cơ quan nhà nước có thuận lợi hay không, có thúc đẩy các hoạt động giao kết và thực hiện hợp đồng gia nhập phát triển hay không cũng như để pháp luật hợp đồng gia nhập đi vào cuộc sống thì Việt Nam cần phải có hạ tầng công nghệ thông tin mạnh. Chính vì vậy, nhà nước cần quan tâm, ban hành các chính sách và có những biện pháp cụ thể khuyến khích đầu tư, thúc đẩy chuyển giao công nghệ nhằm phát triển hạ tầng công nghệ thông tin. Các chính sách này cần phải được triển khai thực hiện một cách nghiêm túc, đồng bộ và khẩn trương để tiến kịp trình độ công nghệ thông tin trên thế giới nhất là trong bối cảnh cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0 đang diễn ra tại nhiều quốc gia phát triển và tác động mạnh mẽ đến Việt Nam, việc này càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Phát triển công nghệ thông tin phải được coi là ngành kinh tế mũi nhọn và thực tế đã được Đảng, Nhà nước ưu tiên hỗ trợ, khuyến khích, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã nêu rõ “Phát triển hệ thống thông tin và phổ biến giáo dục pháp luật, xây dựng và triển khai Chương trình Quốc gia về phổ biến giáo dục pháp luật dài hạn. Hình thành Trung tâm Thông tin pháp luật quốc gia, phát triển mạng lưới thông tin pháp luật.”[1].

Phát triển công nghệ thông tin sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc phổ biến, giáo dục pháp luật hợp đồng gia nhập trên diện rộng, qua đó tổ chức và cá nhân có thể dễ dàng tiếp cận các văn bản pháp luật hợp đồng gia nhập cũng như thông tin liên quan đến hợp đồng gia nhập đã và đang được đăng ký. Mặt khác, công nghệ thông tin sẽ hỗ trợ hữu hiệu thương nhân trong việc đăng ký các mẫu hợp đồng gia nhập tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền qua mạng, điều này sẽ tiết kiệm đáng kể thời gian, tiền bạc và công sức của thương nhân cũng như của cơ quan nhà nước. Các hợp đồng gia nhập đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét và đăng ký sẽ được đưa lên trang Web công khai, từ đó người tiêu dùng có thể dễ dàng truy cập để nghiên cứu, tham khảo trước khi quyết định có giao kết hợp đồng hay không.

Để công nghệ thông tin trở thành mũi nhọn, nhà nước cần ban hành và phổ biến các tiêu chuẩn, qui chuẩn kỹ thuật quốc gia về chuẩn trao đổi dữ liệu điện tử ứng dụng trong giao kết hợp đồng gia nhập tới thương nhân đồng thời khuyến khích, hỗ trợ các hoạt động nghiên cứu, chuyển giao công nghệ nhằm phục vụ cho việc phát triển đăng ký hợp đồng gia nhập qua mạng nhanh chóng và thuận lợi.

2. Nâng cao năng lực bộ máy thi hành pháp luật hợp đồng gia nhập

Để việc thi hành pháp luật hợp đồng gia nhập đạt hiệu quả thì cần phải nâng cao năng lực cán bộ để từ đó có thể tổ chức tốt công tác thi hành và áp dụng pháp luật. Các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền cần xây dựng cơ chế, bộ máy phù hợp để giải quyết kịp thời những tranh chấp phát sinh trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng gia nhập cũng như các loại hợp đồng truyền thống khác.

Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế thế giới, số lượng các tranh chấp về hợp đồng gia nhập sẽ ngày càng gia tăng. Chính vì vậy, trong tương lai, Việt Nam cần tính đến việc xây dựng đội ngũ thẩm phán và trọng tài viên chuyên trách, có kiến thức chuyên sâu, có kỹ năng nhuần nhuyễn và dày dạn kinh nghiệm để kịp thời giải quyết các tranh chấp liên quan đến việc giao kết và thực hiện hợp đồng gia nhập, tiến tới việc áp dụng cơ chế giải quyết tranh chấp trực tuyến, tức là thực hiện các thủ tục tố tụng bao gồm cả tiến hành phiên họp giải quyết tranh chấp trên mạng internet đối với các vụ tranh chấp có giá trị nhỏ, đơn giản.

Bên cạnh đó, để đảm bảo thống nhất việc thi hành và áp dụng pháp luật hợp đồng gia nhập, nhà nước cần thường xuyên tổ chức đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao kiến thức chuyên môn, năng lực giải quyết việc của đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác thẩm tra, đăng ký hợp đồng gia nhập tại Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng, các Sở Công Thương và các ngành liên quan như: Tòa án; kiểm sát; thanh tra, điều này rất quan trọng bởi lẽ con người chính là nhân tố quyết định sự thành công. Cán bộ, công chức có năng lực, kiến thức chuyên môn sâu, kỹ năng nhuần nhuyễn và dày dạn kinh nghiệm mới có thể xử lý kịp thời, đúng pháp luật các hành vi vi phạm liên quan đến việc giao kết và thực hiện hợp đồng gia nhập. Trong tương lai, nhà nước cần nghiên cứu để có các bước đi cụ thể tiến tới thành lập tổ chức thanh tra chuyên ngành trong lĩnh vực hợp đồng gia nhập khi điều kiện chín muồi.

Đặc biệt, nhà nước cần tiến hành thường xuyên việc bồi dưỡng kiến thức pháp luật hợp đồng gia nhập, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, tập huấn kỹ năng xét xử các tranh chấp về hợp đồng gia nhập cho đội ngũ thẩm phán, hội thẩm nhân dân, trọng tài viên. Có như thế, họ mới đưa ra được những phán quyết công bằng, góp phần đảm bảo thi hành tốt các qui định pháp luật hợp đồng gia nhập.

3. Đẩy mạnh việc phổ biến, giáo dục pháp luật hợp đồng gia nhập

Phổ biến, giáo dục pháp luật là khâu đầu tiên của quá trình thi hành pháp luật và có vai trò quan trọng trong việc đưa pháp luật vào cuộc sống. Xuất phát từ vai trò, ý nghĩa quan trọng của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Do đó, Đảng và Nhà nước ta đã luôn quan tâm đến công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định ''Triển khai mạnh mẽ công tác tuyên truyền và giáo dục pháp luật; huy động lực lượng của các đoàn thể chính trị, xã hội, nghề nghiệp, các phương tiện thông tin đại chúng tham gia các đợt vận động thiết lập trật tự, kỷ cương và các hoạt động thường xuyên xây dựng nếp sống và làm việc theo pháp luật trong cơ quan nhà nước và trong xã hội.''[2]. Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới chỉ rõ “Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật với nhiều hình thức phong phú, sinh động, đặc biệt là thông qua các phiên tòa xét xử lưu động và bằng những phán quyết công minh để tuyên truyền, nâng cao ý thức pháp luật cho cán bộ và nhân dân.”[3]. Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 chỉ rõ “Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật; không ngừng nâng cao trình độ dân trí pháp lý, ý thức sống, làm việc theo Hiến pháp và pháp luật cho mọi người dân”[4]. Để cụ thể hóa định hướng nêu trên của Đảng, ngày 20/6/2012, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, tại kỳ họp thứ 3, đã thông qua Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật số 14/2012/QH13 và tiếp đó là các văn bản pháp luật hướng dẫn liên quan được ban hành, đây là những văn bản pháp luật quan trọng, giữ vai trò định hướng cho các hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung, trong đó có pháp luật hợp đồng gia nhập nói riêng.

Pháp luật hợp đồng gia nhập là một lĩnh vực còn khá mới mẻ đối với Việt Nam. Chính vì vậy, để các qui định pháp luật hợp đồng gia nhập đi vào cuộc sống thì việc phổ biến, giáo dục pháp luật có ý nghĩa rất quan trọng mà các cơ quan quản lý nhà nước phải giữ vai trò trung tâm, ngoài ra, để hoạt động này có hiệu quả cao thì cần có sự phối kết hợp từ nhiều phía. Trong quá trình triển khai hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật, cần hướng đến mục tiêu là làm sao để thương nhân, người tiêu dùng, khách hàng hiểu đúng và đầy đủ các qui định pháp luật hợp đồng gia nhập, từ đó có sự chuyển biến về nhận thức, thay đổi hành vi, tự giác thực hiện các qui định pháp luật mà nhà nước đã ban hành. Đây được xem là một trong những khâu then chốt giúp triển khai và đảm bảo thi hành hiệu quả các qui định pháp luật hợp đồng gia nhập trong đời sống xã hội.

Trong quá trình triển khai việc phổ biến, giáo dục pháp luật hợp đồng gia nhập cần đặc biệt chú trọng nhóm đối tượng thương nhân, bởi đây là nhóm đối tượng cung cấp hàng hóa, dịch vụ thiết yếu, là bên soạn thảo và đưa ra hợp đồng. Chính vì vậy, việc nhóm đối tượng này hiểu đúng, đầy đủ tinh thần của các qui định pháp luật và tự giác thực hiện sẽ dẫn đến hệ quả là giảm thiểu đáng kể các hợp đồng được giao kết theo tinh thần bất bình đẳng, bất lợi cho người tiêu dùng, từ đó hạn chế các hợp đồng gia nhập có nguy cơ bị tuyên vô hiệu. Mặt khác, việc này cũng có tác dụng nâng cao tính tự giác của thương nhân trong việc thực hiện nghĩa vụ đăng ký các mẫu hợp đồng gia nhập tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Đối với nhóm đối tượng là bên được đề nghị (chủ yếu là người tiêu dùng), hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật sẽ góp phần quan trọng trong việc giúp họ hiểu đúng, đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng gia nhập để từ đó họ tự giác thực hiện cũng như biết sử dụng các qui định pháp luật, các công cụ pháp lý để bảo vệ quyền lợi của mình trong trường hợp thương nhân có hành vi vi phạm.

Để công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đạt hiệu quả cao, trước hết cần tập trung vào các vấn đề then chốt như: Các kỹ năng cần thiết để giao kết hợp đồng gia nhập an toàn; Những rủi ro mà người tiêu dùng có thể gặp phải; Các quyền lợi mà người tiêu dùng được pháp luật bảo vệ khi giao kết và thực hiện hợp đồng gia nhập; Các nghĩa vụ mà người tiêu dùng phải thực hiện khi giao kết và thực hiện hợp đồng gia nhập...

Chính vì vậy, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật hợp đồng gia nhập có vai trò quan trọng trong việc nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của các chủ thể tham gia vào quan hệ hợp đồng, từ đó làm tiền đề để công tác thi hành pháp luật bảo vệ người tiêu dùng nói chung và pháp luật hợp đồng gia nhập nói riêng đạt hiệu quả cao.

4. Đảm bảo để các tranh chấp về hợp đồng gia nhập được giải quyết nhanh chóng tại Tòa giản lược theo thủ tục rút gọn

Trên thế giới, bên cạnh thủ tục tố tụng thông thường, nhiều quốc gia đã xây dựng và áp dụng thủ tục tố tụng rút gọn (summary procedure) để xử lý những vi phạm pháp luật nhỏ, giải quyết những tranh chấp, khiếu kiện có giá trị thấp, những vụ/việc đơn giản, chứng cứ rõ ràng nhằm mục đích nâng cao hiệu quả hoạt động của Tòa án, khắc phục những vấn đề mới nảy sinh trong xã hội, tiết kiệm thời gian, chi phí cho Tòa án và các đương sự.

Dựa trên các yếu tố lịch sử, văn hóa, tập quán, pháp luật... mà mỗi quốc gia lại có cách thức tổ chức cơ quan tư pháp khác nhau để giải quyết các vụ/việc theo thủ tục rút gọn. Nhật Bản thành lập các Tòa giản lược độc lập (Court of Summary Jurisdiction) ở cấp sơ thẩm để giải quyết theo thủ tục rút gọn đối với các vụ/việc hình sự và dân sự. Trong khi đó, Hoa Kỳ; Úc; Anh; Singapore thành lập các Tòa vi cảnh (Magistrate’s Court/Police Court) để xử lý các vi phạm hình sự nhỏ, thành lập các Tòa giải quyết các vụ/việc dân sự nhỏ (Small - Claims Court/Small - Debts Court/Court of Petty sessions). Trung Quốc, Hàn Quốc không thành lập các Tòa giản lược độc lập với Tòa án sơ thẩm thông thường mà thành lập các chi nhánh của Tòa án cấp sơ thẩm hoặc có qui định về thủ tục rút gọn để áp dụng giải quyết đối với các vụ/việc cụ thể.

Tại cuộc hội thảo khoa học về đổi mới tổ chức hoạt động của Tòa án nhân dân theo yêu cầu cải cách tư pháp ngày 27/3/2014 với sự tham gia của các chuyên gia và cố vấn pháp luật UNDP đã chia sẻ Tòa giản lược là mô hình phát triển khá phổ biến ở Mỹ và nhiều nước của khu vực Đông Nam Á như Singapore; Indonesia; Thái Lan. Nhiệm vụ của Tòa giản lược là giải quyết các vụ/việc đơn giản, chủ yếu là các tranh chấp dân sự có giá trị nhỏ, chứng cứ rõ ràng. Vụ/việc chỉ có một thẩm phán thụ lý giải quyết, được tiến hành theo thủ tục giản lược, tức là thủ tục rút gọn tối đa về mặt tố tụng. Chính vì vậy, Tòa giản lược ở đây được hiểu là phiên tòa được tiến hành xét xử theo thủ tục rút gọn để giải quyết các vụ/việc nhỏ, đơn giản, không phải là một cơ cấu tổ chức trong bộ máy Tòa án.

Về vấn đề mô hình Tòa án giải quyết các vụ/việc liên quan đến người tiêu dùng, trong đó có các tranh chấp liên quan đến hợp đồng gia nhập, Malaysia đã thành lập hẳn một Tòa án chuyên biệt (tribunal) để bảo vệ người tiêu dùng. Tòa Khiếu nại người tiêu dùng Malaysia (TCCM) là một tổ chức độc lập được lập ra theo Điều 85, phần XII của Luật Bảo vệ người tiêu dùng ban hành năm 1999 và có hiệu lực từ ngày 15/11/1999. TCCM có 1 chủ tịch, 1 phó chủ tịch và ít nhất 5 thẩm phán do Bộ trưởng Bộ Nội thương, hợp tác xã và tiêu thụ bổ nhiệm. Ở các địa phương, TCCM có chi nhánh (branch) và chi nhánh phụ (sub branch). Hiện tại TCCM có tất cả 16 chi nhánh và 23 chi nhánh phụ[5]. Đây cũng là mô hình Tòa án mà Việt Nam cần nghiên cứu, tham khảo.

Xuất phát từ tính hợp lý và hiệu quả của việc áp dụng thủ tục rút gọn khi xét xử các vụ án đơn giản, Đảng và Nhà nước ta đã có chủ trương thành lập Tòa giản lược và áp dụng thủ tục rút gọn. Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã nêu rõ “Xây dựng cơ chế xét xử theo thủ tục rút gọn đối với những vụ án có một số điều kiện nhất định”[6]. Hiện nay, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung theo hướng thành lập Tòa giản lược trong hệ thống Tòa án nhân dân nhằm giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục rút gọn khi đủ điều kiện[7]. Chức năng chính của Tòa giản lược là giải quyết các vụ/việc dân sự theo thủ tục rút gọn khi đủ điều kiện được qui định tại Điều 317 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và khoản 2 Điều 41 Luật Bảo vệ người tiêu dùng năm 2010 “Vụ án dân sự về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được giải quyết theo thủ tục đơn giản qui định trong pháp luật về tố tụng dân sự khi có đủ các điều kiện sau đây: a) Cá nhân là người tiêu dùng khởi kiện; tổ chức, cá nhân trực tiếp cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho người tiêu dùng bị khởi kiện; b) Vụ án đơn giản, chứng cứ rõ ràng; c) Giá trị giao dịch dưới 100 triệu đồng”. Như vậy, khi đủ các điều kiện như trên, Tòa giản lược sẽ có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục rút gọn vụ án đó.

Mặc dù các văn bản pháp luật liên quan đã qui định những thủ tục riêng, trong đó có nội dung “rút gọn” để Tòa án áp dụng giải quyết một số loại vụ/việc cụ thể nhưng các qui định này mới chỉ dừng lại ở tính nguyên tắc mà thiếu vắng đi các qui định cụ thể để có thể triển khai hiệu quả trên thực tế. Thực tiễn cho thấy, các qui định về trình tự tố tụng tại Tòa án chưa đầy đủ để có thể thực hiện theo thủ tục này[8]. Chính vì vậy, cần có sự nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện các qui định dưới luật cũng như phải có sự chỉ đạo sát sao của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì các tranh chấp về hợp đồng gia nhập mới có thể được giải quyết nhanh chóng tại Tòa giản lược theo thủ tục rút gọn.

 


[1] Bộ Chính trị (2005). “Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lƣợc cải cách pháp đến năm 2020”. http://hoiluatgiavn.o rg.vn/nghi-quyet-so-49-nqtw-ngay-02-thang-06-nam-2005-cua-bochinh-tri-v e-chien-luoc-cai-cach-tu-phap-den-nam-2020-d563.html, truy cập vào 22: 15' ngày 18/9/2016

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2015). “Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng”. http://dangcongsan.vn/tu-lieu-van-kien/tu-lieu-ve-dang/ dai-hoi-dang/lan-thu-viii/doc092620158470646.html, truy cập vào 21: 18', ngày 15/6/2016

[3] Bộ Chính trị (2002). “Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tƣ pháp trong thời gian tới”. http://thuvienphapluat.vn/van-ban/Bo-may-hanh-chinh/Nghiquyetso-08-NQ- TW-2002-nhiem-vu-trong-tam-cong-tac-tu-phap-165169.aspx, truy cập vào 20: 10', ngày 10/9/2016

[4] Bộ Chính trị (2005). “Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lƣợc cải cách pháp đến năm 2020”. http://hoiluatgiavn.o rg.vn/nghi-quyet-so-49-nqtw-ngay-02-thang-06-nam-2005-cua-bochinh-tri-v e-chien-luoc-cai-cach-tu-phap-den-nam-2020-d563.html, truy cập vào 22: 15' ngày 18/9/2016

[5] Thu Giang (2015). “Cần lập tòa án chuyên biệt bảo vệ người tiêu dùng”. http://www.baomoi.com/Can-lap-toa-an-chuyen-biet-bao-ve-nguoitieudung/c/18310892.epi, truy cập vào 22: 10', ngày 01/12/2016

[6] Bộ Chính trị (2005). “Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lƣợc cải cách pháp đến năm 2020”. http://hoiluatgiavn.o rg.vn/nghi-quyet-so-49-nqtw-ngay-02-thang-06-nam-2005-cua-bochinh-tri-v e-chien-luoc-cai-cach-tu-phap-den-nam-2020-d563.html, truy cập vào 22: 15' ngày 18/9/2016

[7] Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng Dân sự, Hà Nội, từ Điều 316 đến Điều 324

[8] Doãn Hồng Nhung (Chủ biên), Hoàng Anh Dũng (2018), Pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng theo mẫu trong mua bán căn hộ chung cư tại Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.105

Đăng ký nhận email

Đăng ký email để có thể có được những cập nhật mới nhất về tải liệu được đăng tải trên website

Tập san đã phát hành