In trang này
Thứ hai, 24 Tháng 4 2023 22:37

Một số vấn đề về đô thị hóa ở các nước trên thế giới

Đô thị hóa là quá trình dân số nông thôn chuyển đổi thành dân số thành thị và dấu hiệu chính của quá trình này là việc người dân nông thôn không ngừng di chuyển đến các thành phố, các ngành công nghiệp và dịch vụ ở đô thị phát triển, số lượng đô thị gia tăng, quy mô đô thị được mở rộng, cảnh quan đô thị dần thay đổi. Trong quá trình phát triển đô thị hóa, cùng với việc chuyển đổi từ lối sống nông thôn sang lối sống đô thị, văn minh đô thị và ý thức đô thị cũng dần được phổ biến và lan rộng. Theo nghĩa hiện đại, đô thị hóa là một hiện tượng phát triển của xã hội sau khi nhân loại bước vào xã hội công nghiệp. Theo Báo cáo Đô thị hóa của Liên hợp quốc năm 2010, năm 1800, dân số đô thị toàn cầu là 50 triệu người, tỷ lệ đô thị hóa khoảng 5,1%. Năm 1900, dân số đô thị đạt 220 triệu người, tỷ lệ đô thị hóa khoảng 13,3%. Năm 2009, lần đầu tiên tỷ lệ đô thị hóa toàn cầu vượt qua 50%, dân số đô thị đạt 3,42 tỷ người, nhân loại bước vào kỳ nguyên đô thị. Nhìn tổng quan về quá trình đô thị hải trên thế giới, đô thị hóa bắt đầu từ Tây Âu và dần dẫn mở rộng sang các khu vực khác của châu Âu, châu Mỹ và châu Đại Dương, sau đó lan sang châu Á và châu Phi. hình thành bốn làn sóng lớn trên khắp thế giới.

1. Nước Anh là trung tâm của làn sóng đô thị hóa thế giới thứ nhất

Do ảnh hưởng của cuộc cách mạng công nghiệp, làn sống đô thị hóa đầu tiên diễn ra tại các nước Tây Âu. Anh là nước khởi nguồn của cuộc cách mạng công nghiệp, cũng là nước đầu tiên tiến hành công nghiệp hóa và đô thị hóa. Năm 1760, sau khi cuộc cách mạng công nghiệp nổ ra ở Anh, sự xuất hiện của các loại máy móc cơ giới hóa nông nghiệp, trong đó điển hình là các loại máy hơi nước đã thúc đẩy cuộc cách mạng kỹ thuật trong nông nghiệp, từ đó kéo theo sự phát triển của lực lượng sản xuất nông nghiệp của nước Anh. Nông thôn nước Anh vào giữa thế kỷ XVIII đã xuất hiện tình trạng lao động dư thừa dịch chuyển đến các thành phố, quá trình đô thị hóa ở Anh do đó càng được đẩy nhanh “Phong trào bao vây” đã làm thay đổi phương thức tổ chức sản xuất nông nghiệp, các nông trường lớn được h hình thành, mức độ quy mô hóa sản xuất nông nghiệp đã nâng cao hơn nữa hiệu quả sản xuất nông sản và chăn nuôi, giải phóng một lượng lớn lao động dư thừa ở nông thôn và đã đáp ứng được nhu cầu hai chiều về nguyên liệu và lực lượng lao động của ngành công nghiệp dệt len. Trong khi đó, tiến trình công nghiệp hóa đô thị đã khiến cho công cụ sản xuất nông nghiệp và chất lượng cuộc sống của nông dân được cải thiện rất nhiều, đồng thời cũng thúc đẩy quá trình hiện đại hóa nông thôn. Trong vòng gần 10 năm từ cuối thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX, tỷ lệ dân số đô thị của Anh đã tăng từ 20% lên 51%, từ đó đã đưa Anh trở thành quốc gia có mức độ đô thị hóa cao đầu tiên trên thế giới thực hiện được sự phát triển đồng bộ giữa đô thị hóa và hiện đại hóa nông thôn.

Đô thị hóa sau khi được thực hiện ở Anh đã dần lan rộng sang các nước láng giềng. Một số nước như Đức, Hà Lan, Pháp, Đan Mạch, Tây Ban Nha nhanh chóng tiếp bước theo sau. London, Paris và Berlin hình thành một khu vực “Tam giác vàng” (Chuối xanh dương[1]), bao gồm khu công nghiệp ở miền Đông Nam nước Anh, khu công nghiệp phía Đông Bắc nước Pháp và khu công nghiệp Ruhr ở nước Đức, đây chính là trung tâm phát triển của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở châu Âu. Làn sóng đô thị hóa đầu tiên bắt đầu vào thế kỷ XIX. Đến khoảng năm 1950, mức độ đô thị hóa ở hầu hết các quốc gia Tây Âu đã đạt hơn 60% và quá trình đô thị hóa tại các nước này đã bước vào giai đoạn phát triển chín muối.

2. Làn sóng thứ hai với đại diện điển hình là Mỹ

Làn sóng đô thị hóa thứ hai bắt đầu từ nửa sau thế kỷ XIX. Làn sóng này chịu ảnh hưởng của quá trình mở rộng thuộc địa, sự phát triển của công nghiệp hóa và công nghệ kỹ thuật, chủ yếu diễn ra tại châu Mỹ và châu Đại Dương, bao gồm các nước lớn như Mỹ, Canada, Ôxtrâylia. Trong đó Mỹ là đại diện điển hình. Năm 1920, mức độ đô thị hóa ở Mỹ đạt 51,2%. Trong thời kỳ đầu, việc ưu tiên phát triển các thành phố lớn chính là hướng đi chủ yếu của quá trình đô thị hóa ở Mỹ và kết quả của quá trình đó là sự xuất hiện của các thành phố lớn với số dân hơn 1 triệu người như New York, Chicago, Philadelphia. Từ sau năm 1920, đặc biệt là vào những năm 40 của thế kỷ XX, cùng với sự phát triển của kinh tế và sự phổ biến của xe hơi, nhiều người dân đô thị đã chuyển đến các vùng ngoại ô, cấu trúc không gian đô thị của Mỹ đã có những thay đổi rõ nét, từ cấu trúc chặt chẽ và dày đặc ban đầu đến cấu trúc phân tán đa trung tâm. Về kết cấu không gian, các thành phố dần lan rộng ra bên ngoài dọc theo các tuyến đường quốc lộ với mật độ thấp. Sự phát triển lan rộng với mật độ thấp đã giúp giảm mật độ dân số và thu hẹp khoảng cách phát triển giữa thành thị, ngoại ô và nông thôn[2].

Vào khoảng những năm 50 của thế kỷ XX, Mỹ, Ôxtrâylia, Canada và các quốc gia khác đều đã bước vào giai đoạn chín muồi của quá trình đô thị hóa. Quá trình đô thị hóa của Canada gần như diễn ra cùng thời gian với Mỹ, nhưng do mức độ tập trung dân số khá thấp nên vào những năm 70 của thế kỷ XX mức tăng trưởng của dân số đô thị cũng dần chậm lại. Dân số đô thị của Ôxtrâylia tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn. Hiện nay, Ôxtrâylia đã trở thành một trong những quốc gia có mức độ đô thị hóa cao nhất thế giới, với tỷ lệ đô thị hóa là 93%[3].

3. Làn sóng thứ ba diễn ra chủ yếu tại Braxin và Mêhicô, Nhật Bản và Hàn Quốc

Sau Chiến tranh thế giới thứ hai một làn sóng đô thị hóa lại tiếp tục diễn ra kéo dài trong vòng nửa thế kỷ và bước vào giai đoạn đỉnh cao vào khoảng năm 2000. Về loại hình đô thị hóa, có hai mô hình phát triển khác nhau, đại diện cho hai mô hình này lần lượt là Braxin, Mêhicô và Nhật Bản, Hàn Quốc.

Braxin và Mêhicô là hai đại diện tiêu biểu cho quá trình đô thị hóa của các nước Mỹ Latinh, quá trình này bắt đầu từ những năm 50 của thế kỷ XX. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, việc các nước Mỹ Latinh thực hiện chiến lược công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu đã thúc đẩy các ngành công nghiệp nặng phát triển, trong bối cảnh đó, các ngành công nghiệp tập trung vốn chỉ tập trung ở một số thành phố lớn, các quốc gia cũng chỉ tập trung đầu tư xây dựng đô thị ở các thành phố này. Ở khu vực nông thôn, một mặt, sự phát triển của chủ nghĩa tư bản nông nghiệp đã làm tăng mức độ tập trung của đất đai và vốn; mặt khác, việc nhà nước ít đầu tư vào nông nghiệp và nông thôn đã khiến ngành nông nghiệp suy yếu và môi trường sống ở nông thôn bị ảnh hưởng, rất nhiều người dân không thể tiếp tục sinh sống ở khu vực này. Trong bối cảnh đó, một số lượng lớn người dân nông thôn đã di cư vào các thành phố, chủ yếu là một số thành phố lớn, khiến tốc độ tăng trưởng dân số đô thị của khu vực Mỹ Latinh vượt xa các quốc gia khác. Mặc dù tỷ lệ đô thị hóa ở Mỹ Latinh gần bằng các nước phát triển, nhưng trình độ phát triển kinh tế chỉ bằng 5-10% các nước này, thậm chí thấp hơn, chất lượng phát triển đô thị cũng tương đối thấp. Cuối những năm 1990, các nước Mỹ Latinh bắt đầu áp dụng các biện pháp để giải quyết vấn đề đô thị hóa quá nhanh, bao gồm kiểm soát mức độ tăng trưởng dân số, tăng đầu tư vào nông nghiệp và nông thôn, thay đổi kết cấu đô thị, phát triển các thành phố vừa và nhỏ, v.v..

Tại châu Á, Nhật Bản và Hàn Quốc là đại diện tiêu biểu cho quá trình đô thị hóa. Từ sau những năm 50 của thế kỷ XX, chiến lược phát triển “định hướng xuất khẩu” do các nước đang phát triển ở châu Á lựa chọn đã nhanh chóng thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa, đồng thời hình thành một mô hình phát triển kinh tế, công nghệ và xã hội với đặc trưng cơ bản là sự tăng trưởng tốc độ cao ở các thành phố lớn và khu vực lân cận. Phạm vi của các thành phố trung tâm được mở rộng nhanh chóng, xuất hiện một khu vực giao thoa giữa nông thôn và thành thị với quy mô lớn ở các vùng ven đô. Mặt khác, cơ sở hạ tầng giao thông phát triển không chỉ tạo ra mối liên kết chặt chẽ giữa các thành phố trước đây chỉ phát triển một cách độc lập, mà còn tạo nên các hành lang công nghiệp tại những tuyến đường giao thông ven thành phố.

Trong ba làn sóng đô thị hóa đầu tiên, công nghiệp hóa là động lực chính của quá trình đô thị hóa; quá trình mở rộng thuộc địa (di dân), phát triển ngành dịch vụ và ứng dụng các công nghệ mới đã có tác động quan trọng đến quá trình đô thị hóa. Có một số quy luật chung về đô thị hóa ở các quốc gia khác nhau trên thế giới, nhưng do điều kiện ở mỗi quốc gia khác nhau, sự khác biệt về văn hóa và nền tảng quốc tế khác nhau nên mô hình đô thị hóa cũng khác nhau. Do chịu ảnh hưởng của các nhân tố như sự tiến bộ về khoa học kỹ thuật, tình hình trong nước khác nhau nên quá trình đô thị hóa ở các nước lớn trên thế giới đang có xu hướng tăng tốc: nếu như Anh phải cần đến 100 năm, Đức cần 80 năm thì Nhật Bản chỉ cần 65 năm, Mêhicô cần đến 45 năm và Hàn Quốc chỉ cần 35 năm.

4. Làn sóng thứ tư với Trung Quốc, Ấn Độ đi tiên phong

Làn sóng đô thị hóa thứ tư phát triển nhanh chóng vào khoảng thế kỷ XXI, tập trung ở một số quốc gia đang phát triển ở châu Á và châu Phi. Trong đó nổi bật nhất là ở hai quốc gia đông dân nhất nhì thế giới - Trung Quốc và Ấn Độ. Hiện nay, làn sóng đô thị hóa này vẫn đang trong giai đoạn phát triển mạnh mẽ Động lực của làn sóng đô thị hóa này chủ yếu xuất phát từ quá trình toàn cầu hóa kinh tế, hệ thống thương mại tự do và giá trị bất động sản tiềm năng mà những nguồn vốn xuyên quốc gia đang tìm kiếm để đầu tư trên toàn thế giới. Báo cáo Đô thị hóa của Liên hợp quốc (2010) dự đoán rằng đến khoảng năm 2050, hầu hết các quốc gia trên thế giới sẽ bước vào thời kỳ chín muồi của quá trình đô thị hóa.

Nhìn từ thực tế phát triển đô thị hóa, Ấn Độ và Trung Quốc vừa có điểm tương đồng, vừa có những khác biệt rõ nét. Thứ nhất, so với Trung Quốc, công cuộc công nghiệp hóa của Ấn Độ phát triển khá chậm, mức độ đô thị hóa thấp. Về tỷ lệ đô thị hóa, tỷ lệ của Ấn Độ đạt 26% vào năm 1990, nhưng trong 20 năm tiếp theo, chỉ tăng lên 4%, trung bình mỗi năm tăng 0,2%, thấp hơn nhiều so với mức tăng trung bình hằng năm 1% của Trung Quốc kể từ khi cải cách mở cửa. Thứ hai, không giống như Trung Quốc, mức tăng trưởng dân số đô thị của Ấn Độ chủ yếu là do tỷ lệ sinh của nước này khá cao, sự tăng trưởng tự nhiên của dân số đô thị là nguyên nhân chính dẫn đến tăng dân số đô thị ở nước này[4].

5. Một số vấn đề về đô thị hóa ở Trung Quốc

Sau khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập, tỷ lệ đô thị hóa của Trung Quốc đã được cải thiện đáng kể. Năm 1949, tỷ lệ đô thị hóa của nước này chỉ đạt 10,64%. Sau hơn 60 năm phát triển, đến năm 2019, tỷ lệ đô thị hóa của Trung Quốc đã đạt 68,37%[5]. Căn cứ vào mức độ phát triển của đô thị hóa, quá trình phát triển đô thị hóa ở Trung Quốc được chia thành bốn giai đoạn chủ yếu:

5.1 Giai đoạn 1949-1957: công nghiệp hóa thúc đẩy đô thị hóa phát triển nhanh chóng

Sau khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập, trải qua 3 năm phục hồi và tái thiết nên kinh tế quốc dân, Trung Quốc bắt đầu bước vào công cuộc công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa tập trung với quy mô lớn. Trong giai đoạn thực hiện “Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất”, theo nguyên tắc khai thác triệt để các vùng duyên hải, phát triển mạnh khu vực nội địa và phân phối đồng đều lực lượng sản xuất, trọng tâm xây dựng công nghiệp của Trung Quốc dần chuyển từ vùng duyên hải vào nội địa, trọng tâm phát triển đô thị cũng theo đó mà chuyển sang khu vực này. Giai đoạn này tập trung phân bố và xây dựng 156 công trình trọng điểm và 694 dự án công nghiệp lớn. Một số thành phố công nghiệp mới phát triển đã được xây dựng ở các khu vực nội địa, số lượng các đô thị tăng từ 136 thành phố vào năm 1949 lên 176 thành phố vào năm 1957. Dân số đô thị cũng tăng dần lên 99,94 triệu người, tỷ lệ đô thị hóa tăng từ 10,6% vào năm 1949 lên 15,4% vào năm 1957, trung bình tăng 0,53% mỗi năm.[6]

Trong giai đoạn 1949 - 1955, có tám thành phố công nghiệp trọng điểm lớn được xây mới, một loạt thành phố công nghiệp được xây mới hoặc tái thiết.

Rất nhiều thành phố được mở rộng quy mô một cách nhanh chóng, như Cáp Nhĩ Tân, Trường Xuân, Cát Lâm, Lan Châu, Tây An, Thành Đô, v.v.. Ngoài ra còn có một số thành phố quy mô vừa, như An Sơn, Mã An Sơn, Bạch Ngân cũng phát triển với tốc độ cao. Nhìn chung, dưới tác động của quá trình công nghiệp hóa tốc độ cao thì tốc độ đô thị hóa cũng tương đối nhanh, bước đầu thay đổi hiện trạng trước đây của Trung Quốc khi các thành phố chủ yếu nằm ở khu vực duyên hải, từ đó tạo nên xu thế phát triển lành mạnh.

5.2 Giai đoạn 1958-1965: quá trình phát triển đô thị hóa thời kỳ Đại nhảy vọt trải qua nhiều thăng trầm

Tăng trưởng dân số đã tạo ra áp lực ngày càng lớn cho đô thị, để duy trì sự ổn định xã hội của các đô thị và thích nghi với điều kiện kinh tế - xã hội cung không đủ cầu vào thời điểm đó, năm 1958, Quốc vụ viện Trung Quốc đã ban hành Quy chế quản lý hộ khẩu, phân chia thành hộ khẩu nông nghiệp và hộ khẩu phi nông nghiệp một cách nghiêm ngặt, kiểm soát số lượng nông dân di cư vào thành phố. Đây chính là cơ sở pháp lý nền tảng cho những cơ chế về quản lý đăng ký hộ tịch của Trung Quốc sau này. Tuy nhiên, nhu cầu cần phải tuyển một lượng lớn lao động từ khu vực nông thôn lên thành phố của kế hoạch “Đại nhảy vọt”, đã khiến tỷ lệ dân số đô thị tăng mạnh ở mức 4% từ năm 1958 đến 1960, năm 1960 đạt 19,3%. Số lượng các đô thị cũng tăng mạnh từ 176 thành phố năm 1957 lên 208 thành phố năm 1961.

Tuy nhiên, thất bại của kế hoạch “Đại nhảy vọt” cùng với thiên tai xảy ra khiến hàng loạt nhân công mới tuyến lại nhanh chóng quay về nông thôn. Năm 1963, tỷ lệ dân cư đô thị giảm xuống còn 16,8%. Sự bất ổn định của tỷ lệ dân số đô thị trong giai đoạn này chủ yếu là do những sai lầm trong chiến lược phát triển kinh tế. Tuy nhiên, chính sách quản lý hộ tịch của Trung Quốc cũng hạn chế quá trình đô thị hóa một cách rõ rệt. Từ năm 1961, Trung Quốc bắt đầu tinh giảm lượng người làm thuê ở thành phố, giảm bớt số lượng thành phố và cửa ngõ vào thành phố. Năm 1965, số lượng thành phố giảm từ 208 thành phố vào năm 1961 xuống còn 169 thành phố, ít hơn 7 thành phố so với năm 1957; tỷ lệ đô thị hóa cũng giảm từ 19,8% trong thời kỳ cao điểm năm 1960 xuống còn 18% vào năm 1965[7]. Tỷ lệ này giảm mạnh là kết quả của việc điều chỉnh gắn với công cuộc cải tổ nền kinh tế quốc dân so với tỷ lệ đô thị hóa cao bất hợp lý trước đây. Đây cũng là biến động lớn đầu tiên trong quá trình phát triển đô thị hóa của Trung Quốc sau khi thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.

5.3 Giai đoạn 1966-1977: giai đoạn đình trệ kéo dài của quá trình phát triển đô thị hóa

Cuộc Đại cách mạng văn hóa bắt đầu từ năm 1966 đã gây trở ngại về mọi mặt đối với công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của Trung Quốc, tiến trình đô thị hóa cũng vì thế mà bị đình trệ. Mặc dù dân số đô thị thực tế đã tăng thêm 42,95 triệu người - từ 129,5 triệu người vào năm 1966 lên tới 172,45 triệu người vào năm 1978. Tuy nhiên, tỷ lệ đô thị hóa không những không tăng mà còn giảm xuống: tỷ lệ này vào năm 1978 là 17,9%. thấp hơn 0,1% so với năm 1965[8]. Sự đình trệ của quá trình đô thị hóa trong giai đoạn này đã làm suy giảm đáng kể cơ hội để người dân nông thôn được chuyển sang hộ khẩu phi nông nghiệp, tăng giá trị của hộ khẩu đô thị. Mặt khác, chế độ hộ tịch là trung tâm còn thể hiện rõ sự phân biệt thành thị với nông thôn, khiến các thành thị và nông thôn của Trung Quốc hình thành nền kinh tế nhị nguyên và xã hội nhị nguyên điển hình.

Lúc này, Trung Quốc đã bắt đầu công cuộc xây dựng ba tuyến với mục đích chuẩn bị chiến tranh, đề phòng mất mùa. Các khu công nghiệp được phân bổ với các tiêu chí “dựa núi, phân tán, ẩn nấp”, công xưởng được xây trong các hang động trong núi. Việc xây dựng đô thị trong giai đoạn này không xét đến các điều kiện của tự nhiên, giao thông,... mà tập trung vào sự phân tán. Để duy trì tỷ lệ tích lũy cao và giảm tỷ lệ đầu tư vào xây dựng đô thị, hoạt động xây dựng đô thị ở giai đoạn này về cơ bản đã rơi vào đình trệ, rất ít thành phố được xây mới, số lượng thị trấn hành chính cũng giảm đi. Cộng thêm việc hàng chục triệu thanh niên trì thức di chuyển lên vùng cao hoặc xuống vùng nông thôn và cán bộ bị điều về cơ sở, do đó, tỷ lệ đô thị hóa trong một thời gian dài không được cải thiện. Năm 1978, toàn Trung Quốc có 192 thành phố. Việc đầu tư xây dựng trong thời kỳ xây dựng ba tuyến đã giúp hình thành một số cơ sở công nghiệp và thành phố công nghiệp khai thác mới ở phía Tây Nam, Tây Bắc và Tây của tỉnh Hồ Bắc. Điều này cũng đóng vai trò khách quan trong việc điều chỉnh phân bổ công nghiệp và thúc đẩy sự phát triển của các thành phố khu vực nội địa.

5.4 Sau cải cách mở cửa năm 1978, quá trình đô thị hóa phát triển nhanh chóng

Từ năm 1978, quá trình phát triển đô thị của Trung Quốc đã bước sang một giai đoạn mới. Đặc biệt là Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã đề xuất rõ ràng việc xây dựng cơ chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy mạnh mẽ kinh tế Trung Quốc các thành phố và thị trấn trong khu vực cùng phát triển, hình thành sự hợp tác phát triển giữa nền kinh tế ở các khu vực đồng bằng sông Trường Giang, đồng bằng sông Châu Giang, khu vực Bắc Kinh - Thiên Tân Đường Sơn, khu vực biển Bột Hải với các vùng kinh tế vệ tinh lấy các thành phố lớn và thủ phủ các tỉnh làm trung tâm.

Số lượng các thành phố và thị trấn đã tăng lên nhanh chóng. Cho dù là xét từ năng lực điều tiết vĩ mô của chính phủ đối với quá trình đô thị hóa có được nâng cao hay không khả năng phân bổ nguồn lực củathị trường có được cải thiện hay không thì những yếu tố này đều thúc đẩy quá trình đô thị hóa mạnh mẽ hơn. Quá trình phát triển đô thị hóa ở Trung Quốc trong vòng 30 năm sau khi cải cách mở cửa có thể được chia thành ba thời kỳ.

Giai đoạn 1978-1984, cải cách thể chế nông thôn để thúc đẩy quá trình đô thị hóa

Trong giai đoạn này, công tác trọng tâm là cải cách nông thôn, đồng thời tiến hành cải cách thí điểm có chọn lọc ở một số thành phố. Sau khi thực hiện cơ chế khoán trách nhiệm trong liên kết sản xuất trên diện rộng ở nông thôn đã khích lệ mạnh mẽ được tinh thần lao động hăng say của số đông nông dân, năng suất lao động nông nghiệp tăng nhanh. Tỷ lệ nông sản, đặc biệt là lương thực cũng theo đó tăng lên, hỗ trợ tích cực cho việc tăng cường mức độ đô thị hóa. Ở giai đoạn này, mô hình đô thị hóa chủ yếu là tập trung trước xây dựng sau theo hướng phục hồi. Từ năm 1978 đến 1984, dân số đô thị bình quân tăng 5,7% mỗi năm, tỷ lệ đô thị hóa tăng từ 17,9% lên 23,0%, trung bình mỗi năm tăng 0,85%. Số lượng đô thị cũng tăng từ 193 thành phố vào năm 1978 lên 300 thành phố vào năm 1984.

Giai đoạn 1985-1992, cải cách thể chế đô thị để thúc đẩy đô thị hóa

Từ năm 1984, cải cách thể chế kinh tế đô thị đã trở thành trọng tâm của toàn bộ công cuộc cải cách thể chế kinh tế. Trong quá trình cải cách, hàng loạt các chính sách và biện pháp nhằm mở rộng quyền tự chủ tài chính của chính quyền địa phương, mở rộng quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp đã được ban hành, có tác động to lớn đến quá trình phát triển đô thị và đô thị hóa. Các ngành công nghiệp nhẹ tập trung nhiều lao động và ngành dịch vụ phát triển nhanh chóng, công tác xây dựng đô thị cũng dần tăng tốc, tăng khả năng thu hút dân cư của các đô thị. Năm 1984, Chính phủ Trung Quốc ban hành chính sách quản lý đăng ký hộ tịch mới, cho phép nông dân tự mang lương thực vào thành thị để làm việc, kinh doanh và định cư. Năm 1986, Quốc vụ viện công bố tiêu chuẩn xây dựng thành phố mới, giảm tiêu chuẩn hộ khẩu phi nông nghiệp của thành phố từ 100.000 người ban đầu xuống còn 60.000 người. Việc giảm tiêu chuẩn công nhận thành phố khiến cho số lượng đô thị của Trung Quốc tăng lên nhanh chóng, tỷ lệ đô thị hóa được cải thiện Từ năm 1985 đến 1992, dân số đô thị tăng trưởng bình quân 3,8% mỗi năm, tỷ lệ đô thị hóa tăng từ 23% vào năm 1984 lên 27,6% vào năm 1992, trung bình mỗi năm tăng 0,58%. Năm 1984, số lượng đô thị là 300 thành phố, đến năm 1992, con số này tăng lên 517 thành phố. Số lượng thị trấn hành chính từ 6.211 thị trấn vào năm 1984 tăng mạnh lên khoảng 12.000 thị trấn vào năm 1992[9].

Giai đoạn sau năm 1993, đô thị hóa bước vào giai đoạn phát triển mới

Kể từ khi Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV Đảng Cộng sản Trung Quốc thiết lập mục tiêu chung là xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa cho đến nay, công cuộc đô thị hóa và phát triển đô thị của Trung Quốc diễn ra mạnh mẽ chưa từng thấy. Công cuộc xây dựng các khu kinh tế mở khởi đầu với việc xây dựng cơ sở hạ tầng đô thị và phát triển bất động sản đã trở thành một trong những động lực chính của quá trình đô thị hóa. Số lượng thành phố tăng từ 517 thành phố vào năm 1992 lên 660 thành phố vào năm 2000, đến nay Trung Quốc có khoảng 664 thành phố, 4 thành phố trực thuộc trung ương. Ngoài ra, Trung Quốc còn có tới 2 lãnh thổ là Hồng Kông và Macao với 283 thành phố cấp tỉnh, gần 350 thành phố cấp huyện. Số lượng thị trấn hành chính tăng từ khoảng 12.000 thị trấn vào năm 1992 lên hơn 22.000 thị trấn vào năm 2019. Dân số đô thị tăng đến hơn 900 triệu người. Đến năm 2019, tỷ lệ đô thị hóa đã tăng lên 59%, quá trình đô thị hóa của Trung Quốc bước vào thời kỳ phát triển nhanh chóng[10].

(Nguồn: Niên giám thống kê Trung Quốc và Niên giám thống kê các tỉnh trên cả nước của Trung Quốc)

 


[1]Chuối xanh dương: là tên của một trong những vùng lãnh thổ phát triển công nghiệp nhất ở trung tâm châu Âu. Đây cũng là trung tâm cổ xưa của ngành than, thép (B.T)

[2]Vương Tố Trai: “Con đường, mục tiêu và nội hàm của việc phát triển khoa học đô thị hóa mô hình mới, Nguyệt san lý luận, 2020

[3]Triệu Thư Mậu: “Những đặc điểm chính và sự gợi ý của quá trình đô thị hóa ở Ôxtrâylia", Khoa học xã hội Hà Nam, 2013

[4]Bành Hồng Bích, Dương Phong: “Nội hàm khoa học của con đường đô thị hóa kiểu mới”, Tìm hiểu lý luận, 2020

[5]Dịch Bằng: “Con đường mới của Trung Quốc: Con đường đô thị hóa kiểu mới". Nxb. Đại học Kinh tế - Tài chính Tây Nam, Thành Đô, 2019

[6]Cô Thắng Trở, Lý Chính Hữu: “Phân tích chế độ đô thị hóa Trung Quốc từ trên xuống dưới, Khoa học xã hội Trung Quốc, 1998

[7]Cô Thắng Trở, Lý Chính Hữu: “Phân tích chế độ đô thị hóa Trung Quốc từ trên xuống dưới, Khoa học xã hội Trung Quốc, 1998

[8]Cô Thắng Trở, Lý Chính Hữu: “Phân tích chế độ đô thị hóa Trung Quốc từ trên xuống dưới, Khoa học xã hội Trung Quốc, 1998

[9]Chu Can Trĩ, Trâu Đức Từ (Chủ biên): Nghiên cứu chiến lược phát triển đô thị hóa kiểu mới đặc sắc Trung Quốc - Gạo Nghiên cứu đánh giá chất lượng và nhìn lại con đường tấn đô thị hóa Trung Quốc: Bố trí hợp lý và quy hoạch không gian phát triển đô thị hóa (Quyển 1), Nxb. Công nghiệp kiến trúc Trung Quốc, Bắc Kinh, 2013

[10]Diệp Diệu Tiên: “Nhìn lại và gợi mở về đô thị hóa Trung Quốc mới, Dân số Trung Quốc - Tài nguyên và môi trường, 2020