Thứ hai, 18 Tháng 9 2023 10:13

Kỹ năng xây dựng giải pháp trong phân tích chính sách bảo vệ số lượng, chất lượng nước

Việc tìm giải pháp trong quá trình xây dựng các quy định điều chỉnh bảo vệ số lượng, chất lượng nước thông qua việc đánh giá hiện trạng, kinh nghiệm và lý luận cần được tiến hành theo các bước chủ yếu như sau:

Thứ nhất, cần so sánh, kinh nghiệm với lý luận được tổng kết từ thông tin thu thập được bằng các kỹ năng thu thập và xử lý thông tin.

Luật Tài nguyên nước năm 2012 qua gần 10 năm thực hiện, đã góp phần tạo chuyển biến tích cực trong nhận thức, hành động của toàn xã hội về bảo vệ, khai thác sử dụng tài nguyên nước; tài nguyên nước được quản lý, sử dụng hiệu quả, bền vững hơn, mang lại nguồn thu cho ngân sách Nhà nước.

Tuy nhiên, trong điều kiện biến đổi khí hậu, khai thác tài nguyên nước để phục vụ các chương trình phát triển kinh tế - xã hội khiến chất lượng tài nguyên nước suy giảm, đặt ra nhiều thách thức lớn. Bên cạnh đó, có nhiều chủ trương mới về quản lý tài nguyên và yêu cầu thực tiễn về bảo vệ, phục hồi để bảo đảm an ninh tài nguyên nước quốc gia. Một số nội dung của Luật Tài nguyên nước năm 2012 thực thi chưa hiệu quả, khó khăn khi triển khai trên thực tế do có sự giao thoa với pháp luật khác và giao thoa trong quá trình tổ chức thực hiện; tài nguyên nước chưa được quản lý tổng hợp, thống nhất… Từ thực tế đó đòi hỏi cần thiết phải nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Luật Tài nguyên nước năm 2012.

Theo Bộ trưởng Trần Hồng Hà, dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) đã được Ban soạn thảo, Tổ biên tập hoàn thành, tập trung vào 4 nhóm chính sách mà Chính phủ đã trình Quốc hội và được Quốc hội thông qua là Bảo đảm an ninh nguồn nước; Xã hội hóa ngành nước; Kinh tế tài nguyên nước; Bảo vệ tài nguyên nước, phòng chống tác hại do nước gây ra và đề xuất sửa đổi bổ sung một số chính sách khác.

Thực tế cho thấy, chúng ta cần hoàn thiện dự án Luật, đảm bảo tháo gỡ những xung đột, vướng mắc của các chính sách, thống nhất được các tư duy mới để Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) đáp ứng được tình hình thực tiễn trong tương lai.

Thứ hai, khi đã có thông tin đầy đủ, vừa mang tính lý luận đã được tổng kết cần quy định để điều chỉnh các quy định, chính sách đang tồn tại thông qua việc kế thừa các quy định của Luật Tài nguyên nước năm 2012 đang phát huy hiệu quả; bãi bỏ các quy định bất cập; cần quy định để điểu chỉnh các quy định, chính sách đang tồn tại; cập nhật, sửa đổi, bổ sung các quy định hiện hành nhằm giải quyết các vấn đề đặt ra từ thực tiễn, các khó khăn, vướng mắc của các Bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp và người dân kiến nghị trong quá trình thực thi các quy định của pháp Luật Tài nguyên nước trong thời gian qua.

Luật hoá một số quy định trong các văn bản dưới Luật đã được phát huy hiệu quả trong thực tiễn nhằm tăng giá trị pháp lý của các quy định này.

Quy hoạch tài nguyên nước thời kỳ 2021 - 2030, ưu tiên bảo đảm cấp nước cho sinh hoạt, tầm nhìn đến năm 2050. (Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam vừa ký Quyết định số 1622/QĐ-TTg ngày 27/12/2022 phê duyệt Quy hoạch tài nguyên nước thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050) nêu rõ:

- Quan điểm là Quy hoạch tài nguyên nước phải mang tính chiến lược, đảm bảo tầm nhìn dài hạn, định hướng tổng thể, điều hòa, phân phối tài nguyên nước đáp ứng các mục tiêu của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030, ưu tiên đảm bảo cấp nước cho sinh hoạt, ổn định an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo, hài hòa với yêu cầu phát triển của từng ngành, từng địa phương và cộng đồng.

- Quy hoạch nhằm mục tiêu đảm bảo an ninh nguồn nước quốc gia; quản lý, bảo vệ, sử dụng hiệu quả, bền vững tài nguyên nước; điều hòa, phân phối, bảo vệ tài nguyên nước, phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra đảm bảo cân bằng giữa nhu cầu cho dân sinh, phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường, giảm thiểu tối đa thiệt hại tính mạng và tài sản của nhân dân; kiểm soát chất lượng, trữ lượng các nguồn nước, nâng cao khả năng tích trữ nước trên các lưu vực sông, vùng kinh tế, địa phương, bảo đảm quốc phòng, an ninh, phù hợp với chức năng và khả năng đáp ứng của nguồn nước trong điều kiện biến đổi khí hậu.

- Hướng tới quản trị tổng hợp ngành nước trên nền tảng công nghệ số; quản lý, sử dụng tài nguyên nước theo chu trình tuần hoàn, bảo đảm tiết kiệm, hiệu quả, phục vụ đa mục tiêu, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững.

- Mục tiêu đến năm 2030 điều hòa, phân phối tài nguyên nước công bằng, hợp lý giữa các ngành, địa phương, các đối tượng khai thác, sử dụng nước theo quy hoạch tổng hợp lưu vực sông liên tỉnh, đảm bảo chiến lược phát triển kinh tế, an sinh xã hội.

Thứ ba, khi đã có thông tin đầy đủ nhưng chưa có lý luận để ứng dụng, cần căn cứ trên kinh nghiệm, tiền lệ để đưa ra giải pháp. Các giải pháp này, cần đánh giá trên cơ sở tiếp cận và kết quả rà soát, đánh giá tình hình thực thi Luật Tài nguyên nước và các yêu cầu phát sinh trong thực tế quản lý, Cục Quản lý tài nguyên nước cần đề xuất một số chính sách sẽ sửa đổi, bổ sung phù hợp thực tế.

Khắc phục hiệu quả tình trạng hạn hán:

Đến năm 2025, 100% lưu vực sông lớn, quan trọng có quy hoạch tổng hợp lưu vực sông liên tỉnh; đảm bảo nguồn nước góp phần nâng tỷ lệ sử dụng nước sạch cho mục đích sinh hoạt của dân cư đô thị đạt 95% - 100% và 65% dân số nông thôn được sử dụng nước sạch.

Kiểm soát cơ bản 90% các hoạt động khai thác, sử dụng nước; nâng cao hiệu quả, năng lực khai thác, sử dụng nước và giảm tối đa thất thoát nước trong hệ thống các công trình thủy lợi; giảm tỷ lệ thất thoát nước trong hoạt động cấp nước xuống 10%.

Khắc phục hiệu quả tình trạng hạn hán, thiếu nước vào mùa khô ở các lưu vực sông, các vùng khó tiếp cận nguồn nước, đặc biệt là các vùng Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, đồng bằng sông Cửu Long, vùng sâu, vùng xa và các đảo.

Ngăn chặn ô nhiễm nguồn nước:

Quy hoạch đặt mục tiêu bảo vệ, kiểm soát, ngăn chặn và giảm thiểu tối đa tình trạng gia tăng suy thoái, cạn kiệt, ô nhiễm nguồn nước, phấn đấu đến năm 2030 thu gom, xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật trước khi xả ra môi trường đạt từ 30% tổng lượng nước thải tại các đô thị loại II trở lên và 10% tại các đô thị từ loại V trở lên.

Cải thiện, phục hồi các nguồn nước quan trọng bị suy thoái, cạn kiệt, ô nhiễm, ưu tiên các đoạn sông chảy qua khu vực dân cư tập trung, các nguồn nước có vai trò quan trọng cho cấp nước sinh hoạt, các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội theo hướng xã hội hóa, đặc biệt là trên dòng chính sông Hồng, sông Cả, sông Vu Gia - Thu Bồn và sông Ba.

Chính sách liên quan đến bảo đảm an ninh nguồn nước: sẽ được lồng nghép trong các quy định về Quy hoạch, Điều tra cơ bản TNN; Khai thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước; Điều phối, giám sát tài nguyên nước;… đồng thời bổ sung xây dựng bộ chỉ số để đảm bảo an ninh nguồn nước.

Chính sách xã hội hóa ngành nước: Luật Tài nguyên nước năm 2012 đã nêu một số nội dung liên quan đến xã hội hóa trong công tác điều tra cơ bản tài nguyên nước, trong việc cải tạo dòng sông bị ô nhiễm, suy thoái thông qua cơ chế khuyến khích tổ chức, cá nhân thực hiện, nhưng chưa quy định cụ thể.

Chính sách tài chính về tài nguyên nước: Bổ sung các quy định liên quan đến cơ chế thu, nộp vào ngân sách, trong đó kiến nghị thu tiền cấp quyền khai thác sử dụng tài nguyên vào quỹ bảo vệ môi trường (không vào ngân sách).

Chính sách bảo vệ tài nguyên nước và chính sách khác: nghiên cứu, bổ sung các chính sách về: điều tra cơ bản; quy hoạch tài nguyên nước; phương án xử lý các công trình khai thác, sử dụng nước kém hiệu quả, gây ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt nguồn nước; đảm bảo lưu thông dòng chảy (lấp sông, lấn chiếm bờ, bãi sông; các hoạt động xây dựng công trình ngầm, xử lý nền móng công trình,..); Bảo vệ chất lượng nguồn nước, đặc biệt cấp cho sinh hoạt; bảo vệ nước dưới đất; Quan trắc, Giám sát tài nguyên nước; quản lý các hoạt động san lấp, đào hồ, ao; sử dụng mặt nước các hồ chứa; quy định thu trữ, sử dụng nước mưa để hạn chế ngập lụt tại các đô thị, tăng cường khả năng cấp nước tại các vùng thường xuyên xảy ra hạn hán, xâm nhập mặn.

Rà soát đồng bộ để sửa đổi, bổ sung theo hướng xử lý các vấn đề chồng chéo giữa Luật Tài nguyên nước với Luật Thủy lợi và các Luật khác có liên quan.

Thứ tư, khi đã có lý luận tổng kết nhưng thông tin chưa đầy đủ so với lý luận cần đặt ra nên phải tiến hành lựa chọn những giải pháp gọn, nhẹ, thích ứng cao nhằm mục tiêu quản trị tốt chất lượng nước cho sinh hoạt, sản xuất nông nghiệp góp phần bảo đảm an ninh lương thực và các nhu cầu thiết yếu khác của người dân. Chủ động về nguồn nước trong mọi tình huống.

Phấn đấu từ nay đến năm 2050 nâng chỉ số an ninh nguồn nước quốc gia lên nhóm các quốc gia đảm bảo an ninh nguồn nước hiệu quả trên thế giới. Hướng tới chủ động về nguồn nước trong mọi tình huống, dự báo, điều tiết nước, phòng ngừa lũ lụt, hạn hán, xâm nhập mặn, ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt nguồn nước, ứng phó với biến đổi khí hậu.

Quy hoạch tài nguyên nước định hướng quản lý, điều hòa, phân phối, khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên nước, phòng, chống tác hại do nước gây ra trên phạm vi toàn quốc, theo các vùng phát triển kinh tế - xã hội, theo các lưu vực sông.

6 giải pháp thực hiện Quy hoạch gồm: giải pháp về pháp luật, chính sách; giải pháp về tài chính, đầu tư; giải pháp về khoa học - công nghệ và hợp tác quốc tế; tuyên truyền nâng cao nhận thức; đào tạo, tăng cường năng lực; tổ chức và giám sát thực hiện quy hoạch.

Thứ năm, trường hợp thiếu thông tin, thiếu lý luận, chưa có tiền lệ cần phải nghiên cứu giải pháp có khả năng thích ứng cao và có thể điều chỉnh dễ dàng. Do thiếu nguồn thông tin, thiếu lý luận, chưa có tiền lệ nên hiện nay các tổ chức Nhà nước cần ban hành các giải pháp có khả năng thích ứng cao và có thể điều chỉnh dễ dàng, hợp lý, đảm bảo nguồn nước phục vụ dân sinh, sản xuất nông, lâm nghiệp và các ngành sản xuất khác.

Trước hết chúng ta cần lưu ý xác định nguy cơ bị ảnh hưởng của hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn chi tiết đến từng vùng, khu vực để có giải pháp cụ thể. Thường xuyên kiểm kê nguồn nước trong công trình thủy lợi, thực hiện tiết kiệm nước ngay từ đầu vụ Hè Thu 2023, có kế hoạch phân phối nước hợp lý từ đầu vụ sản xuất và điều chỉnh hợp lý khi nguồn nước bị thiếu hụt để bảo đảm cung cấp đủ cho các nhu cầu thiết yếu cho cả mùa khô năm 2023.

Bố trí cơ cấu sản xuất nông nghiệp, thời vụ gieo trồng phù hợp với khả năng nguồn nước, tránh gieo trồng ở vùng không bảo đảm chủ động về nguồn nước trong cả vụ sản xuất; bố trí vùng sản xuất cây trồng có cùng khả năng chịu hạn, mặn và nhu cầu dùng nước để thuận tiện cho việc điều tiết nước. Tăng cường nạo vét các cửa lấy nước, hệ thống kênh mương, đắp đập ngăn mặn, trữ ngọt trong hệ thống kênh mương, đào ao trữ nước, lắp đặt và vận hành các trạm bơm dã chiến để tận dụng tối đa nguồn nước, giảm thất thoát, lãng phí nước; thực hiện các giải pháp tưới tiên tiến, tiết kiệm nước cho lúa và cây trồng cạn, bảo đảm đáp ứng nhu cầu nước tối thiểu vào các thời kỳ nhạy cảm về nước của cây trồng, đặc biệt với cây ăn quả, cây trồng có giá trị kinh tế cao.

Bên cạnh đó ưu tiên nguồn lực đầu tư sửa chữa, phục hồi các công trình thủy lợi, công trình cấp nước sinh hoạt tập trung bị ảnh hưởng do các đợt mưa bão trong năm 2022. Đẩy nhanh tiến độ thi công các công trình thủy lợi để nâng cao năng lực khai thác nguồn nước và hiệu quả khai thác công trình thủy lợi; xây dựng các phương án thi công, dẫn dòng phù hợp để đảm bảo không gây ách tắc, cản trở dòng chảy cấp nước phục vụ sản xuất nông nghiệp. Chủ động sử dụng kinh phí từ ngân sách địa phương và huy động các nguồn hợp pháp khác để tăng cường thực hiện các giải pháp bảo đảm nguồn nước phục vụ sản xuất nông nghiệp và dân sinh; phòng, chống hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn hiệu quả.

Tận dụng tối đa nguồn nước tự nhiên còn lại từ ao, hồ, sông suối, kênh rạch để cung cấp cho sản xuất vụ Hè Thu 2023. Tăng cường công tác thủy lợi nội đồng để khôi phục hoạt động của công trình bị ảnh hưởng trong đợt mưa lũ vừa qua. Các diện tích tưới thuộc vùng hạ du các sông có hồ chứa thủy điện cần có kế hoạch điều tiết các hồ chứa thủy điện để bổ sung nước cho hạ du trong các thời kỳ khô hạn.

Đối với các công trình cấp nước sinh hoạt loại hình tự chảy: Thực hiện chống rò rỉ, hao hụt, thất thoát từ đập dâng và hố thu nước đầu nguồn để tập trung nguồn nước về khu xử lý chất lượng và bể chứa. Kiểm tra xử lý hệ thống đường ống cấp nước đảm bảo không rò rỉ thất thoát, hệ thống van điều tiết hoạt động tốt để có thể điều tiết cấp nước luân phiên theo từng cụm dân cư khi bị thiết hụt nguồn cung cấp.

Đối với nuôi trồng thủy sản: Những diện tích thiếu nước cần tăng cường sử dụng các giống nuôi thích ứng với điều kiện hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn. Các diện tích không đảm bảo nguồn nước thì các địa phương chủ động chuyển đổi hoặc bỏ hoang, không tổ chức nuôi trồng thủy sản tránh gây thiệt hại cho nhân dân.

Mặt khác, Việt Nam cần đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong lĩnh vực Tài nguyên nước, từ khuôn khổ song phương, tiểu vùng, liên khu vực và toàn cầu. Việt Nam cũng tích cực tham gia các cơ chế hợp tác ASEAN về quản lý nguồn nước, hợp tác APEC về ứng phó với thiên tai, đồng sáng kiến Diễn đàn hợp tác Á-Âu (ASEM) thúc đẩy hợp tác, trao đổi kinh nghiệm về quản lý nguồn nước giữa các quốc gia ven sông Mekong.

Khi đã thực hiện phân tích đầy đủ các bước nêu trên sẽ tiến hành lập kịch bản khả thi đối với từng giải pháp để lựa chọn. Chính vì vậy, để phát triển bền vững nguồn Tài nguyên nước cho dân sinh, sản xuất nông nghiệp…, Nhà nước cần có chính sách khả thi đối với từng giải pháp quản lý nguồn nước sạch mục đích: Tối thiểu hóa chi phí; Tối ưu hóa lợi ích; Đảm bảo tính công khai, minh bạch; Đúng đối tượng và phạm vi cần điều chỉnh.

Hiện nay, đa số các nước phát triển và đang phát triển trên thế giới đều có Luật Cấp nước riêng hoặc kết hợp với một số lĩnh vực khác như thoát nước, tài nguyên nước, sức khỏe cộng đồng...

Tùy theo điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội của mỗi nước, đa số Chính phủ hoặc cơ quan thuộc Chính phủ tổ chức quản lý, sở hữu tài sản công trình cấp nước như Nhật, Hàn Quốc, Úc, Malaysia...; một số nước giao cho khối tư nhân thực hiện như Anh, Estonia... và quy định các chính sách để kiểm soát hoạt động cấp nước của doanh nghiệp tư nhân. Nhìn chung, Chính phủ các nước quan tâm đến việc cung cấp nước cho sinh hoạt và phát triển kinh tế - xã hội; bảo đảm quyền được sử dụng nước sạch hay quyền được tiếp cận nước sạch của người dân.

Nhìn chung, qua kinh nghiệm quốc tế cho thấy, việc thu hút doanh nghiệp tư nhân tham gia cơ bản sẽ làm tăng hiệu quả cung cấp các dịch vụ cấp nước. Tuy nhiên, do nước sạch có tính chất quan trọng về mặt an sinh xã hội, Chính phủ cần có chế tài quản lý các thành phần kinh tế tham gia phù hợp. Công cụ quản lý của Chính phủ có thể bao gồm: Việc cấp phép có thể thể hiện bằng nhiều hình thức như hợp đồng ký kết giữa chính quyền địa phương và đơn vị cấp nước hoặc hình thức cấp giấy phép hoạt động cung cấp nước; Quy định về tỷ lệ tham gia của các thành phần kinh tế trong doanh nghiệp cấp nước cổ phần hoá; áp dụng quản lý rủi ro để đảm bảo tính ổn định, chất lượng dịch vụ cao, giá thành dịch vụ hợp lý và thu hút được các nhà đầu tư. Đưa ra các điều kiện tham gia đối với các Nhà đầu tư, đơn vị quản lý vận hành để đảm bảo được việc lựa chọn các đơn vị có năng lực tốt. Đưa ra điều kiện đối với cổ đông chiến lược của các doanh nghiệp cổ phần hóa... Từ yêu cầu thực tế Việt Nam và kinh nghiệm quản lý cấp nước trên thế giới, cần nghiên cứu một số quan điểm, nhìn nhận để quản lý phát triển cấp nước Việt Nam như sau:

Thứ nhất, về sự cần thiết xây dựng Luật Cấp nước: văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao nhất điều chỉnh hoạt động cấp nước là Nghị định đang chịu chi phối các tác động lĩnh vực khác có hiệu lực pháp lý cao hơn là Luật. Các Luật hiện hành liên quan đến quản lý, đầu tư phát triển cấp nước như: Luật Xây dựng, Luật Quy hoạch đô thị, Luật Bảo vệ môi trường, Luật Tài nguyên nước, Luật An toàn thực phẩm, Luật Bảo vệ người tiêu dùng, Luật Doanh nghiệp... nhưng chưa có các nội dung quy định về sản xuất, cung cấp và tiêu thụ nước sạch bao gồm: mô hình tổ chức quản lý cấp nước; trách nhiệm quản lý Nhà nước về cấp nước; quản lý dịch vụ cấp nước; điều tiết các mối quan hệ trong hoạt động cấp nước; kiểm soát tài sản công trình cấp nước và bảo đảm an ninh, an toàn cấp nước.

Thứ hai, do nước sạch là một loại thực phẩm, hàng hóa đặc biệt, có tác động trực tiếp đến sức khỏe và mọi hoạt động thiết yếu khác của cuộc sống con người và phát triển kinh tế - xã hội. Quy định người dân có quyền được tiếp cận nước sạch nhằm thể hiện vai trò trách nhiệm của Chính phủ đối với nhu cầu sử dụng nước của người dân, đặc biệt khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa.

Thứ ba, quy định bảo đảm an ninh, an toàn cấp nước: Quản lý rủi ro trong hoạt động cấp nước là yêu cầu quan trọng và cần được Nhà nước, doanh nghiệp và người dân quan tâm thực hiện. Ngoài ra nâng tầm quản lý rủi ro lên tầm bảo đảm an ninh cấp nước; như vậy, Chính phủ mới đủ quyền lực kiểm soát tài sản công trình cấp nước (do tư nhân sử hữu) nhằm duy trì cấp nước trong mọi trường hợp rủi ro có thể xảy ra.

Thứ tư, thực hiện chủ trương xã hội hóa cấp nước, tiếp tục giao cho tư nhân thực hiện dịch vụ cung cấp nước sạch sẽ giảm gánh nặng cho ngân sách Chính phủ. Tuy nhiên, văn bản quy phạm pháp luật cần có hiệu lực cao nhất và được quy định chặt chẽ về vai trò, tránh nhiệm của cơ quan quản lý Nhà nước và quy định quyền lợi, nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với hoạt động cấp nước (cấp giấy phép, ký hợp đồng cấp nước...); quy định thống nhất hoạt động cấp nước là hoạt động sản xuất kinh doanh có điều kiện.

Thứ năm, đối với cấp nước nông thôn, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo cần có cơ chế chính sách và sự hỗ trợ đầu tư hoặc hỗ trợ giá nước của Chính phủ nhằm đảm bảo quyền tiếp cận nguồn nước sạch của người dân.

Thứ sáu, khi thực hiện xã hội hóa cấp nước, mỗi tỉnh đang hình thành nhiều giá nước sạch theo các vùng phục vụ của các doanh nghiệp cấp nước; việc kiểm soát và ban hành nhiều giá bán nước sẽ là khó khăn của các tỉnh; hướng tới giao cho doanh nghiệp quyết định giá nước sạch trên cơ sở UBND cấp tỉnh thẩm định phương án giá nước.

Thứ bảy, thống nhất giao một Bộ thực hiện quản lý nhà nước về cấp nước cả đô thị và nông thôn; với mục tiêu quản lý cấp nước không phụ thuộc vào địa giới hành chính, liên kết cấp nước các khu vục đô thị, nông thôn; kiểm soát tình trạng phân khúc, độc quyền cung cấp nước theo địa bàn; xây dựng thống nhất hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật về thiết kế, sử dụng thiết bị vật tư và vận hành công trình cấp nước.

Thứ tám, hướng tới thành lập một cơ quan quản lý ngành cấp nước, giúp Bộ, Chính phủ về xây dựng và theo dõi việc thực hiện cơ chế chính sách về cấp nước; hướng dẫn, hỗ trợ về pháp lý liên quan đến tranh chấp, xung đột lợi ích giữa các doanh nghiệp và giữa doanh nghiệp với chính quyền địa phương.

Sửa đổi lần cuối Thứ sáu, 13 Tháng 10 2023 10:17

Đăng ký nhận email

Đăng ký email để có thể có được những cập nhật mới nhất về tải liệu được đăng tải trên website

Tập san đã phát hành