In trang này
Thứ sáu, 22 Tháng 9 2023 03:01

Phân tích cơ sở pháp luật quốc gia liên quan đến các biện pháp đầu tư thương mại

Hội nhập và toàn cầu hóa là xu thế chung, tất yếu của các quốc gia trên thế giới nhằm mục đích phát triển kinh tế, tăng cường giao lưu thương mại, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế khu vực và toàn cầu. Đặc biệt, là CPTPP và EVFTA đã có hiệu lực với Việt Nam, cùng với đó là những hiệp định đầu tư song phương và khu vực với những cam kết tự do hóa đầu tư, mở cửa thị trường đã và đang đặt ra cho Việt Nam nhiều cơ hội và thách thức trong quá trình phát triển đất nước, phát triển kinh tế, phát triển con người, nâng cao vị thế và tiếng nói của quốc gia trên trường quốc tế. Từ thực tiễn sử dụng các biện pháp đầu tư liên quan tới thương mại hàng hóa WTO, FTAs và các quốc gia có thể thấy rằng các biện pháp đầu tư liên quan tới thương mại (TRIMs) trong bối cảnh hội nhập cần phải được phân tích đánh giá để định hướng đầu tư theo mục tiêu phát triển tại Việt Nam là yêu cầu cấp bách.

Xuất phát từ chủ quyền quốc gia trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong phạm vi lãnh thổ, thì mỗi nước đều có quyền ban hành hoặc không ban hành các biện pháp đầu tư nhằm điều tiết thương mại hàng hóa, tùy thuộc vào ý chí mục đích của từng quốc gia. Do đó, trong mối quan hệ thương mại quốc tế thì sử dụng các biện pháp TRIMs là một hình thức thực hiện pháp luật quốc tế. Trong đó thực hiện pháp luật là hoạt động có chủ đích nhằm hiện thực hóa các quy định của pháp luật, làm cho chúng đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật[1]. Tuy nhiên, sử dụng biện pháp TRIMs phải phù hợp với quy tắc cơ bản của thương mại quốc tế và các điều ước quốc tế có liên quan. Để làm rõ hơn về sử dụng các biện pháp TRIMs, cần phải phân biệt với các hình thức khác của thực hiện pháp luật liên quan tới biện pháp TRIMs như:

Tuân thủ các biện pháp TRIMs: Là việc các quốc gia kiềm chế không thực hiện, không ban hành các biện pháp bị ngăn cấm và đi ngược lại với nguyên tắc thương mại quốc tế.

Thi hành các biện pháp TRIMs: Là việc quốc gia thực hiện nghĩa vụ pháp lý liên quan tới biện pháp bằng những hành động tích cực. Theo đó các nước chỉ được phép ban hành các biện pháp mà pháp luật quốc tế cho phép, hoặc phải thực hiện các nghĩa vụ liên quan tới thông báo, minh bạch hóa trong việc ban hành các biện pháp, nghĩa vụ tham vấn và giải quyết tranh chấp khi phát sinh. Ví dụ, việc thực hiện các phán quyết của cơ quan giải quyết tranh chấp hoặc các khuyến nghị của các tổ chức quốc tế có liên quan.

Áp dụng các biện pháp TRIMs: Là việc cơ quan tài phán quốc tế có thẩm quyền hoặc tổ chức quốc tế được thành lập theo thỏa thuận giữa các quốc gia tổ chức cho các nước thực hiện đúng quy định theo các cam kết quốc tế, hoặc cơ quan tổ chức căn cứ vào quy tắc để tự đưa ra quyết định của mình làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt, đình chỉ các quan hệ phát sinh đối với biện pháp TRIMs. Có thể là phán quyết của cơ quan giải quyết tranh chấp, hoặc quyết định về việc sửa đổi bổ sung quy định về biện pháp TRIMs…

Sử dụng các biện pháp TRIMs: Hình thức thực hiện pháp luật quốc tế, qua đó mỗi quốc gia có quyền tự do pháp lý của mình để ban hành các biện pháp định hướng đầu tư nhằm tác động tới thương mại hàng hóa. Sử dụng biện pháp TRIMs đối với các quốc gia gồm ba giai đoạn thực hiện. Giai đoạn đầu, khi các nước tham gia vào các điều ước quốc tế đồng nghĩa với việc thừa nhận và tôn trọng cam kết đối với các biện pháp TRIMs, từ đó các nước có thể ban hành quy định trong nước hoặc dẫn chiếu trực tiếp đến điều ước quốc tế. Giai đoạn này sẽ tác động đến cách thức, phương thức thực hiện đầu tư. Giai đoạn thứ hai, sau khi đã ban hành quy định các nước sẽ lựa chọn chế tài áp dụng đối với từng biện pháp. Đây là giai đoạn áp dụng các biện pháp, sẽ làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của các bên và trực tiếp tác động tới thương mại thông qua những yêu cầu thực hiện đối với đầu tư. Giai đoạn áp dụng các biện pháp TRIMs có thể tác động tích cực khi tăng cường mua bán trao đổi hàng hóa hoặc tác động tiêu cực khi hạn chế thương mại. Cuối cùng, giai đoạn thứ ba là giải quyết các tranh chấp khi việc áp dụng biện pháp TRIMs xâm hại đến lợi ích thương mại của các quốc gia khác.

Căn cứ vào đặc điểm về chủ thể ban hành, thì sử dụng biện pháp TRIMs sẽ được giới hạn trong phạm vi chức năng nhiệm vụ của mỗi cơ quan trong quá trình xây dựng quy phạm pháp luật của mỗi quốc gia. Theo đó, nội dung biện pháp có thể sẽ do từng cơ quan có thẩm quyền ban hành như: Quốc hội ban hành luật, pháp lệnh được áp dụng trong phạm vi toàn lãnh thổ; Chính phủ ban hành nghị định hướng dẫn và các bộ, ngành ban hành thông tư hướng dẫn chi tiết được áp dụng trong một lĩnh vực cụ thể; Hoặc chính quyền địa phương ban hành nghị quyết được áp dụng trong phạm vi địa giới hành chính mà địa phương quản lý.

Căn cứ vào tính chất và tác động của các biện pháp sẽ có sự khác nhau trong việc sử dụng biện pháp TRIMs tùy thuộc vào chức năng nhiệm vụ của mỗi cơ quan, cụ thể: Quốc hội có thể ban hành quy định việc áp dụng hoặc không áp dụng khoản thuế nội địa, thuế nhập khẩu đối với một loại hàng hóa, hoặc việc miễn giảm các loại thuế này; Chính phủ, các bộ, ban ngành có thể đưa ra mức độ miễn giảm thuế đối với từng lĩnh vực cụ thể theo quy định mà quốc hội ban hành; Chính quyền địa phương, có thể ban hành mức độ miễn giảm thuế hay mức ưu đãi đối với hàng hóa trong phạm vi địa giới hành chính quản lý. Tuy có sự khác nhau về mức độ, tính chất các biện pháp do các cơ quan ban hành, nhưng tựu chung lại các biện pháp này đều thể hiện quyền lực, trách nhiệm pháp lý của nhà nước phù hợp với quy định của pháp luật trong nước và pháp luật quốc tế.

Có nhiều cách tiếp cận khác nhau về việc sử dụng biện pháp TRIMs tại các nước, tùy thuộc vào trình độ phát triển, thời điểm, mục tiêu, lĩnh vực mà họ quan tâm. Ví dụ: Một quốc gia tùy vào trình độ phát triển trong từng lĩnh vực có thể ban hành hoặc không ban hành các biện pháp phân biệt đối xử hoặc hạn chế đối với hàng hóa nhập khẩu trong từng lĩnh vực như, công nghiệp, nông nghiệp… Thông thường, các nước công nghiệp phát triển hướng tới xuất khẩu sẽ hạn chế ban hành các biện pháp phân biệt đối xử, hạn chế định lượng trong ngành công nghiệp vì mối quan tâm của họ đặt nhiều hơn vào thị trường xuất khẩu. Trong khi những nước đang trong quá trình hình thành, phát triển ngành công nghiệp sẽ ban hành các biện pháp TRIMs để bảo vệ ngành công nghiệp còn non trẻ. Ngược lại, trong lĩnh vực nông nghiệp thì các quốc gia công nghiệp phát triển thường có xu hướng hạn chế và phân biệt đối xử đối với các sản phẩm nông nghiệp nhập khẩu để bảo vệ thị trường trong nước.

Biện pháp TRIMs được sử dụng để định hướng đầu tư thông qua những yêu cầu cụ thể như: Yêu cầu nội địa hóa, yêu cầu cân bằng thương mại, thực hiện xuất khẩu, hạn chế ngoại hối, R&D… Những yêu cầu này, trực tiếp hoặc gián tiếp ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực tới xuất nhập khẩu hàng hóa. Theo quy tắc thương mại quốc tế thì một số biện pháp ảnh hưởng tiêu cực tới trao đổi hàng hóa bị cấm thực hiện. Biện pháp mà các nghiên cứu đã đưa ra thường có những nội dung chủ yếu bao gồm:

Thứ nhất, chủ thể ban hành, sử dụng các biện pháp TRIMs là cơ quan có thẩm quyền hoặc được nhà nước trao quyền theo quy định tại luật pháp của một quốc gia;

Thứ hai, các biện pháp được thể hiện thông qua luật, quy định, quy tắc hoặc yêu cầu do cơ quan có thẩm quyền ban hành;

Thứ ba, mục tiêu của các biện pháp là nhằm định hướng đầu tư theo mục tiêu, định hướng phát triển của quốc gia;

Thứ tư, các biện pháp này làm ảnh hưởng tiêu cực tới thương mại hàng hóa quốc tế (tới việc luân chuyển hàng hóa qua biên giới), tạo ra những hạn chế hoặc sự phân biệt đối xử giữa hàng hóa nhập khẩu với hàng hóa được sản xuất trong nước;

Thứ năm, việc áp dụng các biện pháp thường đi kèm với ưu đãi về mặt tài chính (thường là thuế);

Thứ sáu, các biện pháp này làm suy giảm lợi ích thương mại của các quốc gia khác.

Như vậy, sử dụng biện pháp TRIMs là một hình thức thực hiện quy tắc thương mại quốc tế, chủ yếu dựa trên quyền năng chủ thể trong pháp luật quốc tế của mỗi quốc gia, qua đó mỗi quốc gia có quyền ban hành hoặc không ban hành các quy định để điều chỉnh việc mua bán hàng hóa. Trong khi tuân thủ và thi hành biện pháp buộc các nước phải thực hiện theo đúng thỏa thuận, quy định đã được đặt ra (bao gồm cả thực hiện nghĩa vụ) thì sử dụng biện pháp TRIMs lại phụ thuộc vào ý chí của mỗi quốc gia trong việc có ban hành hay không ban hành các biện pháp. Việc sử dụng biện pháp TRIMs theo pháp luật quốc gia chủ yếu liên quan tới quyền năng chủ thể của quốc gia trong mối quan hệ quốc tế. Vì vậy, để hiểu rõ hơn về sử dụng biện pháp TRIMs thông qua pháp luật quốc gia cần phải đặt trong mối quan hệ với luật quốc tế. Các biện pháp được ban hành theo luật quốc gia có thể phù hợp và căn cứ vào nội dung được quy định tại các điều ước quốc tế. Các biện pháp này có thể là cấm sử dụng hoặc khuyến khích sử dụng.

Việc điều chỉnh sử dụng biện pháp TRIMs theo pháp luật quốc gia chủ yếu liên quan tới quyền năng chủ thể của quốc gia trong mối quan hệ quốc tế. Vì vậy, để hiểu rõ hơn về điều chỉnh sử dụng biện pháp TRIMs thông qua pháp luật quốc gia cần phải đặt trong mối quan hệ với luật quốc tế. Trong đó, pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia đều xuất phát từ lợi ích chung của chính quốc gia, dân tộc và cộng đồng quốc tế. Đây là hai hệ thống pháp luật độc lập nhưng có mối quan hệ biện chứng tác động qua lại, ảnh hưởng lẫn nhau tùy vào điều kiện kinh tế, quan điểm chính trị và tùy thuộc vào từng giai đoạn phát triển của mỗi quốc gia, được thể hiện ở hai khía cạnh:

Thứ nhất, pháp luật quốc gia ảnh hưởng tới sự hình thành và phát triển của pháp luật quốc tế đối với các biện pháp đầu tư liên quan tới thương mại. Sự hình thành các nguyên tắc và quy phạm pháp luật quốc tế cũng như nội dung hoàn toàn tùy thuộc vào ý chí, thỏa thuận giữa các quốc gia. Pháp luật quốc gia thể hiện sự định hướng về nội dung, tính chất của pháp luật quốc tế. Mọi sự thay đổi, phát triển tiến bộ của pháp luật quốc gia đều tác động tích cực thúc đẩy sự phát triển của pháp luật quốc tế, điều này được thể hiện rất rõ trong quá trình đàm phán, xây dựng Điều ước quốc tế. Ví dụ, một quốc gia ban hành biện pháp TRIMs, quá trình sử dụng biện pháp đã gây ảnh hưởng tiêu cực tới thương mại quốc tế, vì vậy quốc gia này sẽ đề xuất việc cấm hoặc hạn chế biện pháp TRIMs khi đàm phán ký kết các điều ước quốc tế liên quan.

Thứ hai, pháp luật quốc tế có tác động tích cực nhằm phát triển và hoàn thiện pháp luật quốc gia thông qua thực tiễn thực thi điều ước quốc tế. Chính vì thế, những quy định có nội dung tiến bộ của khoa học pháp lý quốc tế sẽ dần được chuyển tải vào văn bản quy phạm pháp luật quốc gia. Điều đó sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển và hoàn thiện của hệ thống pháp luật quốc gia. Ví dụ: Pháp luật quốc tế quy định các quốc gia không được phép sử dụng hoặc hạn chế việc sử dụng biện pháp TRIMs. Vì vậy khi tham gia vào quan hệ quốc tế, các quốc gia phải tôn trọng quy tắc chung bằng việc hạn chế hoặc không sử dụng biện pháp TRIMs thông qua quy định trong nước.

Về mặt lý luận thì điều chỉnh pháp luật là: “quá trình tác động có định hướng, có mục đích của pháp luật lên các quan hệ xã hội nhằm sắp xếp chúng cho có trật tự, bảo vệ chúng và hướng chúng phát triển theo những định hướng nhất định để đạt được những mục đích đề ra”[2]. Như vậy, có thể hiểu điều chỉnh sử dụng các biện pháp TRIMs là: “hoạt động có mục đích dựa trên quy phạm pháp luật để tác động đến quá trình sử dụng biện pháp đầu tư nhằm điều tiết thương mại hàng hóa thông qua cơ chế, quy trình, trật tự sử dụng nhằm đảm bảo và định hướng việc sử dụng biện pháp theo mục tiêu đã đề ra”.

Có thể thấy, việc sử dụng biện pháp TRIMs của các quốc gia là thực tế phù hợp với quy luật khách quan và quá trình vận động của thương mại quốc tế. Vì vậy, điều chỉnh việc sử dụng biện pháp TRIMs là cần thiết để các biện pháp này vận động theo đúng trật tự, quỹ đạo và định hướng chúng phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của thương mại quốc tế. Điều chỉnh pháp luật là hoạt động có tổ chức, có mục đích nhằm quản lý việc sử dụng các biện pháp TRIMs thông qua những quy định, quy trình pháp lý nhất định. Do đó, điều chỉnh pháp luật sẽ tác động đến sự hình thành và phát triển các mối quan hệ trong việc sử dụng biện pháp TRIMs, cụ thể: Một mặt, đối với biện pháp phù hợp với nguyên tắc thương mại quốc tế, đáp ứng được lợi ích của các quốc gia thì được bảo vệ, củng cố và tạo điều kiện phát triển; Mặt khác, đối với biện pháp không đáp ứng được lợi ích của các quốc gia, không phù hợp với các quy tắc của thương mại quốc tế thì pháp luật sẽ kìm hãm sự phát triển và từng bước loại bỏ các biện pháp này.

Khi tham gia vào quan hệ thương mại quốc tế, các quốc gia buộc phải tự điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với quy định, các nguyên tắc được cộng đồng quốc tế công nhận hoặc những thỏa thuận quốc tế đã được thông qua. Do đó, pháp luật quốc tế quy định cho các quốc gia một số quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất định, đồng thời đảm bảo cho quyền và nghĩa vụ pháp lý đó được thực hiện thông qua phương pháp điều chỉnh. Nhưng tựu chung lại, phương pháp điều chỉnh thể hiện cách thức tác động đến quan hệ thương mại hàng hóa để đạt được mục đích đã đề ra của các chủ thể. Cách thức tác động có thể là cấm, hạn chế, bắt buộc, cho phép, khuyến khích… các chủ thể thực hiện hành động nào đó.

Để phân biệt với các biện pháp khác biện pháp TRIMs cũng có những đặc điểm, đặc trưng riêng về chủ thể ban hành các biện pháp, chủ thể tham gia giải quyết tranh chấp là quốc gia thành viên của hiệp định; hình thức ban hành bao gồm cả các quy định tại luật, quy tắc và những yêu cầu mang tính chất thỏa thuận giữa nhà nước với doanh nghiệp. Bên cạnh đó, việc xác định hàng hóa nhập khẩu bị đối xử kém thuận lợi hơn hàng hóa “tương tự” được sản xuất trong nước thì thuật ngữ “hàng hóa tương tự hoặc sản phẩm tương tự” được xem xét trong từng trường hợp cụ thể với các điều kiện về công dụng, đặc tính vật lý, thị hiếu của người tiêu dùng và nguồn gốc sản phẩm. Cùng với đó, việc xác định có sự phân biệt đối xử giữa hàng hóa nhập khẩu và hàng hóa tương tự được sản xuất trong nước cần phải dựa trên phương pháp so sánh về mức độ mà các biện pháp đó tác động đến điều kiện cạnh tranh giữa các sản phẩm, chứ không đơn giản chỉ dựa trên sự so sánh về hình thức áp dụng các biện pháp. Ví dụ, trong trường hợp quy định áp dụng cho hàng hóa nhập khẩu và hàng hóa trong nước là giống nhau nhưng vẫn tạo ra sự phân biệt đối xử trên thực tế.

Có nhiều cách phân loại biện pháp TRIMs, dựa vào chủ thể ban hành có thể phân ra các biện pháp do cơ quan ở trung ương ban hành, áp dụng toàn bộ lãnh thổ quốc gia hoặc biện pháp do chính quyền địa phương ban hành, áp dụng cho một địa phương nhất định. Căn cứ vào tính chất có thể phân loại ra các biện pháp bắt buộc, khuyến khích. Căn cứ vào tác động của biện pháp đối với thương mại hàng hóa thì có thể phân loại các biện pháp phân biệt đối xử hoặc hạn chế định lượng.

Sử dụng biện pháp TRIMs là một hình thức thực hiện quy tắc thương mại quốc tế, chủ yếu dựa trên quyền năng chủ thể trong pháp luật quốc tế của mỗi quốc gia, qua đó mỗi quốc gia có quyền ban hành hoặc không ban hành các quy định để điều chỉnh việc mua bán hàng hóa. Do vậy, cần phải có các quy tắc thương mại quốc tế để điều chỉnh việc sử dụng biện pháp TRIMs nhằm hạn chế tác động tiêu cực tới thương mại hàng hóa. Tóm lại, việc sử dụng biện pháp TRIMs sẽ phụ thuộc vào đối tượng, ý muốn chủ quan của chủ thể, nhận thức về việc sử dụng, lợi ích, hiệu quả sử dụng trong mỗi hoàn cảnh, giai đoạn lịch sử nhất định của mỗi quốc gia.

Hiệp định TRIMs tại WTO là hiệp định đa phương điển hình, quy định cấm sử dụng các biện pháp phân biệt đối xử giữa hàng hóa trong nước với hàng hóa nhập khẩu hay những hạn chế về mặt định lượng. Nhưng các biện pháp này vẫn chưa được quy định rõ ràng, cụ thể dẫn đến phát sinh tranh chấp liên quan. Tuy nhiên, với sự phát triển của IIAs (trong đó phải kể đến FTAs thế hệ mới) thì biện pháp TRIMs đã được làm rõ và được giới hạn trong từng trường hợp. Để hiểu rõ hơn về nội dung này, chương 3 của luận án sẽ tiếp tục phân tích đánh giá quy định của biện pháp TRIMs tại các điều ước quốc tế và việc sử dụng của một số nước thông qua quá trình giải quyết tranh chấp.

Vì vậy, việc sử dụng các biện pháp TRIMs cần phải đặt trong mối quan hệ giữa pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia, được thể hiện thông qua các tiêu chí như: Các biện pháp được ban hành áp dụng (đối với mỗi quốc gia) phải tuân theo thỏa thuận giữa các quốc gia (theo các điều ước quốc tế); Các biện pháp được thể hiện trong các quy phạm pháp luật (điều ước quốc tế, luật quốc gia); Được đảm bảo thực hiện thông qua các cơ chế điều chỉnh, trong đó quan trọng nhất là trách nhiệm pháp lý của mỗi quốc gia để loại bỏ những vi phạm xảy ra, đảm bảo cơ chế hoạt động bình thường và ngăn chặn những hành vi tương tự trong tương lai.

Tóm lại, điều chỉnh sử dụng biện pháp TRIMs sẽ phụ thuộc vào đối tượng điều chỉnh, ý muốn chủ quan của chủ thể, nhận thức về việc sử dụng các biện pháp, lợi ích, hiệu quả sử dụng trong mỗi hoàn cảnh, giai đoạn lịch sử nhất định.

 


[1] Lê Minh Tâm, Nguyễn Minh Đoan (2011), Giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật, Trường đại học Luật Nội, Nxb Công an nhân dân, Nội, tr.185

[2] Lê Minh Tâm, Nguyễn Minh Đoan (2011), Giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật, Trường đại học Luật Nội, Nxb Công an nhân dân, Nội, tr.233.