Thứ sáu, 06 Tháng 10 2023 09:30

PHÂN TÍCH KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN THỂ CHẾ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG TẠI LIÊN BANG NGA

1. Bối cảnh và giai đoạn phân tích

Vào cuối những năm 1980, Liên Xô lâm vào khủng hoảng trên tất cả các mặt. Cũng trong thời gian này đã xuất hiện. những dấu hiệu tan rã của nhà nước Liên bang Xô-viết. Ngày 12/6/1990, Đại hội Đại biểu nhân dân Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô-viết Liên bang Nga đã thông qua tuyên bố về chủ quyền quốc gia của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga, quyết định đổi tên nước thành Liên bang Nga. Ngày 12/6/1991, Liên bang Nga thực hiện việc bầu cử Tổng thống đầu tiên. Tuy nhiên sau chính biến tháng 8/1991 Liên Xô chính thức sụp đổ, Đảng Cộng sản Liên Xô tan rã, Nhà nước Liên bang hoàn toàn mất hiệu lực và đến cuối năm 1991 mới thực sự chấm dứt sự tồn tại của Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô-viết, và cộng đồng các quốc gia độc lập mới chính thức ra đời.

Nước Nga ra đời từ sự sụp đổ của Liên Xô nhưng có tiềm năng thực sự về mọi mặt kinh tế, quân sự và ảnh hưởng khá quan trọng trong đời sống chính trị quốc tế. Tuy nhiên, công cuộc cải cách thị trường ở nước Nga đứng trước một loạt khó khăn. Nga tiến hành công cuộc cải cách thị trường trong điều kiện khủng hoảng trầm trọng về kinh tế, chính trị, và xã hội. Kinh tế suy giảm là tình trạng chung của Liên Xô cùng tất cả các nước Cộng hòa hợp thành. Năm 1989 là năm cuối cùng nền kinh tế Liên Xô có tốc độ tăng trưởng dương (14%), sau đó năm 1990 là âm 11.6%. Năm 1991, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Liên bang Nga là âm 15% (tính theo GDP), sản lượng các sản phẩm chủ yếu đều giảm: khai thác dầu mỏ giảm 11%, khai thác than giảm 12%, sản xuất sản phẩm hóa chất giảm 10 - 15%, các sản phẩm công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm giảm 11%, ngũ cốc giảm 24%, xuất khẩu giảm 30,7%, nhập khẩu giam 41,7% (Bùi Huy Khoát, 1995). Thị trường hàng hóa trống rỗng, giá cả tăng vọt, lạm phát hoành hành, mức sống của đa số dân cư suy giảm trong khi phân hóa giàu nghèo diễn ra nhanh chóng. Tình hình chính trị phức tạp, đấu tranh giữa chính quyền hành pháp và lập pháp diễn ra gay gắt.

Xuất phát từ điều kiện như trên, công cuộc cải cách trường của Liên bang Nga được đặt ra một cách triệt để nhằm mục tiêu: phục hưng nước Nga về kinh tế, chính trị xã hội. tinh thần, tăng trưởng và phồn vinh, trên cơ sở đó bảo đảm phúc lợi và tự do cho các công dân, phát triển các thiết chế dân chủ.

2. Cải cách trong lĩnh vực tài chính tiền tệ

Cải cách tài chính, tiền tệ có vị trí hết sức quan trọng trong công cuộc cải cách thị trường ở Nga, góp phần vào công cuộc chuyển đổi nền kinh tế Nga từ cơ chế kế hoạch tập trung sang cơ chế thị trường dựa trên chế độ sở hữu tư nhân và quá trình dân chủ hóa đời sống chính trị của đất nước.

Các biện pháp cải cách trong lĩnh vực tài chính tiền tệ nhằm:

- Hạn chế lạm phát, ổn định tài chính tiền tệ, nhanh chóng biến đồng rúp thành đồng tiền chuyển đổi và là phương tiện thanh toán duy nhất trên toàn lãnh thổ Liên bang Nga để làm cơ sở thực hiện các kế hoạch và giải pháp khác của công cuộc chuyển đổi.

- Tự do hóa môi trường hoạt động kinh tế của Nga, trước hết bao gồm đẩy nhanh tự do hóa giá cả ngoại thương, các hoạt động đầu tư cũng như tự do hóa phân phối các nguồn lực cùng các quan hệ kinh tế đối nội và đối ngoại khác trên cơ sở các quan hệ thị trường ngày càng đầy đủ.

- Phát triển các định chế thị trường như các tổ chức tài chính và thị trường vốn trong nước, đồng thời chủ động và tích cực tham gia các định chế thị trường khu vực và quốc tế.

- Hỗ trợ các chính sách xã hội tích cực nhằm ngày càng chủ động và coi trọng hơn việc bảo vệ quyền lợi dân chúng trước các hậu quả tiêu cực của các bước và biện pháp thực hiện trong quá trình cải cách.

- Phi điều chỉnh hóa nền kinh tế, song song với việc ngày càng hoàn thiện công cụ và nâng cao hiệu quả điều tiết vĩ mô cần thiết của Nhà nước.

Nhằm thực hiện các định hướng trên, cải cách trong lĩnh vực tài chính tiền tệ được thực hiện theo những nội dung chủ yếu sau:

Về giá cả, tự do hóa giá cả là bước đi đầu tiên trên con dường chuyển đổi và được Nga triển khai một cách nhanh chóng, rộng rãi theo kiểu liệu pháp sốc trên toàn lãnh thổ từ cuối năm 1991. Kết quả trong những tháng đầu năm 1992, sau khi thả nổi, giá cả các loại hàng hóa đều tăng vọt nhưng ngay sau đó mức tăng đã chậm dần. Điều này phần nhiều do việc tự do hóa nhập khẩu, kể cả các hàng tiêu dùng (trừ rượu, bia, ôtô, máy bay bị hạn chế bởi thuế nhập khẩu cao) được áp dụng và nhanh chóng làm tăng tổng cung, từ đó làm dịu mức giá thị trưởng. Sự mở rộng mạng lưới và tự do hóa hoạt động thương mại bán lẻ trong nước cũng góp phần tích cực vào việc giảm giá hàng hóa.

Về chính sách lãi suất và tín dụng, đặc trưng nổi bật cho những cải cách trong lĩnh vực lùi suất và tín dụng nói riêng và tài chính tiền tệ nói chung ở Nga trong những năm 1990 là sự tuần hoàn của vòng luẩn quẩn: thắt chặt - nới lỏng rồi tiếp tục lại thất chặt - nới lỏng... tương ứng với những khó khăn về tài chính - tiền tệ và sản xuất - thị trường mà nước này phải đối mặt. Sự bế tắc và luẩn quẩn là ở chỗ: Để kiềm chế lạm phát và lành mạnh hóa nền tài chính - tiền tệ quốc gia, Chính phủ chủ trường thật chặt chính sách tiền tệ, song lại gây ra suy thoái kinh tế và căng thẳng xã hội, dẫn đến phải chuyển sang nới lỏng, khi đó vòng xoáy lạm phát mới lại bùng lên... Tình thế đó cùng với sự thay đổi liên tục các ê kíp của Chính phủ khiến tạo ra những dao động nửa với trong khi thực hiện các chính sách tiền tệ ở Nga. Tuy nhiên, một số cải cách về lãi suất và tin dụng ngày càng tỏ ra nhất quán theo định hướng thị trường chẳng hạn:

- Áp dụng lãi suất ngân hàng ở mức dương (từ năm 1993) thay vì luôn âm trước đó.

- Chấm dứt (kể từ năm 1994) việc phân phối tín dụng tập trung của Ngân hàng Trung ương Nga.

- Chấm dứt trợ cấp lãi suất tín dụng ở Ngân hàng Trung ương - Chấm dứt trợ cấp cho các nước SNG (Cộng đồng các Quốc gia độc lập) thông qua hệ thống tín dụng kỹ thuật. - Chỉ tái cấp vốn cho các ngân hàng thương mại thông qua bán đấu giá và các cơ cấu thị trường khác.

- Hạn chế tối đa cấp tín dụng để thanh toán các khoản vay không thanh toán được của các doanh nghiệp.

- Thành lập Hội đồng tín dụng nhằm phối hợp chặt chẽ hơn hoạt động giữa Chính phủ với Ngân hàng Trung ương.

- Hình thành và phát triển thị trưởng tín dụng liên ngân hàng. Tăng cường kiểm tra hệ thống ngân hàng và thực hiện nghiêm dự trữ bắt buộc.

- Phát triển hình thức cấp tín dụng đầu tư từ các ngân hàng kinh doanh để thay thế cho việc cấp vốn đầu tư không hoàn lại từ ngân sách nhà nước.

- Chấm dứt trợ cấp nhập khẩu.

Thị trường chứng khoán Nga xuất hiện từ đầu năm 1991 với mười sở giao dịch chuyên ngành và trở thành nhân tố mới trong nền kinh tế Liên bang Nga. Cơ sở luật pháp của thị trường chứng khoán được hoàn thiện dẫn, từ Nghị định Chính phủ về phát hành và lưu hành chứng khoán và sở giao dịch chứng khoán Nga (tháng 12/1991), đến sắc lệnh tổng thống về những biện pháp nâng cao hiệu quả các chính sách đầu tư ở Nga (tháng 7/1995) và đến khi Luật về thị trường chứng khoán (tháng 4/1996) được ban hành, chính thức thừa nhận mô hình thị trường chứng khoán mà trong đó các ngân hàng thương mại cùng hoạt động song song với các tổ chức đầu tư phi ngân hàng, kết hợp các nguyên lý tự do hóa trong tổ chức thị trường với sự giám sát của Nhà nước. Thị trường chứng khoán Liên bang Nga có tốc độ phát triển khá nhanh nhờ sự hỗ trợ tích cực của Chính phủ.

3. Tư nhân hóa trong công cuộc cải cách thị trường ở Liên bang Nga

Có thể nói, tư nhân hóa đã trở thành sự kiện kinh tế mang tính chính trị trong các cuộc cải cách thị trường ở Nga. Quá trình tư nhân hóa ở Nga được triển khai rộng rãi từ năm 1992 và trong vòng 10 năm đầu của cải cách nó đã trải qua hai giai đoạn. Hai giai đoạn này khác nhau về mục tiêu, nguyên tắc và biện pháp thực hiện. Trên thực tế, tư nhân hóa ở Nga đã được thực hiện như một chiến dịch, song không hề có thời gian chuẩn bị. Nó được tiến hành song song với quá trình xây dựng và củng cố quyền lực của chính quyền Liên bang Nga. Chương trình được thảo ra một cách nhanh chóng và cũng nhanh chóng được thực hiện trên một diện rộng, không qua những thử nghiệm nhất định ở các doanh nghiệp hay các địa phương.

Giai đoạn 1: Giai đoạn tư nhân hóa hãng phiếu tự nhân hóa (tiếng Nga là vaucher) hay còn được gọi là giai đoạn vaucher hóa.

Ở giai đoạn này mục tiêu pháp lý đã được đặt lên hàng đầu, nghĩa là phải làm sao nhanh chóng tạo ra được một tầng lớp người chủ sở hữu mới, đông đảo trong xã hội để từ đó nhanh chóng tách nhà nước khỏi quá trình quản lý trực tiếp các doanh nghiệp quốc doanh và hợp pháp hóa sở hữu tư nhân Điều này giải thích vì sao thời hạn thực hiện vaucher hóa được để ra một cách cấp bách và cứng rắn. Thực hiện giai đoạn này, phiếu tư nhân hóa được Chính phủ phát không cho mọi thành viên xã hội kể cả trẻ sơ sinh. Như vậy, về mặt hình thức tại sản xã hội đã được chia đều cho mọi thành viên trong xã hội một cách “công bằng". Vaucher ở Nga có đặc điểm là trên đó không ghi tên người sở hữu và được gắn cho một định lượng giá trị là 10.000 Rúp. Giá trị này đã được tính theo giá trị cân đổi ở ngày 01/7/1992. Từ hai đặc điểm đó ta thấy là, vaucher có thể dễ dàng được mua bán, chuyển nhượng và giá trị ghi trên đó là một đại lượng cố định, đây chính là tiền đề cho tư nhân hóa ở giai đoạn tiếp theo.

Theo quy định của Ủy ban tư nhân hóa quốc gia Nga, vaucher chỉ được phát trong vòng hai năm, ai không đi nhận nó tức là đã từ chối phần tài sản mà mình được quyền sở hữu và Nhà nước sẽ không chịu trách nhiệm về việc này.

Với việc phát đồng loạt phiếu tư nhân hóa như vậy. chương trình tư nhân hóa bằng vaucher đã tạo tiền để hình thành các gói cổ phiếu lớn sau này. Các vaucher này có thể được sử dụng để mua cổ phiếu của xí nghiệp đã tư nhân hóa ở thị trường chứng khoán. Chương trình tư nhân hóa cho rằng, bằng cách đó ở Nga sẽ hình thành các nhà đầu tư hợp pháp.

Họ có thể sử dụng vaucher ở quy mô lớn để đầu tư (đôi khi vốn của các nhà đầu tư “chui” cũng được sử dụng vào mục dịch này).

Giai đoạn 2: Giai đoạn tư nhân hóa bằng tiền.

Theo Ủy ban tài sản quốc gia Liên bang Nga, nhiệm vụ chủ yếu của giai đoạn tư nhân hóa bằng tiến là tăng cường trưng thu từ nguồn bán sở hữu của Liên bang Nga để bù đắp ngăn sách và thu hút đầu tư lớn cho các xí nghiệp đầu đàn của Nga, là xác định tỷ lệ hợp lý giữa lợi ích ngân sách với việc hỗ trợ cho các xí nghiệp đã tư nhân hóa.

Cả hai mục tiêu trên đây đều hết sức quan trọng và cấp bách đối với nước Nga khi mà ngân sách bị thiếu hụt trầm trọng và sản xuất thì đình trệ tiêu điều vì không có vốn. Khô mà xác định được mục tiêu nào là hàng đầu và phải được ưu tiên hơn vì ngân sách nhà nước và tình trạng thiếu vốn cho sản xuất của nước Nga đều đang ở dưới đáy vực sâu của khủng hoảng.

Ngay cả những đồng lương hưu và trợ cấp èo uột so với giá cả sinh hoạt Nhà nước cũng không bảo đảm trả được đúng hạn. Ngoài ra còn biết bao khoản chi phí đè nặng lên ngân sách nhà nước mà không thể không chỉ. Có lẽ vì vậy mà trong quá trình thực hiện các mục tiêu của tư nhân hóa thì nhiệm vụ trưng thu cho ngân sách được đặt ở vị trí ưu tiên. Điều đó có thể thấy rõ qua sự phân bổ tiền thu được từ tư nhân hóa của Ủy ban Tài sản quốc gia liên bang.

Nhiệm vụ trưng thu cho ngân sách đối với tư nhân hóa đã được đặt lên hàng đầu. Hầu hết tiền thu được từ tư nhân hóa đều dành cho ngân sách các cấp và các cơ quan nhà nước quản lý hoạt động về tư nhân hóa.

Tư nhân hóa những tài sản thuộc sở hữu nhà nước được thực hiện bằng nhiều biện pháp khác nhau, các nhà kinh tế Nga thì gọi đó là các sơ đồ tư nhân hóa. Đó là: cổ phân hóa, bán đấu thầu bảng tiến, bán tài sản cho thuê, bán các xí nghiệp bị đóng cửa, các xí nghiệp là những con nợ lớn, các công trình xây dựng dở dang, đầu tư thế chấp...

Khác với giai đoạn trước, việc bán cổ phần ở giai đoạn 2 này không diễn ra hàng loạt và với số lượng lớn, mặc dù những giới hạn về giả cổ phần thuộc sở hữu nhà nước được đem bán đã nới rộng, các hình thức tổ chức bán được tổ chức thường xuyên, đều đặn và ở nhiều địa điểm khác nhau. Các giai đoạn giấy tờ có giá khác nhau của Nhà nước cũng như của công ty. đã được phát hành mạnh trong thời kỳ này nhằm tăng thêm các nguồn thu cho ngân sách.

Ngoài ra, Nhà nước đã cho phát hành các trái phiếu có thể chuyển đổi thành các gói cổ phần thuộc sở hữu liên bang kể cả ở các công ty dầu, khí (dự tính khoảng 11% gói cổ phiếu của liên bang), cho phép bán ở các cuộc đấu giá bằng tiền khoảng 8 - 9% cổ phần của các công ty dầu hỏa lớn nhất của Nga.

Thực hiện các chương trình đấu giá đầu tư lớn với những điều kiện đặc biệt như: công ty có thể lấy vốn đầu tư thu hút được ở các phiên đấu giá để trả nợ cho ngân sách liên bang, giá khởi điểm được xác định ở mức không dưới 20 lần so với quy định của cổ phiếu. Mặc dù vậy, việc đặt giá khởi điểm tại các phiên đấu giá thấp hơn giá quy định của cổ phiếu rất khó ngăn chặn bởi vì tính hấp dẫn của cổ phiếu rất thấp.

Những mục tiêu của giai đoạn tư nhân hóa bằng tiền đã không đạt được, kể cả mục tiêu được ưu tiên hàng đầu là tăng nguồn thu cho ngân sách. Các kế hoạch nộp ngân sách bằng tiền thu được từ từ nhân hóa chưa bao giờ được thực hiện. Có thể có rất nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng một số nguyên nhân chủ yếu là:

Thứ nhất, việc bán cổ phần chủ yếu là để lấy tiền nộp vào ngân sách, do đó các công ty cổ phần không muốn bán nhiều. ngay một lúc mà muốn bán rai ra làm nhiều đợt để sẽ có nguồn thu đều đặn nộp vào ngân sách.

Thứ hai, ở giai đoạn 1 phần lớn những xí nghiệp thuộc diện tư nhân hóa tương đối hấp dẫn hơn cả thì đã được tư nhân hóa. Đến giai đoạn này những gói cổ phần được đem ra bán thường là thuộc sở hữu nhà nước ở các xí nghiệp kém hấp dẫn.

Thứ ba, các chương trình tư nhân hóa được vạch ra một cách chủ quan, không sát với khả năng thực tế, với tình hình dung lượng thị trường và chính sách giá cả. Điều này khiến cho nhiều chương trình đầu tư theo cam kết của bên mua cổ phiếu không được thực hiện.

Thứ tư, tình trạng giới giám đốc điều hành thực hiện chính sách “đóng cửa” với các nhà đầu tư bên ngoài xí nghiệp. Trong khi đó các nhà đầu tư này lại là những người bổ sung quan trọng vốn lưu động cho xí nghiệp, nhưng họ lại không có quyền tham gia vào việc quản lý đồng vốn mà họ đã bỏ ra. Chính điều đó đã chứa đầy nghịch lý và là nguyên nhân quan trọng góp phần làm cho sản xuất ở các xí nghiệp không khá lên được sau khi tư nhân hóa và cũng chính từ đó đã làm nản lòng các nhà đầu tư tiềm lực, làm giảm tính hấp dẫn của các cổ phiếu được mang ra bán.

Thứ năm, từ nửa sau năm 1994 và đặc biệt là trong những năm 1995-1996, nhà nước Nga đã cho phát hành một lượng lớn giấy tờ có giá. Trong khi đó những nhu cầu có khả năng thanh toàn trong xã hội rất thấp. Để cạnh tranh với số lượng giầy tỏ có gia của Nhà nước, công thêm với giấy từ cố gia của các công ty, các phiên đấu giá cổ phiếu được đặt ra giá khởi điểm rất thấp để tạo ra sự hấp dẫn nhân tạo của các cô phiếu, mặc dù định mức giá có phiếu đã thấp hơn giá trị thực tế của tài sản rất nhiều. Điều đó làm cho tiền thu được từ tư nhân hóa càng thấp hơn so với dự tính.

Thứ sáu, những nguyên tắc được đề ra trong các sơ đồ tư nhân hóa luôn luôn bị vi phạm làm cho lợi ích của Nhà nước không được bảo đảm mà chỉ bảo đảm cho lợi ích của một số nhóm người nhỏ trong xã hội. Những nhóm người này đã bất chấp luật pháp, thao túng các hành vi thu lợi bất chính ở các cuộc tư nhân hóa bằng tiến.

4. Kinh tế đối ngoại của Liên bang Nga

Sau khi Liên Xô sụp đổ, quan hệ kinh tế đối ngoại của Liên bang Nga cũng như các nước cộng hòa khác giảm sút một cách nghiêm trọng. Nhìn chung, khối lượng buôn bán được thống kê của các nước thuộc Liên Xô trước đây trong những năm đầu tiên tiến hành cải cách giảm đi hơn hai lần.

Sự giảm sút hoạt động kinh tế đối ngoại trên do một loạt nguyên nhân: sự suy thoái kinh tế trong nước diễn ra sâu sắc, giảm nhu cầu đối với một loạt mặt hàng nhập khẩu, sự gián đoạn của các mối liên hệ truyền thống giữa các xí nghiệp do hậu quả của việc phá vỡ không gian kinh tế thống nhất trên lãnh thổ Liên Xô trước đây. Điều đó đã làm cho sản xuất nghiêm trọng hơn. Sự tan rã của khối SEV (Hội đồng Tương trợ suy thoái Kinh tế), sự giảm sút hợp tác của các nước Đông Âu sau khi chuyển sang thanh toán bằng giá thế giới năm 1991, sự không ổn định của kinh tế vĩ mô, mức lạm phát cao và tỷ giá hối đoái dao động mạnh, sự thiếu vắng cấu trúc hạ tầng giao thông vận tại với trình độ tương đối phát triển.

Trong cơ cấu xuất nhập khẩu, sự giảm sút tiềm năng xuất khẩu máy móc thiết bị do suy thoái sản xuất liền ở trước quan hết tôi ngành công nghiệp chế tạo, do khủng hoảng đầu tư và tài chính, do sụp đổ hệ thống xuất khẩu máy móc sang Đông Âu và các nước đang phát triển vốn trước kia là bạn hàng nhập khẩu thiết bị máy móc chủ yếu từ Liên Xô.

Như vậy, trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường tự do hóa hoạt động kinh tế đối ngoại không chỉ là công cụ quan trọng có tính chất đột phá mà còn là nội dung bao hàm trong lĩnh vực cải cách các quan hệ kinh tế đối ngoại.

Kinh nghiệm của những năm đầu thực hiện cải cách kinh tế, trong các nền kinh tế hậu xã hội chủ nghĩa chỉ ra rằng, những kết quả cụ thể của tự do hóa ngoại thương phụ thuộc rất nhiều vào việc tự do hóa hoạt động kinh tế đối ngoại được tiến hành như thế nào, vào sự triệt để và thời hạn tiến hành cải cách, vào những công cụ được sử dụng của chính sách ngoại thương, vào những mục tiêu ưu tiên của nhà nước trong thời điểm đó, vào mức độ liên quan lẫn nhau giữa cải cách nền kinh tế nói chung với cải cách hoạt động kinh tế đổi ngoại nói riêng.

Kinh tế đối ngoại là bộ phận cấu thành của nền kinh tế quốc dân nói chung, do vậy các biện pháp cải cách trong lĩnh vực này không thể tách rời với các biện pháp cải cách trong nền kinh tế quốc dân. Công cuộc cải cách thị trường ở Liên bang Nga đòi hỏi phải thực hiện tổng thể các biện pháp, tự do hóa hoạt động kinh tế đối ngoại là một trong những biện pháp quan trọng, việc thực hiện đòi hỏi phải phù hợp với điều kiện của đất nước trong từng thời kỳ, phải kết hợp chặt chẽ với các biện pháp cải cách khác - có như vậy mới đem lại thu quả cao.

5. Đánh giá những thành công và hạn chế trong quá trình phát triển thể chế kinh tế thị trường tại Nga

Trong suốt những năm cải cách kinh tế thị trường dưới thời Tổng thống Boris Yeltsin, nước Nga luôn luôn đắm chìm trong khủng hoảng. Sau những dấu hiệu phục hồi ngắn ngủi, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ diễn ra vào tháng 8 năm 1948 lại một lần nữa đưa nước Nga vào tình trạng vô cùng khó khăn về mọi mặt. Theo đánh giá của nhiều chuyên gia, cuộc khủng hoảng này có mức độ sâu sắc thậm chí còn hơn cả những khó khăn mà nước Nga gặp phải năm 1992-1993. Nguyên nhân làm cho nước Nga lâm vào tình trạng khủng hoảng sâu sắc triển miền có nhiều, trong đó đặc biệt chú ý đến là vai trò của Nhà nước trong việc quản lý và điều hành kinh tế - xã hội, sự mất ổn định chính trị và mâu thuẫn sâu sắc giữa Tổng thống và Quốc hội. Những cuộc khủng hoảng triền miên đã gạt nước Nga ra ngoài danh sách những nước phát triển kinh tế - xã hội cao của thế giới, đất nước gặp phải vấn đề kinh tế - xã hội hết sức khó khăn.

Rõ ràng, công cuộc cải cách thị trường của Liên bang Nga là vô cùng gian truân và phức tạp, khủng hoảng kinh tế triển miên đã làm cho nền kinh tế nước Nga tụt hậu khá xa so với các nước khác. Mặc dù những khó khăn trong cải cách thị trường là khó tránh khỏi với hầu hết các nước có nền kinh tế chuyển đổi, nhưng ở Nga mức độ khó khăn sâu sắc hơn nhiều. Tuy nhiên, công cuộc cải cách ở Liên bang Nga cũng đã tạo ra được những cơ sở quan trọng của nền kinh tế thị trường với khu vực tư nhân rộng lớn và những yếu tố cơ bản bảo đảm sự vận hành của nền kinh tế thị trường.

Đăng ký nhận email

Đăng ký email để có thể có được những cập nhật mới nhất về tải liệu được đăng tải trên website

Tập san đã phát hành