Thứ hai, 06 Tháng 11 2023 03:17

Phân tích chính sách về chế độ Bảo hiểm xã hội của người nông dân ở Ba Lan

1. Đối tượng tham gia

Theo Luật Bảo hiểm xã hội nông dân Ba Lan ban hành ngày 20/12/1990, quy định đối tượng tham gia là nông dân và thành viên gia đình của họ.

Nông dân: là thể nhân đang sinh sống và có tham gia hoạt động nông nghiệp trong lãnh thổ Ba Lan tại các trang trại đang sở hữu, với diện tích hơn 1 ha đất canh tác (cũng bao gồm nhóm các nhà sản xuất nông nghiệp) hoặc một phần riêng diện tích đất sản xuất nông nghiệp được quy định tại phụ lục Luật Bảo hiểm xã hội nông dân;

Vợ chồng người nông dân: nếu họ tham gia làm việc tại trang trại hoặc trong hộ gia đình tham gia trực tiếp vào trang trại của họ.

Thành viên hộ gia đình: là cá nhân có mối quan hệ chặt với nông dân, ít nhất phải 16 tuổi, ở chung hộ gia đình với nông dân hoặc sống chung trong hộ gia đình của họ hoặc trong trang trại hoặc hàng xóm nhưng làm việc tại trang trại thường xuyên và không duy trì quan hệ lao động với nông dân; nếu cá nhân không thuộc phạm vi điều chỉnh của bất kì chế độ bảo hiểm xã hội và không làm phát sinh quyền chế độ hưu trí và thương tật hoặc từ phúc lợi bảo hiểm xã hội. Tất cả các trường hợp trên được xác định thuộc phạm vi của các chế độ bảo hiểm chung cho người nông dân.

2. Chế độ bảo hiểm xã hội cho người nông dân ở Ba Lan

Bảo hiểm xã hội cho người nông dân ở Ba Lan với các chế độ:

• Bảo hiểm hưu trí và thương tật;

• Bảo hiểm tai nạn, y tế và thai sản, trong đó Trợ cấp tiền theo các chế độ bảo hiểm như tai nạn, y tế và thai sản: Chi trả cố định hoặc nhiều lần đối với điều trị y tế hoặc tử tuất do tai nạn trong quá trình làm việc hoặc chi trả ốm đau;

• Trợ cấp người bảo hiểm hưu trí và thương tật;

• Tiền trợ cấp người cao tuổi cho nông dân;

• Tiền trợ cấp người cao tuổi một lần cho nông dân;

• Tiền trợ cấp người cao tuổi tạm thời cho nông dân;

• Tiền trợ cấp thương tật tại nơi làm việc cho nông dân;

• Tiền trợ cấp đào tạo nghề cho nông dân;

• Trợ cấp gia đình;

• Trợ cấp người cao tuổi và thương tật cho cả nhân nông dân và thành viên gia đình của họ (quy định từ 1/1/1991);

• Trợ cấp tiền hưu trí và thương tật cho các đối tượng như: người giúp việc, lao động cưỡng bức, thương binh, trẻ mồ côi (chỉ cho trợ cấp gia đình); Trợ cấp cho cựu chiến binh hoặc trợ cấp giáo dục; trợ cấp tiền cho người cựu chiến binh phục vụ quân đội; người lao động thương tật trong hầm mỏ, khai thác đá, khai thác uranium; trợ cấp tiền mặt cho lao động cưỡng bức trong các trại tập trung trong chiến tranh;

• Trợ cấp mai táng,

• Trợ cấp người giám hộ (mẹ).

Luật Bảo hiểm xã hội nông dân Ba Lan quy định hình thức bảo hiểm, đó là bắt buộc và tự nguyện.

Chế độ bảo hiểm bắt buộc

Theo Luật Bảo hiểm của Ba Lan, các nhóm đối tượng sau bắt buộc phải tham gia chế độ bảo hiểm bắt buộc là nông dân, vợ hoặc chồng là nông dân hay thành viên hộ gia đình của họ. Một số quy định áp dụng ngoại lệ với nông dân và thành viên hộ gia đình thuộc chế độ bảo hiểm bắt buộc theo luật, đó là:

Thứ nhất, các hoạt động kinh doanh phi nông nghiệp hoặc hợp tác với hoạt động kinh doanh tương tự. Với trường hợp như vậy, họ thuộc phạm vi điều chỉnh của bảo hiểm xã hội nông dẫn với thời hạn 3 năm kể từ khi tham gia hoạt động phi nông nghiệp. Tuy nhiên, họ phải thực hiện một số yêu cầu sau trong vòng 14 ngày kể từ khi tham gia hoạt động kinh doanh phi nông nghiệp họ phải gửi cam kết tiếp tục tham gia bảo hiểm xã hội nông dân cho Quỹ Bảo hiểm nông nghiệp, đồng thời đơn cũng được gửi đến Trung tâm Đăng ký và Thông tin hoạt động kinh tế là cam kết tham gia bảo hiểm xã hội nông dân. Họ phải tiếp tục tham gia trong lĩnh vực nông nghiệp hoặc làm việc tại các trang trại với diện tích trên 1 ha đất canh tác hoặc trong chi nhánh cụ thể, họ không trực tiếp tham gia lao động hoặc quan hệ lao động nào, đồng thời cũng không phát sinh bảo hiểm hưu trí hoặc thương tật hay phúc lợi bảo hiểm xã hội nào. Tuy nhiên, họ phải bắt buộc gửi giấy chứng nhận hoặc tuyên bố gửi tới KRUS về không vượt quá lượng thuế thu nhập từ các hoạt động sản xuất phi nông nghiệp trong năm nộp thuế vào 31/5 hàng năm. “Gói thuế hàng năm - annual border amount" được áp dụng và thông tin về thuế được gửi tới công bố trên Công báo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Ba Lan (“Monitor Polski”). Các nguyên tắc trên cũng áp dụng cho cá nhân tiếp tục công việc kinh doanh phi nông nghiệp đã được đền bù tạm thời, cũng như cá nhân thay đổi các hoạt động tương tự.

Thứ hai, cá nhân ký hợp đồng đại lý, hợp đồng ủy thác hoặc hợp đồng dịch vụ khác theo quy định của Bộ luật Dân sự quy định về công việc đảm nhận và cá nhân được chỉ định ban giám sát, họ có thể tham gia một số loại hình bảo hiểm xã hội khác, nhưng đồng thời vẫn tham gia được bảo hiểm xã hội nông dân, nếu họ có thu nhập từ việc thực hiện các hợp đồng hoặc được thanh toán hàng tháng nhưng không được vượt quá mức trung bình tiền công tối thiểu theo quy định và những cả nhân như vậy có thể rút khỏi chế độ bảo hiểm xã hội nông dân qua tuyên bố gửi tới KRUS.

Ngoài ra, đối tượng trên có thêm một số điều kiện sau: (1) trong vòng 14 ngày họ có thể gửi đơn tiếp tục tham gia bảo hiểm xã hội nông dân tới KRUS (hoặc gửi tới chính quyền địa phương) cùng với kế hoạch đăng kí hoạt động kinh tế; (2) họ vẫn có hoạt động trong nông nghiệp hoặc làm việc với tư cách là một người nông dân thường xuyên, chẳng hạn như trang trại có diện tích hơn 1 ha; (3) không phải là người lao động hoặc không có quan hệ lao động; (4) Không thiết lập quyền hưởng hưu trí hoặc thương tật hoặc lợi ích bảo hiểm xã hội khác; (5) số thuế thu nhập cá nhân với mức thuế năm trước tham gia hoạt động phi nông nghiệp không cao hơn với khoản thuế quy định bắt buộc hàng năm của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Ba Lan.

Chế độ hưu trí và thương tật bắt buộc: Cá nhân nhân được lương hưu từ nguồn tài chính theo quy định của phần Quỹ Đảm bảo và Hướng dẫn nông nghiệp châu Âu hoặc nguồn tài chính Quỹ Nông nghiệp châu Âu cho phát triển nông thôn vẫn có thể có quyền tham gia bảo hiểm hưu trí và thương tật theo quy định của bảo hiểm xã hội nông dân. Vợ/chồng của cá nhân nhận từ hai quỹ trên phải trả hết phúc lợi cho vợ chồng.

Chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện

Chế độ bảo hiểm xã hội nông dân tự nguyện là cá nhân không thuộc điều kiện tham gia bảo hiểm bắt buộc, người có tham gia hoạt động nông nghiệp có nguồn thu nhập thưởng xuyên, bao gồm các nông dân, vợ chồng hoặc các thành viên hộ gia đình canh tác ở các trang trại có diện tích canh tác trên 1 ha. Cá nhân vốn là nông dân nhưng chuyển diện tích đất gồm cả trang trại và cây trồng của họ, nếu họ không tham gia bất kì bảo hiểm xã hội nào hoặc thiết lập quyền bảo hiểm hưu trí hoặc thương tật hoặc phúc lợi xã hội nào thì họ có thể nộp đơn tới các chi nhánh của Quỹ Bảo hiểm xã hội nông nghiệp.

Nếu họ tham gia chế độ tự nguyện, thì họ được hưởng hoàn toàn các chế độ như tai nạn lao động; bảo hiểm y tế, thai sản, hưu trí, thương tật hoặc chỉ tham gia bảo hiểm tai nạn, y tế và thai sản với điều kiện được bảo hiểm từ ngày nộp đơn tham gia.

Chế độ bảo hiểm tai nạn, y tế và thai sản tự nguyện (giới hạn): là những người tham gia hoạt động nông nghiệp và đã tham gia vào một số chế độ bảo hiểm từ một số quỹ bảo hiểm xã hội khác hoặc tham gia bảo hiểm hưu trí hoặc thương tật (trừ những cá nhân tham gia hưu trí hoặc thương tật mà có quyết định không có khả năng tham gia lao động). Gói bảo hiểm như vậy chỉ thanh toán khi sức khoẻ của nông dân suy giảm vĩnh viễn hoặc bị chết khi làm việc hoặc bị bệnh nghề nghiệp.

3. Mức phí đóng bảo hiểm

Chế độ bảo hiểm hưu trí và thương tật tự nguyện: Những cá nhân tham gia chế độ bảo hiểm xã hội nông dân theo dạng tham gia chế độ của “người nông dân” và đã ngừng tham gia hoạt động nông nghiệp không được hưởng chế độ hưu trí hay thương tật theo chế độ bảo hiểm. Nếu họ đã tham gia chế độ hưu trí hoặc thương tật ít nhất 12 năm 6 tháng trước ngày 1/1/1991 hoặc cá nhân đã được nhận chế độ thương tật nông dân (như chế độ hưu trí tạm thời) hoặc cá nhân có trang trại hoặc làm việc tại trang trại của họ mà họ thuộc phạm vi điều chinh của bảo hiểm xã hội nông dân và họ ngừng các công việc liên quan đến nông nghiệp hoặc làm việc tại trang trai với tư cách là nhận trợ cấp giúp việc hoặc trợ cấp phục vụ đặc biệt hoặc trợ cấp việc làm từ năm 25 tuổi và đã tham gia bảo hiểm thương tật. Những cá nhân như vậy cần có quyết định liệu họ tham gia bảo hiểm thuộc phạm vi của KRUS hoặc Tổ chức Bảo hiểm xã hội (ZUS). Nếu họ chọn tham gia KRUS, thì trong vòng 30 ngày quyết định tham gia, họ cần gửi đơn tới KRUS để đăng kí.

Đóng bảo hiểm cho tất cả các cá nhân tham gia bảo hiểm trang trại được thanh toán như nông dân ngoại trừ việc đóng phí của cá nhân thuộc phạm vi điều chỉnh của bảo hiểm hưu trí và thương tật trên cơ sở gửi đơn thanh toán trợ cấp giúp việc, phúc lợi trợ cấp đặc biệt hoặc trợ cấp việc làm chỉ trả bởi quỹ chi trả; đóng bảo hiểm hưu trí và thương tật cho nông dân hoặc hộ gia đình đồng thời kết hợp với chăm sóc trẻ em, được nhận từ ngân sách nhà nước.

Mức đóng bảo hiểm tai nạn lao động, y tế và thai sản được tính toán bình đẳng cho mọi cá nhân tham gia.

Nếu thuộc trường hợp gói bảo hiểm giới hạn thì người tham gia bảo hiểm tai nạn, y tế và thai sản sẽ đóng mức bằng 1/3 mức đóng hàng tháng của gói bảo hiểm bình thường. Hội đồng Bảo hiểm xã hội nông dân sẽ tính mức đóng. Chủ tịch của KRUS sẽ có trách nhiệm thông báo tới Công báo “Monitor Polski”, Ba Lan.

Mức đóng bảo hiểm hưu trí và thương tật từ ngân sách nhà nước liên quan đến chăm sóc trẻ em: Đối tượng tham gia đó là: người nông dân, thành viên hộ gia đình và thành viên gia đình nông dân, họ có trách nhiệm gửi đơn tới các chi nhánh của Quỹ Bảo hiểm xã hội. Nếu tham gia, họ phải tuân thủ các điều kiện: không tham gia bất kì bảo hiểm nào, chẳng hạn như hợp đồng lao động hoặc hợp đồng ủy thác mà không phát sinh quyền bảo hiểm hưu trí và thương tật hoặc phúc lợi bảo hiểm xã hội; dừng hoạt động hoặc tạm hoãn các hoạt động kinh doanh nông nghiệp hoặc ngừng hợp tác hoặc bố/mẹ không tham gia thuộc phạm vi điều chỉnh của KRUS hoặc ZUS.

Mức đóng góp hàng tháng cho bảo hiểm hưu trí: Mức này được tính bằng 10% mức lương hưu cơ bản của tuổi già, mức này được tính theo tháng cuối cùng của quý trước đó. Sau kỳ điều chỉnh lương hưu cơ bản từ ngày 01/03/2019, mức đóng góp được tính theo quý II/2019 là 94.000 PLN mỗi tháng[1]. Các khoản đóng góp của từng nông dân cũng được quy định tùy thuộc vào diện tích đất nông nghiệp mà nông dân đó sở hữu. Cụ thể, những nông dân sở hữu diện tích đất nông nghiệp ít nhất từ 50 ha hàng tháng đóng bổ sung một khoản bảo hiểm hưu trí theo tỷ lệ được tính bằng:

- 12% mức trợ cấp cơ bản tuổi già - nếu trang trại có diện tích đất nông nghiệp dưới 100 ha.

- 24% mức trợ cấp cơ bản tuổi già - nếu trang trại có diện tích đất nông nghiệp từ 100 ha đến 150 ha.

- 36% mức trợ cấp cơ bản tuổi già - nếu trang trại có diện tích đất nông nghiệp từ 150 ha đến 300 ha.

- 48% mức trợ cấp cơ bản tuổi già - nếu trang trại có diện tích đất nông nghiệp trên 300 ha.

Mỗi nhóm diện tích canh tác chỉ đóng chế độ bảo hiểm hưu trí và thương tật. Người nông dân có nghĩa vụ hàng tháng đóng gấp đôi mức cơ bản cho chế độ hưu trí và thương tật nếu họ vừa tham gia làm việc tại trang trại của họ, đồng thời tham gia các hoạt động kinh tế nông nghiệp hoặc hợp tác làm ăn. Người nông dân đóng bảo hiểm hàng tháng vào ngày đầu tiên của tháng, trong trường hợp bảo hiểm ít hơn 1 tháng thì mức đóng được tính theo ngày mà họ tham gia bảo hiểm.

Đối với những khoản đóng góp bảo hiểm cơ bản hàng tháng, những nông dân tham gia bảo hiểm nếu có các hoạt động kinh doanh phi nông nghiệp khác, trực tiếp điều hành hay tham gia cộng tác trong các tổ chức tương tự như vậy thì mức đóng sẽ được tăng gấp đôi[2]. Khoản đóng bảo hiểm hưu trí cho những trường hợp phải chăm sóc trẻ em đến 3 tuổi, nhưng không lâu hơn cho đến khi đứa trẻ 5 tuổi, và lên đến 6 tuổi trong trường hợp đứa trẻ vì lý do y tế cần phải chăm sóc cá nhân, nhưng không lâu hơn cho đến khi đứa trẻ 18 tuổi, sẽ được tài trợ từ ngân sách nhà nước và được áp dụng cho vợ hoặc chồng hoặc thành viên gia đình của người nông dân[3].

Mức đóng góp hàng tháng cho các vấn đề như tai nạn lao động, ốm đau và bảo hiểm thai sản: Quy định mức đóng cho một người do Hội đồng Bảo hiểm xã hội nông dân đặt ra, và được Chủ tịch KRUS công bố. Trong quý II/2019, khoản đóng góp được quy định là 42 PLN/tháng. Nếu thời gian bảo hiểm xã hội của nông dân ít hơn một tháng, thì tỷ lệ phân bổ được tính theo tỷ lệ số ngày mà người đó phải chịu bảo hiểm trong tháng đó. Trong một số trường hợp, hệ thống bảo hiểm xã hội cho nông dân sẽ chi trả trợ cấp bằng tiền mặt cho:

(1) Bảo hiểm hưu trí bao gồm lương hưu một phần tuổi già và trợ cấp hưu trí tạm thời, trợ cấp khuyết tật, trợ cấp từ tuất, trợ cấp đào tạo, trợ cấp thu được từ bảo hiểm xã hội cho nông dân, trợ cấp tang lễ và trợ cấp thai sản;

(2) Tai nạn lao động, ốm đau và bảo hiểm thai sản (bồi thường một lần đối với thương tích vĩnh viễn hoặc kéo dài hoặc tử vong do tai nạn lao động trong nông nghiệp hoặc bệnh nghề nghiệp do nông nghiệp gây ra; trợ cấp ốm đau trong trường hợp thời gian ốm đau là liên tục ít nhất 30 ngày, nhưng không quá 180 ngày, trợ cấp ốm đau trong thời gian dài sau khi mất hiệu lực trong khoảng thời gian 180 ngày, những không quá 360 ngày).

Phạm vi bảo hiểm và quy định về chi trả bảo hiểm Theo quy định của Luật ban hành ngày 27/8/2004 và sửa đổi năm 2015, pos.518 về Quỹ Phúc lợi Chăm sóc sức khoẻ y Công (Publicly Funded Health Care Benefits), bảo hiểm y tế là bảo hiểm bắt buộc: (1) nông dân và thành viên hộ gia đình thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Bảo hiểm xã hội nông dân; (2) Nông dân và thành viên gia đình không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Bảo hiểm xã hội nông dân, và không tham gia bảo hiểm y tế từ các quỹ khác thì họ có quyền tham gia bảo hiểm y tế của KRUS. Mức đóng bảo hiểm y tế của người nông dân là các cá nhân tham gia hoạt động nông nghiệp trong trang trại của họ với diện tích canh tác dưới 6 ha và các thành viên của hộ gia đình họ được nhận tài chính từ ngân sách nhà nước. Mặt khác, người nông dân có diện tích đất canh tác bằng, hoặc lớn hơn 6 hạ thì phải thanh toán bảo hiểm y tế cho bản thân, vợ/chồng hoặc từng thành viên hộ gia đình trong phạm vi bảo hiểm y tế. Họ bắt buộc mức đóng 9% thu nhập của họ hàng tháng tới chi nhánh Quỹ nơi họ làm việc, nhưng không được thấp hơn 9% tiền lương tối thiểu.

Mức đóng bảo hiểm y tế của thành viên hộ gia đình phụ thuộc vào diện tích canh tác của chủ hộ: (1) nếu diện tích canh tác 6 ha hoặc hơn thì người nông dân phải đóng 1 PLN/1 ha; (2) trong trường hợp tại các chi nhánh lớn, người nông dân đóng tổng mức 9% nhưng bằng mức 33,5% trung bình lương hàng tháng của doanh nghiệp trong quý đóng; (3) nếu diện tích canh tác dưới 6 ha thì ngân sách nhà nước đóng.

4. Mức hỗ trợ của nhà nước

Theo chính sách BHXH, các nông dân sở hữu trang trại có diện tích trên 1 ha và những người có thu nhập chính từ hoạt động nông nghiệp được tham gia đóng góp bảo hiểm xã hội. Hiện nay, những khoản đóng góp còn ở mức thấp nhưng có chiều hướng gia tăng theo thời gian[4]. Theo thống kê, thuế nông nghiệp và các đóng góp của người nông dân chiếm tới 95% các khoản chi phi nông nghiệp. Như vậy, sự phối hợp của chính sách thuế nông nghiệp và chính sách BHXH đã đóng vai trò quan trọng đối với thực hiện công bằng xã hội và chống bất bình đẳng, đồng thời góp phần đảm bảo an sinh xã hội cho người nông dân ở Ba Lan.

Chẳng hạn, trong bảng hỗ trợ của Nhà nước cho bảo hiểm xã hội cho nông dân ở Ba Lan từ năm 2000 đến năm 2018 dưới đây cho thấy, tỷ lệ trợ cấp ngân sách trong thu nhập của Quỹ Hưu trí và Khuyết tật Ba Lan trong giai đoạn những năm 90 của thế kỷ XX giảm do số lượng người thụ hưởng trong giai đoạn này giảm. Năm 2000, tỷ lệ trợ cấp trong GDP của Ba Lan ở mức 1,8%, và đến năm 2015 chỉ còn 1%[5]. Mặc dù điều này mang tính tích cực đối với ngân sách trợ cấp cho quỹ bảo hiểm xã hội của nông dân, nhưng đây cũng là vấn đề đối với ngân sách nhà nước khi phải đối mặt với các vấn đề bảo hiểm xã hội cho người nông dân.

Bảng hỗ trợ của Nhà nước cho bảo hiểm xã hội cho nông dân ở Ba Lan từ năm 2000 đến năm 2018[6]

Từ những số liệu trên cũng cho thấy ngân sách của Ba Lan hỗ trợ cho các chế độ bảo hiểm xã hội cho nông dân trong năm 2016, chi tiêu ngân sách cho các cam kết theo luật định được thực hiện bởi KRUS lên tới 17,1 tỷ PLN. Trong năm 2017, theo Luật Ngân sách, trợ cấp cho KRUS để thực hiện các nhiệm vụ này lên đến 17,9 tỷ PLN, chiếm 4,7% ngân sách nhà nước. Chi tiêu cho trợ cấp tuổi già và khuyết tật là khoản mục lớn nhất trong chi tiêu của KRUS và năm 2016 là 17,8 tỷ PLN[7]. Trong năm 2016, KRUS đã chi trả trợ cấp cho khoảng 1,2 triệu người. Tổng chi tiêu của Quỹ trợ cấp cho các trường hợp tuổi già và khuyết tật từ bảo hiểm xã hội là 17,8 tỷ PLN với mức trả trung bình là 1.074, 94 PLN/người[8].

 


[1] ZUS (2019), Social Security in Poland, The Social Insurance Institution, Warsaw, 2017.

[2] Duczkowska-Maysz K., Wiejski rynek pracy wobec integracji z UE [w:] Bdowski P., Midzy transformacja integracj. Polityka spoeczna wobec problemów wspóczesnoci, Wydawnictwo SGH, Warszawa, 2004

[3] ZUS (2017), Social Security in Poland, The Social Insurance Institution, Warsaw, 2017.

[4] Taxes and social insurance contributions charges of farms in poland in the years 2004-2008, https://llufb.llu.lv/conference/economic science rural/2013/Latvia Economic Science Rural_2013_30.pdf

[5] Walczak, D. (2017), Changes in privileged pension scheme for farmers reform without reform, Ubezpieczenia w rolnictwie. Materiały i studia', No 1, p.32.

[6] Nguồn Social securrty in Poland 2019- ZUS (2019), Social Security in Poland, The Social Insurance Institution, Warsaw, 2017.

[7] Gerry Fitzpatrick (2005), Assessment of organizational structure of KRUS: Final report, https://www.krus.gov.pl/fileadmin/moje_doku menty/dokumenty/english_web/Final_Report_W.Bank.pdf.

[8] KRUS (2016), Agricultural Social Insurance Fund (KRUS): Basic Information, Warsaw.

Đăng ký nhận email

Đăng ký email để có thể có được những cập nhật mới nhất về tải liệu được đăng tải trên website

Tập san đã phát hành