Thứ sáu, 17 Tháng 11 2023 08:52

Phân tích những kết quả đạt được liên quan đến độc lập của tòa án ở Việt Nam trong quá trình cải cách tư pháp

Công cuộc cải cách tư pháp đã và đang được Đảng và Nhà nước Việt Nam tiến hành từ năm 2005. Sau 15 năm thực hiện cải cách tư pháp, nhiều vấn đề liên quan đến tổ chức và hoạt động của cơ quan Tòa án với vai trò được xác định là trung tâm của hoạt động từ pháp đã được cải cách, đổi mới. Trong Hiến pháp năm 2013, Chương VIII về Tòa án nhân dân, nhiều nội dung quan trọng về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ[1]; cơ cấu tổ chức[2]; nguyên tắc và hoạt động của Tòa án nhân dân[3]; về Thẩm phán và Hội thẩm[4], Hiệp định nguyên tắc độc lập xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm[5]; Đề cao việc tranh tụng tại Tòa án[6]; đảm bảo áp dụng thống nhất pháp luật[7] ... đều đã được bổ sung, sửa đổi. Đây là những nội dung lớn, đã được thể chế hóa trong Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 và tiếp tục được thể chế hóa trong hệ thống pháp luật để phù hợp với quy định của Hiến pháp mới, tạo cơ sở pháp lý cho việc xây dựng. hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân đảm báo sự độc lập của Tòa án. Trong chuyên đề này sẽ phân tích những kết quả cụ thể về những kết quả đạt được trong quy định của Hiến pháp và pháp luật Việt Nam về sự độc lập của Tòa án nhân dân trong mối quan hệ với các cơ quan nhà nước khác, với Đảng Cộng sản Việt Nam, với truyền thông và dư luận cũng như sự độc lập của Hội đồng xét xử, sự độc lập của cá nhân Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân.

1. Mối quan hệ giữa Tòa án với Quốc hội ở Việt Nam

Theo Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, Quốc hội là cơ quan thực hiện quyền lập hiến, lập pháp. quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước. Trong quan hệ với Tòa án, Quốc hội có các quyền hạn cụ thể sau:

- Quốc hội có quyền quy định tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân tối cao;

- Quốc hội có quyền xét báo cáo công tác của Tòa án nhân dân tối cao;

- Quốc hội có quyền bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chánh án Tòa án nhân dân tối cao;

- Quốc hội có quyền phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao;

- Quốc hội có quyền bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn;

- Quốc hội có quyền quyết định thành lập, bãi bỏ văn bản của Tòa án nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội.

Việc giám sát của Quốc hội đối với hoạt động của Tòa án còn được thực hiện bởi đại biểu Quốc hội thông qua việc yêu cầu Chánh án của Tòa án nhân dân tối cao trả lời chất vấn của đại biểu[8].

Những quy định nêu trên có nhiều điểm tương đồng (quyển bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; xem xét báo cáo, chất vấn Chánh án Tòa án nhân dân tối cao) với một số quốc gia trên thế giới trong quy định về mối quan hệ giữa cơ quan lập pháp với Tòa án.

Trên thực tế, hoạt động giám sát tư pháp của Quốc hội đã được tiến hành thông qua việc xem xét các báo cáo của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, chất vấn Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về các vấn đề liên quan đến hoạt động tư pháp. Quốc hội hoặc Ủy ban thưởng vụ Quốc hội (trong thời gian Quốc hội không họp) xem xét báo cáo công tác của Tòa án nhân dân tối cao[9]. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao báo cáo công tác của Tòa án, giải trình chất vấn hoặc cung cấp tài liệu về những điều cần thiết[10]. Quốc hội cùng các cơ quan của Quốc hội trong quá trình thực hiện giám sát đối với xét xử, tôn trọng chức năng, nhiệm vụ của Tòa án. Quốc hội khi ra Nghị quyết định hướng hoặc chỉ đạo cụ thể nào đối với Tòa án. Ngoài ra, Hiến pháp năm 2013 chỉ quy định về chế độ báo cáo của Tòa án mà không quy định về chế độ trách nhiệm của Thẩm phán; quy định này được một số học giả Việt Nam nhận xét là sẽ không tạo áp lực đối với Thẩm phán[11].

2. Mối quan hệ giữa Tòa án với các cơ quan hành pháp ở Việt Nam

Trước đây, khi hệ thống Tòa án ở Việt Nam được tổ chức theo địa giới hành chính, tổ chức và hoạt động của Tòa án chịu sự lệ thuộc rất nhiều vào chính quyền địa phương về vấn đề nhân sự và tài chính. Tuy nhiên, sau cái cách tư pháp, hệ thống Tòa án đã được quy định đổi với tổ chức và hoạt động nên sự lệ thuộc của Tòa án với cơ quan hành pháp đã giảm đi rất nhiều. Đồng thời, quy định về tài chính của Tòa án các cấp cũng không còn phụ thuộc vào tài chính địa phương trả cho Chính phủ (sau khi thống nhất với Tòa án nhân dân tối cao) trình lên Quốc hội phê chuẩn; cơ chế lương bổng, thu nhập, biên chế của Tòa án được quản lý theo hệ thống riêng theo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân.

Ngoài ra, trong quan hệ giữa Tòa án với các cơ quan hành pháp, Việt Nam đã có cơ chế kiểm soát từ phía cơ quan tư pháp đối với cơ quan hành pháp thông qua việc xét xử các khiếu kiện hành thính của các cơ quan thực hiện quyền lực hành pháp (quyết định hành chính và hành vi hành chính, quyết định xử lý kỷ luật cán bộ công chức). Trên thực tế, theo Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Việt Nam, án hành chính thời gian gần đây có xu hướng tăng về số lượng và phức tạp về tính chất. Đây cũng là bình thường vì kinh tế - xã hội phát triển, các địa phương thực hiện chủ trương quy hoạch, giải tỏa đền bù tái định cư... sẽ liên quan đến người dân. Việc khiếu nại, khởi kiện cơ quan hành chính là không thể tránh khỏi nhất là trong lĩnh vực đất đai[12].

3. Mối quan hệ giữa Tòa án với Đảng Cộng sản Việt Nam

Với tư cách là chủ thể cầm quyền trong điều kiện một đảng, Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện vai trò lãnh đạo đối với Nhà nước trong đó có Tòa án. Điều 4 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Đảng cộng sản là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội". Đảng đã thực hiện vai trò lãnh đạo của mình đối với hoạt động xét xử thông qua việc đề ra các Nghị quyết xác định đường lối, chính sách về tổ chức và hoạt động của ngành Tòa án, đổi mới công tác xét xử, đường lối xây dựng, bổ sung, sửa đổi các đạo luật liên quan đến hoạt động xét xử và tổ chức Tòa án. Đồng thời, Đảng cũng chỉ đạo hoặc cho ý kiến về nguyên tắc chung, trên cơ sở quy định của pháp luật trong việc giải quyết, xử lý tội phạm liên quan đến cán bộ đảng viên, các vụ án nghiêm trọng, phức tạp về chính trị, kinh tế - xã hội, các vụ án tham nhũng có liên quan đến cán bộ thuộc diện quản lý của các cấp uỷ đảng, các vụ án có liên quan đến quan hệ đối ngoại...

Trên thực tế, chính Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị “Về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020" đã đặt nền móng cho nhiều cải cách, đổi mới về tổ chức và hoạt động của Tòa án; Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/7/2010 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW trong đỏ xác định rõ hơn vấn đề cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; về chủ trương tổ chức Tòa án nhân dân theo cấp xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chỉnh; về thời hạn bổ nhiệm và tuổi nghỉ hưu của Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; về cơ chế quản lý tổ chức, cán bộ, cơ sở vật chất, cơ chế phân bổ ngân sách của Tòa án nhân dân các cấp... là những tiền đề căn bản cho những nội dung đổi mới được quy định trong Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 liên quan đến việc Tòa án thực hiện quyền tư pháp và một số nội dung liên quan đến sự độc lập của Tòa án trong mối quan hệ với các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong và ngoài Tòa án.

4. Mối quan hệ giữa Tòa án với cơ quan kiểm sát, điều tra

Theo quy định của pháp luật Việt Nam, các cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án nhân dân có mối quan hệ phối hợp, chế ước nhưng không làm mất đi tính độc lập trong thực thi chức năng mỗi ngành và phối hợp nhưng không bao biện lẫn nhau trong hoạt động điều tra, truy tố và xét xử. Cụ thể:

Cơ quan điều tra là cơ quan tiến hành tố tụng, có nhiệm vụ áp dụng mọi biện pháp theo quy định để tiến hành điều tra các tội phạm xảy ra theo thẩm quyền.

Viện kiểm sát có quyền công tố và kiểm sát việc xét xử. Khi xét xử, Viện kiểm sát có quyền kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử vụ án hình sự của Tòa án; kiểm sát bản án, quyết định, văn bản tố tụng khác của Tòa án; yêu cầu Tòa án cùng cấp, cấp dưới chuyển hồ sơ vụ án hình sự để xem xét, quyết định việc không nghị, Kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án có vi phạm pháp luật nghiêm trọng về thủ tục tố tụng; Kiến nghị, yêu cầu Tòa án, ca quan, to chức, cá nhân thực hiện hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật này; kiến nghị Tòa án khắc phục vi phạm trong hoạt động tố tụng.

Ở giai đoạn xét xử, tuy Tòa án (hoặc Hội đồng xét xử) là cơ quan giữ vai trò chỉ đạo việc xét xử, là cơ quan quyết định quá trình xét xử, nhưng Viện kiểm sát và Tòa án lại hoàn toàn độc lập với nhau. Mỗi cơ quan tự chịu trách nhiệm về công việc của mình. Tòa án không làm thay hay can thiệp vào công việc của Viện kiểm sát (kiểm sát viên) và ngược lại, Viện kiểm sát cũng không can thiệp vào công việc xét xử của Tòa án, mặc dù Viện kiểm sát có quyền và trách nhiệm kiểm sát hoạt động xét xử của Tòa án. Trong trường hợp tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát hiện có các vi phạm trong việc áp dụng pháp luật hình sự hoặc vi phạm thủ tục tố tụng hình sự trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử thì Kiểm sát viên không có quyền quyết định dừng, hoãn phiên tòa hoặc kháng nghị yêu cầu Hội đồng xét xử khắc phục vi phạm ngay tại phiên tỏa mà sẽ xem xét, quyết định việc kháng nghị hay không kháng nghị sau khi kết thúc phiên tòa. Như vậy, tại phiên tòa xét xử, Kiểm sát viên không thể can thiệp làm ảnh hưởng đến quá trình xét xử và phán quyết của Hội đồng xét xử. Trong trường hợp đã xác định rõ hoạt động xét xử của Hội đồng xét xử có vi phạm pháp luật thì sau phiên tòa, Kiểm sát viên giữ quyền công tố và kiểm sát xét xử tại phiên tòa phải bảo cáo Viện trưởng Viện kiểm sát cấp mình để xem xét, quyết định kháng nghị hay không kháng nghị đối với bản án, quyết định của Tòa án để đề nghị xét xử lại theo các thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định hoặc ban hành văn bản kiến nghị để yêu cầu Tòa án khắc phục các vi phạm trong hoạt động xét xử. Như vậy, hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động xét xử của kiểm sát viên, đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, không làm ảnh hưởng đến việc bảo đảm nguyên tắc khi xét xử, Thẩm phán và Hội chăm độc lập chỉ tuân theo pháp luật mà vẫn bảo đảm tính khách quan của hoạt động xét xử[13].

5. Mối quan hệ giữa các Tòa án với nhau

Trước khi Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 được ban hành, hệ thống Tòa án ở Việt Nam được tổ chức theo địa giới hành chính, cụ thể: “Mỗi đơn vị hành chính cấp huyện và cấp tỉnh có một Tòa án nhân dân; Tòa án nhân dân cấp tỉnh là tòa án cấp trên trực tiếp của Tòa án nhân dân cấp huyện; Tòa án nhân dân tối cao là tòa án cấp trên trực tiếp của Tòa án nhân dân cấp tỉnh”[14].. Cách tổ chức hệ thống Tòa án như vậy được đánh giá là không đảm bảo được sự độc lập giữa các Tòa án với nhau. Quan hệ giữa Tòa án các cấp bị ảnh hưởng bởi cách thức tổ chức địa giới hành chính nên dễ bị hiểu giống như quan hệ giữa các cơ quan hành chính, mang tinh mệnh lệnh phục tùng. Và trên thực tế, giữa Tòa án cấp dưới với Tòa án cấp trên cũng thường diễn ra tỉnh trạng thỉnh thị án, sự độc lập giữa các Tòa án với nhau không được đảm bảo.

Do đó, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 đã có nội dung đổi mới về cơ cấu tổ chức hệ thống Tòa án Việt Nam, trong đó "các tòa án nhân dân được tổ chức độc lập theo thẩm quyền xét xứ". Các Tòa án nhân dân sẽ được chia thành bốn cấp: Tòa án nhân dân tối cao; các Tòa án nhân dân cấp cao; các Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; các Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương; các Tòa án quân sự) và được quy định thẩm quyền xét xử riêng cho từng cấp, các tòa có thẩm quyền xét xử độc lập với nhau và không chịu sự chỉ đạo từ bắt kỳ tỏa nào.

Sau đổi mới theo quy định của Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, Việt Nam có 778 Tòa án nhân dân, bao gồm: Tòa án nhân dân tối cao, 3 Tòa án nhân dân cấp cao, 63 Tòa án nhân dân cấp tỉnh, 710 Tòa án nhân dân cấp huyện (không tính các Tòa án quân sự). Về thẩm quyền xét xử, hệ thống Tòa án nhân dân phân thành Tòa án cấp sơ thẩm (bao gồm Tòa án cấp huyện và Tòa án cấp tỉnh); Tòa án cấp phúc thẩm (bao gồm Tòa án cấp tỉnh, Tòa chuyển trách Tòa án nhân dân cấp cao và Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao); cơ quan xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm (bao gồm Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa chuyên trách của Tòa án nhân dân tối cao và Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao). Về cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân tối cao: Tòa án nhân dân tối cao có Hội đồng Thẩm phán; Tòa Hình sự, Tòa Dân sự, Tòa Kinh tế, Tòa Lao động, Tòa Hành chính, 03 Tòa Phúc thẩm, Tòa án Quân sự trung ương, bộ máy giúp việc[15].

Về nhân sự, tổng số biên chế Tòa án nhân dân các cấp có 14.149 người, trong đó, Tòa án nhân dân tối cao là 404 người, các Tòa án nhân dân cấp cao là 305 người, Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là 3.598 người và Tòa án nhân dân huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là 9842 người. Có 2.391 người có trình độ cử nhân hoặc cao cấp chính trị; 4.442 người có trình độ trung cấp chính trị[16].

Nhìn chung, việc Hiến pháp và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân quy định tương đối rõ ràng về chức năng, nhiệm vụ của từng cấp Tòa án đã giúp cho mối quan hệ giữa các Tòa án giảm bớt sự phụ thuộc, không còn mang nặng tính hành chính cấp trên, cấp dưới như giai đoạn trước cải cách.

6. Về sự độc lập của Hội đồng xét xử

Trước Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, nguyên tắc Thẩm phản và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập đã được ghi nhận trong Hiến pháp 1992 tại Điều 130 “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật". Đến Hiến pháp năm 2013, sự độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân đã được ghi nhận một cách rõ ràng hơn tại Điều 103: “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm”. Đồng thời, Điều 9 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 cũng quy định: “Cá nhân, cơ quan tổ chức có hành vi can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật”.

Đối với Thẩm phán, Hiến pháp và pháp luật Việt Nam đã có những đổi mới về cơ chế lựa chọn, nhiệm kỳ, chế độ lương của Thẩm phán để đảm bảo sự độc lập của Thẩm phán. Cụ thể:

Về cơ chế lựa chọn Thẩm phán, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân tối cao năm 2014 đã bổ sung các điều kiện, tiêu chuẩn để tuyển chọn, bổ nhiệm vào từng ngạch Thẩm phán, trong đó quy định thành lập một Hội đồng tuyển chọn, giám sát Thẩm phán quốc gia do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao làm chủ tịch Hội đồng[17] để góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán. Và, theo quy định Thẩm phán các Tòa án đều do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức.

Về nhiệm kỳ, trước đây, Thẩm phán ở Việt Nam chỉ có nhiệm kỷ 5 năm. Song, Hiến pháp năm 2013 đã có quy định đổi mới: Nhiệm kỳ đầu của Thẩm phán là 5 năm, trường hợp được bổ nhiệm lại hoặc bổ nhiệm vào ngạch Thẩm phán khác thì nhiệm kỳ tiếp theo là 10 năm[18].

Về chế độ lương của Thẩm phán, sau nhiều cải cách, mức lương của Thẩm phán đã được cải thiện từng bước, với mức lương năm 2020 đối với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ở mức từ khoảng 16,6 - 17,6 triệu đồng; mức lương của Thẩm phán trong khoảng từ 3,7 - 12,8 triệu đồng tùy theo ngạch bậc[19].

Các quy định nêu trên được nhiều ý kiến đánh giá là giúp nâng cao vị thế, vai trò của Thẩm phán và tạo điều kiện bảo đảm tính độc lập cao hơn của Thẩm phán trong quá trình xét xử.

Đối với Hội thẩm nhân dân, Hiến pháp và pháp luật Việt Nam cũng có những quy định để đảm bảo sự độc lập của Hội thẩm nhân dân như: Hội thẩm dân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu theo sự giới thiệu của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp, đồng thời, cũng do Hội đồng nhân dân cùng cấp miễn nhiệm, bài nhiệm theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân cùng cấp sau khi thống nhất với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp, Nhiệm kỳ của Hội thẩm nhân dân theo nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân cùng cấp. Trong khi xét xử, Hội thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán và độc lập, chỉ tuân theo pháp luật. Ngoài ra, pháp luật Việt Nam còn quy định về Hội thẩm dự khuyết là Hội thẩm được mời dự phiên tòa nhưng không trực tiếp tham gia xét xử ngay mà chỉ thay thế cho Hội thẩm đang xét xử vì lý do sức khỏe. Hội thẩm nhân dân dự khuyết được tham gia xét xử tiếp vụ án nếu họ có mặt tại phiên tòa từ đầu. Còn trường hợp không có Hội thẩm nhân dân dự khuyết để thay thế thành viên Hội đồng xét xử thì vụ án phải được xét xử lại từ đầu[20].

Các quy định nêu trên cho thấy vị trí pháp lý quan trọng của Hội thẩm nhân dân ở Việt Nam. Quá trình tham gia xét xử, các vị Hội thẩm tuân thủ nghiêm các quy định của pháp luật, đồng thời phát huy được vai trò của mình, xét xử độc lập, khách quan, trung thực, góp phần tích cực trong việc tuyên truyền giáo dục, giữ vững an ninh, chính trị và trật tự an toàn xã hội của địa phương.

Đối với Hội đồng xét xử, khi xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính và giải quyết các việc khác theo quy định của pháp luật; căn cứ các tài liệu, chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử, Thẩm phán ra bản án, quyết định việc có tội hoặc không có tội, áp dụng hoặc không áp dụng hình phạt, biện pháp tư pháp, quyết định về quyền và nghĩa vụ về tài sản, quyền nhân thân của đương sự.

Từ năm 2015, Tòa án nhân dân tối cao đã thực hiện Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP ngày 28/10/2015 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về áp dụng án lệ trong xét xử, do đó, người tiến hành tố tụng là các Thẩm phán, Hội thẩm sẽ có thể căn cứ vào án lệ để ra phán quyết, bảo đảm những vụ việc có tình tiết, sự kiện pháp lý giống nhau phải được giải quyết như nhau, qua đó bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử tại các Tòa án, hạn chế sự can thiệp của các cơ quan, tổ chức, cá nhân vào việc xét xử của Tòa án góp phần đảm bảo sự độc lập của cơ quan xét xử. Hoạt động của Hội đồng xét xử, theo quy định của pháp luật, là hoàn toàn độc lập, không chịu sự can thiệp của các cá nhân, tổ chức khác.

7. Quan hệ giữa Tòa án với truyền thông và dư luận xã hội

Truyền thông có vai trò quan trọng trong hoạt động mọi mặt của đời sống xã hội của người dân trên thế giới nói chung và với người dân ở Việt Nam nói riêng. Ở Việt Nam, truyền thông là nguồn của thông tin đóng góp tích cực vào việc kiểm tra, giảm sát hoạt động của cơ quan công quyền, trong đó có hệ thống Tòa án. Thông qua truyền thông, công chúng sẽ biết được về các hoạt động của hệ thống Tòa án, hiểu biết về quá trình đi đến các quyết định pháp lý, để từ đó tôn trọng, tâm phục, khẩu phục đối với mỗi phản quyết của Tòa án, tạo ra niềm tin vào công lý. Đối với phần lớn dân chúng, mối liên hệ chủ yếu của họ với hoạt động của Tòa án là thông qua tin tức của các phương tiện thông tin đại chúng. Chính vì vậy, truyền thông - mặc dù không phải là phương tiện duy nhất - những đóng vai trò quan trọng, là nguồn tin tức và bình luận chủ yếu gây ảnh hưởng lớn nhất đối với các tầng lớp nhân dân về hệ thống Tòa án[21].

Theo thống kê, ở Việt Nam, hệ thống truyền thông đại chúng khá đồ sộ, bao gồm: 859 tờ báo, tạp chí in, trong đó có 199 báo, 660 tạp chí, 135 báo, tạp chí điện tử; 67 đài phát thanh, truyền hình Trung ương và địa phương, trong đó có 2 đài quốc gia là Đài Truyền hình Việt Nam và Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC và 64 đài phát thanh, truyền hình địa phương....[22] Toàn bộ hệ thống TTĐC trên là cơ quan của các tổ chức đáng, nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, chịu sự quản lý chặt chẽ của Ban Tuyên giáo Trung ương và Bộ Thông tin - Truyền thông.

Trong thời gian qua, các phương tiện truyền thông đại chúng ở Việt Nam đã luôn đồng hành cùng với quá trình xây dựng và phát triển của hệ thống Tòa án Việt Nam, không những là cầu nối giúp phổ biến chính sách, pháp luật của Nhà nước; đưa thông tin về các hoạt động của Tòa án đến người dân, mà còn chuyển tải các phản ánh, ý kiến của người dân đến Tòa án; góp phần nâng cao chất lượng hoạt động của các Tòa án, trong đó có việc khắc phục kịp thời những sai sót trong hoạt động nghiệp vụ để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.

Tòa án đã tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể hoạt động trong lĩnh vực truyền thông, các nhà báo trong tác nghiệp; cung cấp thông tin về hoạt động của Tòa án, về những vụ án, phiên tòa di luận quan tâm; tiếp thu, xử lý những vấn đề bất cập, thậm chí tiêu cực mà báo chi phản ánh. Tuyệt đại đa số các cơ quan báo chí cử các phóng viên am hiểu pháp luật, có kinh nghiệm pháp đình theo dõi hoạt động của Tòa án, nên các tác phẩm báo chí có chất lượng tốt, được bạn đọc quan tâm, đánh giá cao. Đa số báo chí đã phản ánh trung thực, khách quan về hoạt động của Tòa án.

Các cổng thông tin truyền thông thực hiện việc công bố bản án giúp các tầng lớp nhân dân đều có cơ hội tiếp cận hoạt động xét xử của Tòa án; góp phần tuyên truyền pháp luật rộng rãi trong công chúng. Trong mỗi bản án, từng quy phạm pháp luật đã được Tòa án cụ thể hóa, áp dụng giải quyết trong từng vấn đề của vụ án. Vì vậy, các quy phạm pháp luật đến với công chúng một cách cụ thể, dễ hiểu và sinh động.

Dư luận xã hội với các ý kiến nhận xét của người dân, các nhà nghiên cứu khoa học, các nhà hoạt động thực tiễn... đối với hoạt động của Tòa án nói chung và với các bản án được đăng tải công khai có tác động tích cực, đã trực tiếp tác động đến đội ngũ Thẩm phản, tạo ra động lực để các Thẩm phán tự học tập, tự đào tạo nâng cao kiến thức chuyên môn nghiệp vụ, góp phần nâng cao chất lượng xét xử của Tòa án.

Có thể nói, hoạt động của truyền thông và dư luận xã hội đã có tác dụng rất tích cực cho việc nâng cao trình độ dân trí về pháp luật, góp phần hạn chế vi phạm và tội phạm; đồng thời, truyền thông giúp tăng cường tính công khai, minh bạch trong hoạt động của Tòa án; bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của nhân dân; tăng cường sự giám sát của cơ quan, tổ chức, cá nhân đối với hoạt động xét xử của Tòa án; góp phần nâng cao chất lượng xét xử, tăng cường trách nhiệm và kỷ luật của Thẩm phán.

Tóm lại, công cuộc cải cách tư pháp ở Việt Nam với trọng tâm là cải cách Tòa án đã đạt được nhiều kết quả quan trọng trong việc quy định và đảm bảo sự độc lập của Tòa án trong mối quan hệ với các cơ quan, tổ chức, cá nhân ở cả bên trong và bên ngoài Tòa án.

 


[1] Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Điều 102 khoản 1 và 3.

[2] Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Điều 102 khoản 2.

[3] Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Điều 103.

[4] Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Điều 105 khoản 3.

[5] Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Điều 103 khoản 3

[6] Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Điều 103 khoản 5

[7] Quốc hội (2013), Hiển pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Điều 104

[8] Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, Điều 80, khoản 1.

[9] Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, Điều 105, khoản 2.

[10] Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, Điều 77, khoản 1

[11] Nguyễn Đình Quyền (2017, Giám sát hoạt động của các cơ quan tư pháp “Những vẫn đất 10 hiện và thực tiễn, http://apphap.vn/Pages/tintuc/frichitiet aspx "tintucid 208.104, truy cập ngày 30/9/2020

[12] Tòa án nhân dân tối cao (2020), Báo cáo công tác năm 2019 và nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2020 của các tòa án, https://www.toaan.gov.vn webcenter/portal/tatc/chi-tiet-chi-dao-dieu-hanh?dDocName-TAND0980). truy cập ngày 30/9/2020.

[13] Phạm Mạnh Hùng (2016), Vấn đề kiểm soát việc thực hiện quyền tư pháp giữa Viện kiểm sát và Tòa án trong tố tụng hình sự, https://tks cu vi thong-tin-khoa-hoc/chi-tiet/79/738, truy cập ngày 30/9/2020

[14] Đinh Văn Quế, Một số vấn đề về mô hình tổ chức Tòa án nhân dân theo yêu cầu cải cách tư pháp, http://sksndie gov.vn/khac-126, truy cập ngày 30/9/2020

[15] Số liệu tổng hợp từ Cổng Thông tin điện tử Tòa án nhân dân tối cao) https://www.toaan.gov.vn/webcenter/portal/tate/gioi-thieu- ta?dDocName=TOAAN017201, truy cập ngày 30/9/2020

[16] Tòa án nhân dân tối cao (2018), Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ truy cải cách tư pháp từ đầu nhiệm kỳ đến nay, https://www.toaan.gov.vn webcenter/portal/tdkt/chitictthongbao?dDocName=TAND058490, Cập ngày 30/9/2020

[17] Xem Quốc hội (2014), Luật tổ chức Tòa án năm 2014, Điều 67, 68, 69, 70.

[18] Quốc hội (2013), Hiếp pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, Điều 105, Khoản 3.

[19] Chi tiết xem tại https://luatvietnam.vn/can-bo-cong-chuc-chi-tiet-bang-luong-phu-cap-nganh-toa-an-nam-2020-moi-nhat-566-23383-article.html,truy cập ngày 30/9/2020.

[20] Xem Điều 288 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 226 Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 155 Luật Tố tụng hành chính

[21] Nguyễn Hòa Bình (2018), Mối quan hệ giữa Tòa án và truyền thông, hoạt động Cũng bởi bản án, https://www.toaan.gov.vn/webcenter/portal/ca/chi- tiet%3FdDocName%3DTAND024879+&cd=2&hl=vi&ct=clnk&gl=vn, truy cập ngày 30/9/2020

[22] Cao Thị Ngọc Yến (2020). Ảnh hưởng của phương tiện truyền thông đại chúng trong kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam, http://tapchi congthuong.vn/bai-viet/anh-huong-cua-phuong-tien-truyen-thong-dai-chung- trong-kiem-soat-quyen-luc-nha-nuoc-o-viet-nam-68923.htm, truy cập ngày 30/9/2020

Đăng ký nhận email

Đăng ký email để có thể có được những cập nhật mới nhất về tải liệu được đăng tải trên website

Tập san đã phát hành