1. Khái niệm về bộ chỉ số đánh giá hiệu quả hoạt động của tổ chức
Khái niệm về “chỉ số” có sự liên quan mật thiết tới khái niệm quan trọng khác, đó là “tiêu chí” và “chỉ tiêu”. “Tiêu chí” theo một ý nghĩa mang tính khoa học là “tính chất, dấu hiệu làm căn cứ để nhận biết, xếp loại một sự vật, một khái niệm”[1]. Như vậy, “tiêu chí” luôn gắn liền với “đánh giá”, tiêu chí là cơ sở, công cụ để đánh giá và đánh giá phải dựa trên “tiêu chí”. Như vậy, để thực hiện một trong những điều đầu tiên phải làm là phải xây dựng được khung chuẩn về tiêu chí đánh giá. Việc xây dựng tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động của tổ chức hay cá nhân ở đây không phải là một vấn đề mới ở nước ta[2], (tuy nhiên về việc xây dựng tiêu chí đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật thì đây là một lĩnh vực mới). Thực tế cho thấy việc đánh giá cán bộ, công chức, viên chức là công việc được thực hiện hàng năm thường xuyên ở các cơ quan, đơn vị trong các cơ quan nhà nước. Công việc này đã được ghi nhận trong các đạo luật về cán bộ, công chức, viên chức. Luật cán bộ, công chức năm quy định việc đánh giá cán bộ công chức hàng năm của đơn vị sử dụng công chức nhằm làm rõ phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao. Mặt khác, kết quả đánh giá là căn cứ để bố trí, sử dụng, bổ nhiệm, đào tạo, bồi dưỡng, khen thưởng, kỷ luật và thực hiện chính sách đối với công chức. Theo đó, thực hiện việc đánh giá này dựa trên bộ công cụ là các tiêu chí cụ thể sau đây: Về chấp hành đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước; đánh giá phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, tác phong và lề lối làm việc; đánh giá năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ; đánh giá tinh thần trách nhiệm và phối hợp trong thực hiện nhiệm vụ; đánh giá thái độ phục vụ nhân dân. Ngoài ra, riêng với công chức giữ vị trí lãnh đạo thì còn được đánh giá thêm các tiêu chí như: Về kết quả hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị được giao lãnh đạo, quản lý; về năng lực lãnh đạo, quản lý; về năng lực tập hợp, đoàn kết công chức. Căn cứ vào hoạt động đánh giá như vậy, cơ quan có thẩm quyền sẽ phân loại công chức như sau: Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ; Hoàn thành tốt nhiệm vụ; Hoàn thành nhiệm vụ; Không hoàn thành nhiệm vụ. Việc đánh giá này cũng có thể đưa tới những hệ quả pháp lý quan trọng. Kết quả đánh giá, xếp loại chất lượng cán bộ, công chức, viên chức là căn cứ để bố trí, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng, nâng ngạch hoặc thăng hạng chức danh nghề nghiệp, quy hoạch, bổ nhiệm, miễn nhiệm, điều động, luân chuyển, biệt phái, khen thưởng, kỷ luật, đánh giá và xếp loại chất lượng đảng viên và thực hiện các chính sách khác đối với cán bộ, công chức, viên chức. Công chức 02 năm liên tiếp không hoàn thành nhiệm vụ thì cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền giải quyết thôi việc (điểm a, khoản 1, Điều 29, Luật Viên chức năm 2010 (sửa đổi tại Luật Cán bộ, công chức, viên chức năm 2019)). Trong lĩnh vực kinh tế, chúng ta có Quyết định số 271/2003/QĐ-TTg ngày 31-12-2003 về việc ban hành Quy chế giám sát và đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước được thay thế bởi Quyết định số 224/2006/QĐ-TTg ngày 06- 10-2006. Liên quan tới bộ công cụ được sử dụng để đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, tại Điều 12 của Quyết định này có quy định việc đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp căn cứ vào các tiêu chí như: Doanh thu và thu nhập khác (riêng với những doanh nghiệp sản xuất sản phẩm chủ yếu của nền kinh tế gồm điện, than, dầu khí, xi măng thì áp dụng chỉ tiêu sản lượng sản phẩm tiêu thụ trong kỳ); Lợi nhuận thực hiện và tỷ suất lợi nhuận thực hiện trên vốn Nhà nước; Nợ phải trả quá hạn và khả năng thanh toán nợ đến hạn; Tình hình chấp hành chế độ, chính sách, pháp luật về: thuế và các khoản thu nộp ngân sách, tín dụng, bảo hiểm, bảo vệ môi trường, lao động, tiền lương, chế độ tài chính, kế toán, kiểm toán, chế độ báo cáo tài chính và báo cáo khác; Tình hình thực hiện sản phẩm, dịch vụ công ích. Các chỉ tiêu vừa nêu được xác định và tính toán từ số liệu trong các báo cáo tài chính, báo cáo thống kê định kỳ theo quy định hiện hành. Các chỉ tiêu trên khi tính toán được xem xét loại trừ những yếu tố làm ảnh hưởng đến các chỉ tiêu này bao gồm: Do nguyên nhân bất khả kháng; Do đầu tư mở rộng phát triển sản xuất làm ảnh hưởng đến lợi nhuận trong hai năm đầu kể từ năm đưa công trình đầu tư vào sử dụng; Do Nhà nước điều chỉnh giá (đối với sản phẩm do Nhà nước định giá) làm ảnh hưởng đến doanh thu của doanh nghiệp. Một số địa phương, với sự hỗ trợ của Bộ Nội vụ đã từng xây dựng các tiêu chí (hoặc tiêu chuẩn) đánh giá chính quyền địa phương. Ví dụ, tỉnh Lạng Sơn đã từng ban hành Bộ tiêu chí (theo thang điểm 100) để đánh giá mức độ vững mạnh của chính quyền xã (theo đó, việc thực hiện các chỉ tiêu nhiệm vụ về kinh tế xã hội là 35 điểm; công tác an ninh - quốc phòng là 10 điểm; công tác quy chế dân chủ cơ sở là 10 điểm; công tác cán bộ là 10 điểm; công tác xây dựng cơ sở Đảng - chính quyền - đoàn thể là 35 điểm[3].
Chỉ số theo nghĩa chung nhất là số liệu thể hiện sự biển động của quá trình hay hiện tượng nào đó. Các chỉ số đánh giá là những đặc tính về định lượng của khách thể được đánh giá[4]. Chỉ số là thước đo đo lường tiến bộ đạt được của một hoặc một nhóm chỉ tiêu/mục tiêu cụ thể. Chỉ số thường là tên của một công cụ đo lường để xác định tình trạng thực tế của một chỉ tiêu[5]. Kết quả của “phép đo” sử dụng chỉ số cho chúng ta biết được mức độ hoàn thành các chỉ tiêu, mục tiêu kế hoạch. Ví dụ, để đo lường chỉ tiêu “giảm một nửa số người có thu nhập dưới 1 USD/1 ngày”, chúng ta có thể dùng chỉ số “thu nhập bình quân đầu người/1 ngày”. Lưu ý, trong thực tế, chỉ tiêu và chỉ số thường rất hay bị nhầm lẫn với nhau. Một cách đơn giản để phân biệt đó là: chỉ số là tên một công cụ đo lường hay một thước đo, nó không bao gồm con số định lượng; còn chỉ tiêu là chỉ số được lượng hóa thành một con số cụ thể để phấn đấu đạt được. Chỉ số cũng không thể hiện hành động, do vậy, khi viết tên chỉ số, không cần ghi các động từ như “tăng/giảm". Chẳng hạn, thay vì ghi “tăng số hộ thoát nghèo” thì ghi tên chỉ số là “số hộ thoát nghèo”. Có thể biểu diễn mối liên hệ giữa “chỉ số”, “chỉ tiêu” và “mục tiêu" như trong Bảng dưới đây:
Mục tiêu (objectives) |
Chỉ tiêu (indicators)
|
Chỉ số (index)
|
Xóa đói giảm nghèo
|
Từ năm 2000 đến năm 2010, giảm 2/5 tỷ lệ nghèo theo chuẩn nghèo quốc tế và 3/5 theo chuẩn nghèo quốc gia |
- Tỷ lệ hộ nghèo chung theo chuẩn quốc tế; - Tỷ lệ hộ nghèo chung theo chuẩn quốc gia; - Số hộ thoát nghèo; - Tỷ lệ tiêu dùng của nhóm 20% nghèo nhất/tổng tiêu dùng xã hội |
Các lý thuyết khoa học về thiết kế chỉ số đánh giá chỉ ra rằng, để thực hiện việc theo dõi, đánh giá một đối tượng (một hoạt động, một tổ chức hoặc một quá trình), có 4 loại chỉ số cơ bản như sau[6]: Chỉ số đầu vào; Chỉ số đầu ra; Chỉ số về kết quả; Chỉ số về ảnh hưởng (tác động). Chỉ số đầu vào thể hiện nguồn lực đầu tư để đạt được các mục tiêu đề ra. Chỉ số này bao gồm các chỉ số thành phần như: vốn đầu tư bằng tiền, hiện vật, sức lao động. Các nguồn lực này có thể đầu tư ngay từ đầu hoặc trong suốt quá trình thực hiện mục tiêu. Các chỉ số đầu vào thông thường là các chỉ số mang tính hiện vật. Chỉ số đầu ra thể hiện sản phẩm (hàng hóa, dịch vụ...) được tạo ra từ việc huy động và sử dụng các nguồn lực. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, các chỉ số đầu vào và đầu ra chỉ là những công cụ định lượng trong phân tích, đánh giá, ngoài ra còn có các công cụ định tính cần được sử dụng trong quá trình phân tích như quy trình thực hiện, ý thức và nhận thức của cán bộ, sự thông thoáng của cơ chế, chính sách v.v… Chỉ số kết quả thể hiện trực tiếp hiệu quả, thực trạng, tiến trình đạt được của các mục tiêu/chỉ tiêu đề ra, phản ánh sản phẩm trực tiếp sau khi có các đầu ra. Đây là loại chỉ số quan trọng nhất trong hệ thống theo dõi, đánh giá vì chúng thể hiện trực tiếp hiệu quả tiến trình thực hiện mục tiêu đề ra. Chỉ số ảnh hưởng/tác động phản ánh tính hiệu quả, đo lường tác động tăng phúc lợi xã hội nói chung do ảnh hưởng của nhiều nhân tố trong thời gian dài và trên diện rộng. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý là, các tác động được tạo ra có thể do rất nhiều nguyên nhân (ví dụ, tuổi thọ trung bình được tăng lên không chỉ do giảm tình trạng đói nghèo mà còn do nhiều yếu tố khác như trình độ giáo dục, chăm sóc y tế, phát triển cộng đồng, v.v… Đồng thời, để có được tác động hay ảnh hưởng mong muốn cần có thời gian dài. Do vậy, chu kỳ thu thập số liệu của các chỉ số ảnh hưởng cũng dài hơn chu kỳ của các chỉ số khác).
Thông thường, trong thực tiễn đánh giá, các nhà đánh giá thường ít khi chỉ sử dụng một chỉ số để đánh giá mà thường sử dụng một tập hợp, một hệ các chỉ số có quan hệ logic nội tại với nhau để đánh giá một sự vật, hiện tượng, một quá trình. Tập hợp, hệ chỉ số có quan hệ logic nội tại với nhau ấy chính là bộ chỉ số đánh giá. Ở chừng mực nhất định, bộ chỉ số đánh giá chính là một chỉ số đánh giá mang tính chất tổng hợp, bao gồm nhiều chỉ số thành phần. Trong tiếng Anh, bộ chỉ số đánh giá chính là Index.
Trên bình diện quốc tế, chúng ta đã khá quen thuộc với Bộ chỉ số phát triển con người (Chỉ số HDI – “Human Developmental Index”). Đây là chỉ số tổng hợp kết hợp của 3 chỉ tiêu cơ bản liên quan đến sự phát triển con người: tuổi thọ, học thức (bao gồm tỷ lệ người biết chữ trong độ tuổi và tỷ lệ người học ở các cấp học) và mức sống của con người thông qua GDP bình quân đầu người tính theo sức mua tương đương (PPP). Đây là một trong những chỉ số quan trọng được sử dụng khá phổ biến để đo lường, so sánh trình độ phát triển giữa các quốc gia trên thế giới[7]. Ngoài ra, trên thế giới, người ta còn biết đến nhiều chỉ số được sử dụng như Chỉ số phát triển liên quan đến giới - GDI (“Gender related development index”), chỉ số về sự tự do của con người - HFI (“Human Free Index”) nhằm xác định các chỉ tiêu về việc làm, tôn trọng quyền con người, an sinh, không có bạo lực v.v.. Nói như vậy để thấy rằng, việc xây dựng các bộ “chỉ số” để đo lường, đánh giá, mô tả tiến trình biến động tăng, giảm của một hiện tượng, một quá trình nào đó là việc làm được sử dụng khá rộng rãi trong nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khác nhau trong và ngoài nước.
2. Khái niệm bộ chỉ số đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước
Cũng giống như các loại bộ chỉ số đánh giá hiệu quả khác, bộ chỉ số đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước là công cụ đo lường và do đó, nó cũng là công cụ nhận thức. Một công cụ đo lường tốt sẽ giúp cho việc đánh giá đúng hơn (nhận thức đúng hơn) về hiện trạng. Trên cơ sở đó, có thể phát hiện ra những xu hướng vận động trong tương lai. Vì thế, bộ chỉ số giống như một chiếc gương soi. Nếu thiết kế gương tốt, hình ảnh thu được sẽ trung thực và ngược lại. Bộ chỉ số đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước chính là tập hợp các chỉ số thành phần được sử dụng để đo lường một cách toàn diện, khách quan hiệu quả thi hành pháp luật của mỗi cơ quan hành chính nhà nước nhất định. Về bản chất, bộ chỉ số này chính là công cụ để đo lường mức độ hiệu quả trong công tác thi hành pháp luật của mỗi cơ quan hành chính nhà nước. Có thể thấy rằng, nói tới hiệu quả thi hành pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước là nói tới mối tương quan giữa hai đại lượng cơ bản là kết quả thực tế của công tác thi hành pháp luật do cơ quan ấy thực hiện so với kết quả dự kiến của hoạt động thi hành pháp luật ấy. Ngoài ra, khi nói tới hiệu quả của hoạt động này, cần phải tính tới cả mối tương quan giữa kết quả thực tế đạt được với chi phí nguồn lực bỏ ra để tổ chức công tác thi hành pháp luật. Nói cách khác, bộ chỉ số hiệu quả thi hành pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước là tập hợp các chỉ số thành phần đo lường hai mối tương quan cơ bản là: Tương quan giữa kết quả thực tế của công tác thi hành pháp luật do cơ quan hành chính ấy thực hiện với kết quả dự kiến của công tác thi hành pháp luật do cơ quan hành chính này thực hiện (đây là tương quan phản ánh hiệu lực hoạt động thực tế của cơ quan hành chính nhà nước); và Tương quan giữa kết quả thực tế của công tác thi hành pháp luật do cơ quan hành chính nhà nước ấy thực hiện với chi phí nguồn lực bỏ ra để tổ chức công tác thi hành pháp luật do cơ quan hành chính nhà nước này thực hiện (đây là tương quan phản ánh hiệu suất công vụ của cơ quan hành chính nhà nước). Nói cách khác, khi thiết kế bộ chỉ số đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của một cơ quan hành chính nhà nước, người thiết kế phải bám sát vào một số thông số cơ bản: Kết quả dự kiến của thi hành pháp luật; Kết quả thực tế của công tác thi hành pháp luật; và Chi phí nguồn lực bỏ ra để tổ chức công tác thi hành pháp luật.
Cụ thể hơn, bộ chỉ số đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước chính là bộ chỉ số đánh giá hiệu quả thực hiện các loại hoạt động cơ bản sau đây của các cơ quan hành chính nhà nước: Ban hành văn bản hướng dẫn thi hành các văn bản của cấp trên để cụ thể hóa, chi tiết hóa hoặc cho phù hợp với đặc điểm cụ thể của ngành, địa phương mà cơ quan hành chính nhà nước thực hiện công việc quản lý; Xây dựng, ban hành hoặc thực hiện các chương trình, kế hoạch, quy hoạch triển khai văn bản pháp luật của cấp trên hoặc do mình đã ban hành; Tổ chức bộ máy, nhân sự, trang thiết bị, ngân sách và các điều kiện bảo đảm khác để tổ chức thi hành pháp luật; Tổ chức hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật; Tiến hành công tác cấp phép, đăng ký, cấp chứng chỉ, giấy chứng nhận (bao gồm cả cấp giấy chứng nhận mang tính ưu đãi cho tổ chức, cá nhân (nếu có)); Tiến hành các hoạt động thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị đối với việc chấp hành văn bản pháp luật của các đối tượng có trách nhiệm phải tuân thủ văn bản pháp luật (các cơ quan trực thuộc, các tổ chức dịch vụ công, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, công dân). Như vậy, có thể hình dung bộ chỉ số đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước được cấu thành từ các chỉ số thành phần là: Chỉ số về hiệu quả hoạt động ban hành văn bản hướng dẫn thi hành; Chỉ số về hiệu quả hoạt động xây dựng chương trình, kế hoạch, quy hoạch; Chỉ số về hiệu quả hoạt động tổ chức bộ máy, nhân sự, trang thiết bị, ngân sách và các điều kiện bảo đảm khác để tổ chức thi hành pháp luật; Chỉ số về hiệu quả hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật; Chỉ số về hiệu quả hoạt động cấp phép, đăng ký, cấp chứng chỉ, cấp giấy chứng nhận; Chỉ số về hiệu quả hoạt động thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm và giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị. Bộ chỉ số này, vì thế sẽ đo lường toàn diện các mặt hoạt động thi hành pháp luật của một cơ quan hành chính nhà nước. Một cơ quan hành chính nhà nước chỉ chú ý tới mặt hoạt động thi hành pháp luật này mà sao lãng mặt hoạt động khác thì sẽ khó có được kết quả đánh giá có giá trị cao.
Có thể nói, bộ chỉ số về hiệu quả thi hành pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước trước tiên đo lường mức độ đạt mục tiêu, yêu cầu mà pháp luật đặt ra đối với các cơ quan hành chính khi tiến hành 6 loại hoạt động kể trên, đồng thời, đo lường hiệu quả sử dụng nguồn lực khi thực hiện từng loại hoạt động nhất định.
Với tư cách là bộ chỉ số đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước, bộ chỉ số này thực hiện các chức năng cơ bản sau:
Là công cụ đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của cơ quan hành chính nhà nước: công cụ này sẽ đánh giá xem cơ quan hành chính nhà nước đang thực hiện đúng, đủ, trọn vẹn sứ mệnh của mình hay không. Khi xem xét, đánh giá khía cạnh này, điều trước tiên cần phải đánh giá xem các cơ quan hành chính nhà nước khi thực hiện sáu loại hoạt động thi hành pháp luật đã đề cập ở trên có đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của các văn bản pháp luật quy định về từng loại hoạt động không.
Là công cụ để giúp các chủ thể có liên quan giám sát hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước: dữ liệu thu được từ quá trình đánh giá này là cơ sở để cấp trên, cơ quan dân cử, công chúng giám sát, đánh giá hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước.
Là công cụ để giúp các cơ quan hành chính nhà nước thực hiện trách nhiệm giải trình với các chủ thể có thẩm quyền (chẳng hạn với cấp trên, với cơ quan dân cử, với người dân) về những công việc mình đã làm được và những công việc mình còn chưa làm được.
Là công cụ để giúp các cơ quan hành chính nhà nước có thêm bằng chứng cho việc thuyết phục các cơ quan có thẩm quyền về kế hoạch hoạt động và kế hoạch ngân sách của mình.
Với bản chất là công cụ để đo lường mức độ hiệu quả trong công tác thi hành pháp luật của mỗi cơ quan hành chính nhà nước, bộ chỉ số đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước có một số đặc điểm chính sau đây:
Một là, chỉ số đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước chính là sự cụ thể hóa, chi tiết hóa các tiêu chí dùng để đánh giá hoạt động thi hành pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước. Các chỉ số đánh giá chính là công cụ đo lường các kết quả thu được trong quá trình triển khai thi hành pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước. Các kết quả này sẽ được sử dụng để so sánh với mục tiêu đã được đặt ra trong quá trình ban hành pháp luật và được thể hiện trong các văn bản pháp luật mà cơ quan hành chính nhà nước có trách nhiệm triển khai thực hiện. Trong mối quan hệ với tiêu chí đánh giá, công cụ đánh giá chính là yếu tố thành phần để tạo thành các tiêu chí đánh giá. Ví dụ: Để đánh giá hiệu quả công tác giáo dục phổ biến pháp luật có thể sử dụng nhiều tiêu chí, trong đó có tiêu chí về nhận thức, thái độ và hành vi của đối tượng; tiêu chí về người làm công tác phổ biến giáo dục pháp luật và tiêu chí về hình thức, phương pháp phổ biến, giáo dục pháp luật. Tuy nhiên, để đánh giá được thì không chỉ dựa vào tiêu chí mà phải cụ thể hóa các tiêu chí đánh giá bằng các chỉ số cụ thể nhằm đo lường hiệu quả. Theo đó, để đánh giá tiêu chí về hình thức, phương pháp phố biến giáo dục pháp luật thì phải cần có các chỉ số:
Số lượng tuyên truyền viên pháp luật của xã, phường được bồi dưỡng, cung cấp tài liệu nghiệp vụ trong năm; - Sự hiện diện của mạng lưới truyền thanh cơ sở tham gia phổ biến, giáo dục pháp luật;
Tỷ lệ văn bản quy phạm pháp luật liên quan trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được phổ biến cho người dân;
Mức độ đầy đủ các loại sách, báo theo quy định và được cập nhật, bổ sung hằng năm cho tủ sách pháp luật;
Sự hiện diện của Thư viện xã, phường (hoặc Bưu điện văn hóa xã, phường) hoặc địa điểm thuận lợi do Ủy ban nhân dân xã, phường quản lý để phục vụ người dân khai thác miễn, giảm phí cơ sở dữ liệu pháp luật qua máy vi tính;
Tỷ lệ hoặc số lượng lượt người dân tra cứu trực tiếp văn bản, tài liệu, sách, báo pháp luật hoặc máy vi tính nối mạng tại các địa điểm Ủy ban nhân dân xã, phường quản lý.
Hai là, chỉ số đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước là những công cụ đánh giá dựa trên những nội dung có thể đo đếm được bằng những con số cụ thể nhằm hạn chế việc đánh giá mang tính chất khái quát - không chỉ rõ được bản chất của vấn đề cần đánh giá.
Đây chính là điểm khác biệt cơ bản giữa đánh giá hiệu quả bằng chỉ số và những cách đánh giá hiệu quả mang tính chất định tính. Nhiều phương pháp đánh giá hiệu quả truyền thống mang tính chất định tính được sử dụng trong việc đánh giá hiệu quả hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước với những đánh giá như: “một số”, “đa số” hay “có những chuyển biến tích cực”... nếu không kèm theo những con số cụ thể đo lường sẽ làm giảm tính chân thực, khách quan của hoạt động đánh giá. Ví dụ, trong một báo cáo được trình cho Chính phủ, có đoạn đánh giá như sau: trong tháng 9, ngành Giáo dục đã phối hợp chặt chẽ với các địa phương tổ chức tốt lễ khai giảng năm học mới cho học sinh toàn quốc. Các địa phương về cơ bản đã cung cấp đủ sách giáo khoa, sách giáo viên và thiết bị phục vụ chương trình thay sách giáo khoa lớp 2 và lớp 7 cho các trường trước ngày khai giảng. Thiết bị giảng dạy cho lớp 1 và lớp 6 được tăng cường. Nhìn chung, công tác chuẩn bị cho năm học mới năm nay tốt hơn năm trước do các cấp ủy, chính quyền và các ngành hữu quan quan tâm tới công tác giáo dục hơn[8].
Ba là, chỉ số đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước mang tính chất đa dạng, xuất phát từ tính đa dạng của đối tượng được đánh giá. Chỉ số đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước là công cụ nhằm đánh giá hiệu quả hoạt động thi hành pháp luật cho nhiều loại cơ quan hành chính khác nhau. Các chỉ số cần phải được xây dựng phù hợp với tính chất về tổ chức, hoạt động từng loại cơ quan hành chính. Trong đó, có những cơ quan hành chính có chức năng quản lý tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội trong phạm vi cả nước (Chính phủ), một địa bàn nhất định (Ủy ban nhân dân các cấp) và có những cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chuyên môn, chỉ quản lý trên một hoặc một số lĩnh vực (bộ). Do các cơ quan hành chính nhà nước có tính chất hoạt động và chức năng nhiệm vụ, thẩm quyền khác nhau nên có thể kết luận rằng không thể dùng một bộ chỉ số nào làm công cụ để đánh giá chung cho mọi cơ quan hành chính nhà nước. Chính vì thế, mỗi loại cơ quan hành chính nhà nước cần thiết kế những chỉ số đánh giá cụ thể khác nhau.
Cuối cùng, nội dung chỉ số đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước là sự cụ thể hóa các nội dung đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của cơ quan nhà nước nói chung. Vì vậy, các chỉ số này phải thể hiện được các yêu cầu đánh giá hiệu quả pháp luật nói chung nhằm xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật trong từng giai đoạn nhất định tùy thuộc vào đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
[1] PGS.TS. Nguyễn Đăng Thành (chủ biên): Đo lường và đánh giá hiệu quả quản lý hành chính nhà nước: Những thành tựu trên thế giới và ứng dụng ở Việt Nam, Nxb. Lao động, Hà Nội, 2012, tr. 44.
[2] Điều này lại càng đúng với giới pháp luật nói chung và giới nghiên cứu pháp luật nói riêng. Cho tới nay, trong các chương trình giảng dạy về luật tại các cơ sở đào tạo luật của Việt Nam, nội dung về đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật hầu như chưa được đề cập tới (ngoại trừ việc một số cơ sở đào tạo luật có giảng dạy đôi chút về hiệu quả pháp luật nói chung). Các giáo trình về luật hành chính được sử dụng ở các cơ sở đào tạo luật của nước ta cũng hoàn toàn không có nội dung nào về việc đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật (TG).
[3] TS. Nguyễn Hữu Đức và ThS. Phan Văn Hùng (đồng chủ biên): Xác định tiêu chuẩn và phương pháp đánh giá chính quyền xã trong sạch vững mạnh, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 148-150
[4] PGS.TS. Ngô Thắng Lợi: Hoạch định phát triển kinh tế - xã hội: Lý luận và thực tiễn ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 271.
[5] PGS.TS. Nguyễn Đăng Thành (chủ biên): Đo lường và đánh giá hiệu quả quản lý hành chính nhà nước: Những thành tựu trên thế giới và ứng dụng ở Việt Nam, Nxb. Lao Động, Hà Nội, 2012, tr. 44.
[6] . PGS.TS. Ngô Thắng Lợi: Hoạch định phát triển kinh tế - xã hội: Lý luận và thực tiễn ở Việt Nam, Sdd, tr. 272-274
[7] ThS. Bùi Văn Quyết: Kinh tế môi trường, Nxb. Tài chính, Hà Nội, 2008, tr. 33-34
[8] Tóm tắt báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình Chính phủ tại phiên họp thường kỳ tháng 9-2013 (nguồn: Cổng thông tin điện tử Chính phủ).