Thứ sáu, 07 Tháng 6 2024 04:37

Một số giải pháp phát huy nội lực, nâng cao năng lực công nghệ quốc gia tại Việt Nam

Hiện nay, tiềm lực phát triển công nghiệp công nghệ cao ở Việt Nam còn rất hạn chế, các doanh nghiệp, dự án tham gia sản xuất sản phẩm công nghệ cao và cung ứng dịch vụ công nghệ cao ở Việt Nam với số lượng ít, quy mô nhỏ.

Về số lượng: Đến tháng 4/2021, ở Việt Nam mới có 49 doanh nghiệp công nghệ cao được Bộ Khoa học và Công nghệ công nhận và 25 doanh nghiệp được chứng nhận dự án ứng dụng công nghệ cao. Có rất nhiều tỉnh, thành phố chưa có doanh nghiệp nào được Bộ Khoa học và Công nghệ cấp giấy chứng nhận.

Chương trình phát triển công nghệ cao quốc gia do Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, cả nước có 9 đề tài, còn chương trình do Bộ Công Thương chủ trì có 13 dự án. Chương trình quốc gia phát triển công nghệ cao đã được 10 năm, với số lượng đề tài, dự án như vậy là quá ít so với tiềm năng và thế mạnh của nước ta. Các nhiệm vụ, dự án của cả hai chương trình này đều là của các doanh nghiệp, công ty, các viện nghiên cứu, trường đại học...

Số lượng doanh nghiệp tham gia cung ứng sản phẩm hỗ trợ cho công nghiệp công nghệ cao ở nước ta còn quá ít. Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp địa phương tham gia chuỗi giá trị sản phẩm công nghệ cao chưa nhiều. Mặc dù các doanh nghiệp FDI lớn đã bắt đầu tăng tích cực về tỷ lệ nội địa hóa nhưng không chỉ có doanh nghiệp trong nước tham gia sản xuất các linh kiện, mà bao gồm cả doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp FDI đang hoạt động ở Việt Nam. Trong số đó, tỷ lệ tham gia của các doanh nghiệp Việt Nam trong liên kết với các doanh nghiệp FDI không đáng kể. Trong số 93 nhà cung cấp linh phụ kiện cho Công ty SEV (Tập đoàn Samsung), chỉ có 7 doanh nghiệp Việt Nam.

Về quy mô: Các doanh nghiệp tham gia sản xuất sản phẩm công nghệ cao ở Việt Nam hầu hết là các doanh nghiệp có quy mô nhỏ. Sản phẩm công nghệ cao ở nước ta chủ yếu thuộc lĩnh vực điện tử, công nghệ thông tin nhưng cho đến nay chưa có một cơ sở công nghiệp sản xuất phần mềm thuộc lĩnh vực công nghệ cao đủ mạnh, đa số các công ty này có quy mô nhỏ về vốn, nguồn nhân lực, cơ sở vật chất và trang thiết bị còn hạn chế. Trong số các doanh nghiệp đã được Bộ Khoa học và Công nghệ chứng nhận là doanh nghiệp công nghệ cao thì chủ yếu là doanh nghiệp tư nhân với quy mô nhỏ, doanh nghiệp nhà nước có quy mô lớn hơn. Các doanh nghiệp công nghệ cao có vốn đầu tư nước ngoài với quy mô cũng không lớn nếu so với các doanh nghiệp công nghệ cao của Tập đoàn Samsung.

Như vậy, có thể nhận thấy, số lượng, quy mô công nghiệp công nghệ cao ở Việt Nam cho phát triển kinh tế - xã hội ở một số địa phương là chưa nhiều, còn mờ nhạt, chưa rõ nét. Chính vì vậy, trong các báo cáo của Sở Khoa học và Công nghệ; Sở Công thương của một số tỉnh, thành hầu như không đề cập đến sự đóng góp của các ngành công nghiệp công nghệ cao.

Nhìn từ các nước, chính sách phát triển công nghiệp công nghệ cao của Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc... thành công là do có môi trường quốc tế thuận lợi. Tuy nhiên, môi trường quốc tế là quan trọng nhưng không mang tính chất quyết định mà quan trọng hơn là các nước này đã biết kết hợp khéo léo và hiệu quả các yếu tố thuận lợi bên trong và bên ngoài, kết hợp nội lực và ngoại lực. Điều này thể hiện trên một số nội dung chủ yếu như:

Một là, các nước đã ban hành hàng loạt các chính sách khơi dậy tiềm năng vốn trong nước và thu hút vốn đầu tư bên ngoài. Để huy động vốn trong nước, Hàn Quốc đã khuyến khích tiết kiệm; hạn chế chi tiêu của chính phủ; đa dạng hóa hệ thống tài chính; tư nhân hóa các doanh nghiệp nhà nước. Để huy động nguồn vốn bên ngoài, Hàn Quốc đã đề ra một số biện pháp để thu hút vốn đầu tư nước ngoài như sớm ban hành Luật đầu tư nước ngoài với những điều kiện ưu đãi; thành lập các khu chế xuất; xây dựng và từng bước hoàn thiện thị trường tiền tệ, ngân hàng, chứng khoán...

Hai là, các nước chú ý đến khai thác thị trường trong nước đi đôi với việc chiếm lĩnh thị trường ngoài nước. Một số nước như Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ đã có nhiều chính sách hỗ trợ để tăng sức cạnh tranh của các doanh nghiệp công nghệ cao, nhất là những công ty mới thành lập, sức cạnh tranh còn yếu và giúp các công ty này tìm chỗ đứng trong phân công lao động quốc tế và trên thị trường thế giới. Hàn Quốc là nước điển hình trong tập trung phát triển một số tập đoàn kinh tế trong sản xuất sản phẩm công nghệ cao, trở thành các đối thủ của các tập đoàn lớn của Mỹ, Nhật Bản, các nước Tây Âu như Hyundai, Samsung... Có được như vậy, là nhờ Chính phủ Hàn Quốc đã hỗ trợ ban đầu cho các công ty này về vốn, lao động, có trình độ công nghệ đủ sức cạnh tranh để chiếm lĩnh thị trường thế giới.

Ba là, thu hút công nghệ nước ngoài đi đôi với xây dựng năng lực quốc gia. Thu hút công nghệ cao nước ngoài thông qua đầu tư trực tiếp, các hợp đồng nhập khẩu công nghệ, khai thác qua đội ngũ chuyên gia nước ngoài... là nhân tố quan trọng góp phần tạo nên thành công của các quốc gia như Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản... Tuy nhiên, những quốc gia này không chỉ dừng lại ở việc tiếp thu công nghệ cao một cách thụ động, mà để khai thác một cách có hiệu quả, các nước này rất chú ý đến nâng cao khả năng tiếp thu công nghệ, đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu và triển khai công nghệ bằng các biện pháp như: có chiến lược từng bước hình thành và nâng cao năng lực công nghệ quốc gia; kết hợp giữa nhà nước và tư nhân trong hoạt động R&D khoa học, công nghệ; có các chính sách khuyến khích và đãi ngộ với hoạt động phát triển khoa học, công nghệ...; trong đó đặc biệt chú ý đến đầu tư lớn cho R&D khoa học, công nghệ.

Bốn là, tăng cường liên kết, hợp tác để khai thác, phát huy nguồn nhân lực. Kinh nghiệm này từ Nhật Bản, Trung Quốc. Nhằm tăng cường tạo sự liên kết, hợp tác giữa các viện nghiên cứu, trường đại học với các doanh nghiệp, Nhật Bản đã thành lập thành phố khoa học Tsukuba. Thành phố Tsukuba đã thu hút các viện nghiên cứu và đào tạo, các khu công nghiệp, các hãng sản xuất và cán bộ nghiên cứu. Nhật Bản đã thành lập một trung tâm nghiên cứu công nghệ cao ở Tsukuba và cho phép trung tâm có cơ chế độc lập, có mối quan hệ chặt chẽ với các bộ nhưng không trực thuộc. Trung tâm nghiên cứu thực sự trở thành nơi kết nối các trung tâm khoa học và các trường đại học trong cả nước thành mạng lưới liên kết chặt chẽ, hiệu quả. Thành công trong phát triển công nghệ cao ở thành phố Bắc Kinh của Trung Quốc là đã biết huy động nhân lực từ các viện nghiên cứu, trường đại học ngay ở thành phố bởi Thủ đô Bắc Kinh - trung tâm giáo dục và khoa học - công nghệ toàn quốc, là nơi tập trung Viện Hàn Lâm khoa học Trung Quốc với các viện, sở nghiên cứu khoa học - công nghệ cấp quốc gia.

Bài học từ kinh nghiệm trong việc kết hợp hài hòa việc du nhập, tiếp thu công nghệ cao nước ngoài tiến đến làm chủ và tự sáng tạo công nghệ cao cần phải được vận dụng sâu sắc vào chính sách công nghệ ở nước ta bởi phát triển công nghiệp công nghệ cao ở nước ta từ năng lực “nội sinh" còn rất nhiều hạn chế.

ü    Nếu xét về quy mô: Các doanh nghiệp tham gia sản xuất sản phẩm công nghệ cao ở Việt Nam hầu hết là các doanh nghiệp có quy mô nhỏ. Sản phẩm công nghệ cao ở nước ta chủ yếu thuộc lĩnh vực điện tử, công nghệ thông tin nhưng cho đến nay ở nước ta chưa có một cơ sở công nghiệp sản xuất phần mềm thuộc lĩnh vực công nghệ cao đủ mạnh, đa số các công ty này có quy mô nhỏ về vốn, về nguồη nhân lực, cơ sở vật chất và trang thiết bị còn hạn chế. Theo số liệu Văn phòng chứng nhận công nghệ cao - Vụ Công nghệ cao - Bộ Khoa học và Công nghệ thì: Trong tất cả các doanh nghiệp công nghệ cao & nước ta, ngay cả các doanh nghiệp trong nước đã được Bộ Khoa học và Công nghệ chứng nhận là doanh nghiệp công nghệ cao thì chủ yếu là doanh nghiệp tư nhân với quy mô nhỏ, chỉ có 1 doanh nghiệp công nghệ cao thuộc thành phần kinh tế nhà nước có quy mô lớn hơn; trong tổng số 8 doanh nghiệp công nghệ cao thì tổng số vốn ban đầu của 3 doanh nghiệp công nghệ cao trong nước (Công ty Cổ phần Thông minh MK; Công ty trách nhiệm hữu hạn ATS Co., Ltd.; Công ty VNPT Tech) chỉ bằng 0,53% (15,6/2932,6) so với số vốn ban đầu của 5 doanh nghiệp công nghệ cao nước ngoài (Công ty Trách nhiệm hữu han Nissei Electric Hà Nội; Công ty SEV - Tập đoàn Samsung; Công ty SDIV - Tập đoàn Samsung; Công ty Trách nhiệm hữu hạn Kefico Việt Nam; Công ty Cổ phần Bang Joo Electronics Việt Nam).

ü   Trình độ sản xuất còn thấp, cơ sở vật chất chưa hiện đại: Một số doanh nghiệp trong nước ở Việt Nam tham gia sản xuất sản phẩm công nghệ cao nhưng chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ, quy mô sản xuất không lớn nên trình độ trang thiết bị với hệ thống dây chuyền sản xuất chưa hiện đại. Mức độ hợp tác quốc tế trong chuyến giao công nghệ và sản xuất của một số doanh nghiệp còn hạn chế. Các doanh nghiệp trong nước chưa tiếp cận được công nghệ cao nguồn có đẳng cấp trong khu vực và quốc tế. Một số doanh nghiệp sản xuất sản phẩm công nghệ cao nhưng tỷ lệ tổng doanh thu từ sản phẩm công nghệ cao trên tổng doanh thu còn thấp (nhỏ hơn 70%) nên chưa được công nhận là doanh nghiệp công nghệ cao. Vì vậy, công nghiệp công nghệ cao ở Việt Nam chủ yếu do thu hút các dự án đầu tư nước ngoài, các loại hình doanh nghiệp công nghiệp công nghệ cao của Việt Nam là rất ít và chủ yếu sản phẩm tập trung chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp sản xuất phần mềm. Sản phẩm công nghệ cao của các doanh nghiệp trong nước trên địa bàn vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ (Công ty Cổ phần Thông minh MK; Công ty Trách nhiệm hữu hạn Hệ thống kỹ thuật ứng dụng - ATS Co. Ltd.; Công ty Cổ phần Công nghệ Công nghiệp Bưu chính Viễn thông VNPT Tech) chủ yếu thuộc lĩnh vực công nghiệp phần mềm, đơn giản, chủ yếu là đơn chiếc, giá trị chưa cao; các sản phẩm chủ yếu tập trung vào các loại từ điển, xử lý tiếng Việt, phục vụ học tập, các ứng dụng trong quản lý nhà nước, quản trị công ty, quản lý tài chính, kế toán..., mà chưa quan tâm đến các ứng dụng trong công nghiệp chế tạo các thiết bị và hệ thống thiết bị điện tử hiện đại, mức độ tự động hóa cao. Chính vì vậy, theo số liệu từ Văn phòng chứng nhận công nghệ cao, Bộ Khoa học và Công nghệ cho thấy: Xét các doanh nghiệp công nghệ cao ở vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ thì tổng doanh thu của các doanh nghiệp trong nước (Công ty Cổ phần Thông minh MK; Công ty Trách nhiệm hữu hạn Hệ thống kỹ thuật ứng dụng ATS Co.Ltd; Công ty VNPT Tech) là rất nhỏ so với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (Công ty SEV; Công ty SDIV - Tập đoàn Samsung). Tổng doanh thu của 5 doanh nghiệp công nghệ cao trong nước và nước ngoài (Công ty Cổ phần Thông minh MK; Công ty Trách nhiệm hữu hạn Nissei Electric Hà Nội; Công ty Trách nhiệm hữu hạn Hệ thống kỹ thuật ứng dụng - ATS Co.Ltd.; Công ty Trách nhiệm hữu hạn Kefico Việt Nam; Công ty Cổ phần Bang Joo Electronics Việt Nam) chỉ bằng 263,03/652,43 (triệu USD) = 18,811% tổng doanh thu của 2 doanh nghiệp công nghệ cao của Tập đoàn Samsung (Công ty SEV và SDIV) (Tính theo doanh thu năm thứ nhất được Bộ Khoa học và Công nghệ chứng nhận là doanh nghiệp công nghệ cao).

Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thông qua con đường chuyển giao công nghệ đã thực hiện các dự án đầu tư sản xuất sản phẩm công nghệ cao ở Việt Nam. Các sản phẩm của các dự án đầu tư ở Việt Nam chủ yếu là các loại thiết bị điện tử, truyền thông, máy tính và máy văn phòng nhưng nhìn chung trình độ công nghệ trong các dự án này mà các công ty mẹ ở nước ngoài chuyển giao cho các công ty con ở nước ta hầu hết không phải là công nghệ cao nguồn (chỉ là công nghệ trung bình cao đối với nước ngoài).

Liên kết, hợp tác trong sản xuất sản phẩm công nghệ cao và cung ứng dịch vụ công nghệ cao còn yếu, đặc biệt là công nghiệp hỗ trợ cho công nghiệp công nghệ cao. Chính vì vậy, sản phẩm công nghệ cao thuộc lĩnh vực điện tử ở nước ta cũng như trong cả nước, phần lớn là các sản phẩm lắp ráp dựa trên nhập khẩu các thiết bị, linh phụ kiện từ nước ngoài. Tỷ lệ nội địa hóa ở các sản phẩm công nghệ cao ở nước ta còn thấp, giá trị gia tăng chủ yếu từ lao động giá rẻ. Các doanh nghiệp này không tham gia cung cấp được sản phẩm đòi hỏi độ chính xác cao, mà chỉ cung cấp được những sản phẩm đòi hỏi kỹ thuật rất đơn giản. Sản phẩm hỗ trợ đòi hỏi độ chính xác cao, các tập đoàn lớn chủ yếu là nhập khẩu hoặc do doanh nghiệp FDI trong nước cung cấp[1].

Phát triển công nghiệp công nghệ cao phải huy động nguồn lực lớn về vốn, nhân lực, công nghệ nên không chỉ dựa vào nội lực mà cần phải huy động các nguồn lực từ nước ngoài, từ đó sẽ giúp cho công nghiệp công nghệ cao ở Việt Nam sẽ phát triển thuận lợi và nhanh hơn. Tuy nhiên, nguồn lực bên ngoài là quan trọng nhưng nếu quá chú trọng nguồn lực ngoài nước sẽ làm cho nền kinh tế nói chung và công nghiệp công nghệ cao ở Việt Nam nói riêng lệ thuộc hoàn toàn vào kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Chính vì vậy, phát triển công nghiệp công nghệ cao ở Việt Nam phải xác định huy động các nguồn lực trong nước là chủ yếu, khi đó mới đảm bảo yếu tố phát triển bền vững lâu dài. Theo đó, Việt Nam cần thực hiện tốt một số nội dung sau:

Một là, mỗi địa phương cần chủ động đề ra kế hoạch thu hút đầu tư nước ngoài vào phát triển công nghiệp công nghệ cao. Phải coi đây là hướng quan trọng, tất yếu hiện nay để phát triển công nghiệp công nghệ cao, đặc biệt là phát triển các dự án công nghiệp công nghệ cao có quy mô lớn. Theo đó, mỗi địa phương cần chủ động để ra chính sách ưu đãi về thuế, tín dụng để thu hút các dự án này. Đồng thời, phải có biện pháp kiểm soát về sử dụng lao động và tỷ lệ “nội địa hóa" sản phẩm công nghệ cao ở các doanh nghiệp FDI.

Hai là, nâng cao khả năng tiếp thu công nghệ cao. Bên cạnh việc cải thiện căn bản về khả năng hấp thụ đầu tư, ban hành các chính sách ưu đãi thuế hay hỗ trợ khác thì cần phải nâng cao dần khả năng tiếp thu công nghệ. Phát triển công nghiệp công nghệ cao ở Việt Nam nếu chỉ dừng lại ở hoạt động nhập khẩu công nghệ cao mà không có khả năng tiếp thu và tự phát triển công nghệ cao trong nước thì không những không có khả năng hấp thụ và khai thác có hiệu quả công nghệ cao nhập khẩu mà sẽ luôn ở tình trạng tụt hậu về công nghệ so với các nước. Nâng cao khả năng tiếp thu công nghệ đảm bảo cho doanh nghiệp trong nước đủ sức cạnh tranh và tham gia vào chuỗi cung ứng sản phẩm công nghệ cao. Khi đó, hiệu quả của việc thu hút vốn đầu tư FDI sẽ tốt hơn, nền kinh tế giảm dần sự lệ thuộc công nghệ vào nước ngoài.

Theo đó, cần có chiến lược từng bước hình thành và nâng cao năng lực công nghệ quốc gia để có thể tiếp thu, đổi mới, làm chủ công nghệ cao. Tăng cường đầu tư cho khoa học và công nghệ, kết hợp giữa Nhà nước và tư nhân trong hoạt động R&D khoa học - công nghệ, có chính sách khuyến khích và đãi ngộ đôi với hoạt động R&D khoa học - công nghệ là những biện pháp nhằm tạo nên một nền tảng công nghệ cần thiết để phát triển công nghiệp công nghệ cao ở Việt Nam hiện nay.

Chính phủ kết hợp với tư nhân trong phát triển công nghiệp công nghệ cao: Chính phủ cần hỗ trợ các tổ chức R&D; kết hợp giữa Nhà nước và tư nhân trong hoạt động R&D khoa học, công nghệ; có các chính sách khuyến khích và đãi ngộ đối với hoạt động phát triển khoa học, công nghệ.

Mặt khác, Việt Nam cần chuyển vai trò chủ đầu tư R&D từ Chính phủ sang các hình thức phi chính phủ. Trước mắt, cần thực hiện một số biện pháp sau: 1) Cần sớm ban hành luật giống như Luật xúc tiến khai thác và phát triển kỹ thuật của Hàn Quốc để nhu cầu đổi mới công nghệ không chỉ là nhu cầu mang tính tự thân của doanh nghiệp, mà tăng kinh phí cho hoạt động R&D hằng năm của các doanh nghiệp là yêu cầu bắt buộc (10% đến 15% lợi nhuận trước thuế để tái đầu tư cho khoa học, công nghệ); 2) Thành lập các viện nghiên cứu nhằm tăng cường hợp tác, nghiên cứu sáng tạo, ứng dụng và chuyển giao công nghệ ở Việt Nam; 3) Thành lập quỹ giống như Quỹ khai thác, phát triển kỹ thuật của Hàn Quốc mà ở đó huy động được nhiều cá nhân, đơn vị, doanh nghiệp và các tổ chức chính phủ, phi chính phủ tham gia đóng góp; 4) Phát triển đổi mới, sáng tạo công nghệ ở quy mô quốc gia, tăng cường hợp tác - phối hợp giữa các trường, viện nghiên cứu, các cơ quan nghiên cứu khoa học, công nghệ và các cơ quan quản lý khoa học, công nghệ của các bộ, ngành, Nhà nước, trong đó, nên lựa chọn doanh nghiệp là trọng tâm trong việc đổi mới sáng tạo công nghệ.

Cần thực hiện nhiều hình thức chuyển giao công nghệ cao vào Việt Nam như: nhập khẩu trực tiếp công nghệ, mua bằng phát minh sáng chế, khuyến khích người Việt Nam đi du học để tiếp thu những tri thức mới hoặc mời các chuyên gia giỏi từ nhiều nước khác nhau trên thế giới. Tuy nhiên, một điều quan trọng là Việt Nam không thụ động tiếp nhận, mà cần chủ động sáng chế công nghệ cao dựa trên công nghệ đã nhập bằng cách không bắt chước nguyên mẫu mà cần tìm cách cải tiến công nghệ nhập khẩu để tạo ra sản phẩm công nghệ cao mang thương hiệu của Việt Nam.

Ba là, Nhà nước cần gia tăng hỗ trợ về vốn cho các dự án phát triển công nghiệp công nghệ cao, đặc biệt là các dự án có quy mô lớn. Theo đó, Chính phủ cần thực hiện triệt để chủ trương tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng. Đồng thời thực hiện các biện pháp huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán... trong đó có thể huy động nguồn vốn trong dân cho phát triển công nghiệp công nghệ cao thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ. Tuy nhiên, Nhà nước phải tạo dựng được lòng tin đối với nhân dân để người dân tin tưởng đóng góp tài sản cá nhân cho phát triển công nghiệp công nghệ cao. Muốn vậy, cần phải nâng cao năng lực quản lý tài chính trong đầu tư phát triển công nghiệp công nghệ cao, kiên quyết khắc phục tình trạng lãng phí, tốn kém và gây thất thoát nguồn vốn do nhân dân đóng góp. Cần sử dụng nguồn vốn đầu tư cho công nghiệp công nghệ cao một cách có hiệu quả, nghiên cứu một cách kỹ lưỡng về chủ trương đầu tư, đầu tư có trọng tâm, tránh đầu tư phân tán. Cần có các biện pháp kiểm tra, giám sát, xây dựng hệ thống pháp luật, hoàn thiện hệ thống tài chính, kiểm toán để tạo dựng được những điều kiện quan trọng huy động vốn từ nhân dân cho phát triển công nghiệp công nghệ cao.

Trước mắt, Chính phủ cần hỗ trợ các địa phương khi mà vì kết cấu hạ tầng liên quan đến nghiên cứu và phát triển ở các địa phương còn kém. Vì vậy, Chính phủ cần tập trung vào phát triển kết cấu hạ tầng cho các địa phương này như: xây dựng thể chế cơ bản hỗ trợ cho doanh nghiệp công nghệ địa phương; ban hành luật hỗ trợ các khu công nghệ cao; hỗ trợ về ngân sách từ phía Nhà nước; tư vấn từ phía các tổ chức của các bộ, ban, ngành của Chính phủ...

Đồng thời, hỗ trợ các địa phương trong việc điều tra nghiên cứu, đề ra các kế hoạch phát triển công nghệ cao, công nghiệp công nghệ cao cụ thể ở địa phương. Chính phủ cần hỗ trợ kinh phí đầu tư cho các dự án của doanh nghiệp địa phương, kể cả những dự án công nghệ có tính mạo hiểm để giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp khởi nghiệp trong việc hiện thực hóa ý tưởng công nghệ.

Bốn là, tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư thông thoáng, tăng cường xúc tiến đầu tư, tạo sức hấp dẫn thu hút vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt từ các nhà đầu tư là các tập đoàn, công ty lớn xuyên quốc gia. Trên cơ sở quy hoạch phát triển công nghiệp công nghệ cao ở Việt Nam, mỗi địa phương cần xây dựng danh mục kêu gọi đầu tư nhằm cung cấp thông tin cho các nhà đầu tư trong nước và quốc tế, với từng dự án cần được mô tả khái quát về nội dung, sản phẩm, địa điểm, khả năng thị trường, dự kiến vốn đầu tư, thời gian triển khai dự án, đối tác trong nước... Mỗi địa phương cần chủ động tiến hành vận động, xúc tiến đầu tư một cách cụ thể, trực tiếp với từng dự án, trong đó tập trung vào các công ty, tập đoàn lớn tại các nước phát triển. Đồng thời, chuyển hướng mạnh thu hút đầu tư từ những lĩnh vực mà các công ty, tập đoàn Tây Âu, Bắc Âu, Bắc Mỹ có thế mạnh: điện tử, viễn thông, điện, cơ điện tử, cơ khí, công nghệ thông tin...

Để huy động vốn đầu tư nước ngoài phát triển công nghiệp công nghệ cao ở Việt Nam có hiệu quả, mỗi địa phương cần tích cực, chủ động thực hiện các hoạt động cụ thể, như: Chủ động giới thiệu cung cấp cho doanh nghiệp trong nước và nước ngoài các chính sách ưu đãi về thuế, các điều kiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật, giá thuê đất, điện nước...; xây dựng các trang thông tin điện tử về các dự án, các chính sách kêu gọi đầu tư để các doanh nghiệp, cá nhân nước ngoài dễ dàng nghiên cứu tìm hiểu; tổ chức các hội nghị doanh nghiệp trong và ngoài nước nhằm tiếp xúc với các nhà đầu tư...

Năm là, tiếp tục xây dựng và thực hiện nhiệm vụ, chương trình khoa học, công nghệ nói chung và chương trình phát triển công nghệ cao. Tăng cường phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương trong xây dựng và triển khai các chương trình, quy hoạch, kế hoạch phát triển khoa học, công nghệ nói chung, chương trình phát triển công nghệ cao nói riêng. Trong quản lý vĩ mô, cần đề ra được nhiều nhiệm vụ khoa học, công nghệ và phát triển công nghệ cao chiến lược, dài hạn, đồng thời các nhiệm vụ này cần có tính liên kết chặt chẽ với nhau. Hoàn thiện các văn bản về việc xây dựng cấu trúc chương trình, xác định nhiệm vụ, tiêu chí sàng lọc và phương thức triển khai đôi với các nhiệm vụ khoa học - công nghệ cho phù hợp với cơ chế quản lý khoa học - công nghệ mới. Xây dựng cơ sở dữ liệu thống kê quốc gia tin cậy, đồng bộ về khoa học, công nghệ và kinh tế - xã hội. Cần sớm hình thành hệ thống đánh giá độc lập và bộ chỉ số đánh giá hoạt động khoa học - công nghệ, đặc biệt là công nghệ cao - lĩnh vực mới ở Việt Nam.

Cần sớm ban hành chế tài quy định trách nhiệm của cơ quan, cá nhân trong việc quản lý, sử dụng kinh phí và nghiệm thu kết quả thực hiện nhiệm vụ khoa học, công nghệ. Đồng thời, phải thực hiện chặt chẽ khâu xét tuyển đối với cá nhân, đơn vị thực hiện nhiệm vụ khoa học, công nghệ cũng như chú ý đến khâu xét tuyển đề tài, trong đó đặc biệt chú ý đến những dự án có khả năng ứng dụng trong sản xuất ở các địa phương.

Cần sớm cải cách thủ tục hành chính, khắc phục tình trạng việc giao dự toán cho các dự án thuộc Chương trình nghiên cứu, đào tạo và xây dựng hạ tầng kỹ thuật công nghệ cao nhưng thường xuyên bị chậm về thời gian so với kế hoạch nên có thể làm mất cơ hội phát huy của đề tài, làm mất tính thời sự của một số kết quả nghiên cứu vì một số công nghệ cao có chu kỳ ngắn. Đồng thời, cần sớm đề ra phương án triển khai thực hiện các dự án phát triển nhân lực công nghệ cao thuộc chương trình này.

Sáu là, đầu tư thích đáng vào việc phát triển tiềm năng khoa học, công nghệ đất nước và ở mỗi địa phương. Theo đó, cần tăng cường ngân sách nhà nước để tăng đầu tư nguồn lực cho công tác thông tin, đầu tư trang thiết bị, cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực, đặc biệt là nhân lực công nghệ cao.

Nâng cao hiệu quả trong đầu tư và sử dụng các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia, chủ động mở rộng khai thác các nguồn kinh phí ngoài ngân sách nhà nước. Đồng thời, thu hút nhiều hơn nữa sự tham gia nghiên cứu của các cá nhân, tập thể đơn vị, trong đó chú ý đến những chuyên gia đầu ngành trong các lĩnh vực công nghệ cao. Trong việc mua sắm thiết bị, nên chú ý tính đồng bộ, không nên dàn trải mà tập trung mua sắm các thiết bị hiện đại nhằm phục vụ hoạt động nghiên cứu, phát triển công nghệ cao.

Bảy là, cần tăng cường liên kết giữa doanh nghiệp và các viện nghiên cứu, trường đại học nhằm gia tăng về số lượng công nghệ cao được nghiên cứu trong nước, ứng dụng vào sản xuất. Để tăng cường mối liên kết này, ngoài sự cố gắng của mỗi bên, cần có sự hỗ trợ của Nhà nước, thông qua các cơ chế, chính sách, sự quan tâm, định hướng đối với cả nhà trường và doanh nghiệp. Trước hết, cần sớm ban hành những cơ chế, chính sách cụ thể, đủ mạnh tạo điều kiện hỗ trợ sản phẩm đầu ra và cơ chế, chính sách hỗ trợ bảo đảm bù đắp rủi ro trong nghiên cứu, ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất.

Đẩy mạnh liên kết giữa doanh nghiệp và các viện nghiên cứu, trường đại học cần có sự chủ động từ hai phía và trên một số lĩnh vực như hợp tác xây dựng chương trình đào tạo và chuẩn đầu ra; trao đổi với nhau về nhu cầu nhân lực theo từng giai đoạn; hỗ trợ đào tạo nhân lực và đầu tư xây dựng cơ sở vật chất cho đào tạo, các phòng thí nghiệm hiện đại... Theo đó, các trường đại học chủ động xây dựng chương trình đào tạo cho phù hợp với nhu cầu thực tiễn của doanh nghiệp, còn doanh nghiệp chủ động đặt hàng nghiên cứu và phát triển công nghệ cao đối với các viện nghiên cứu, trường đại học.

Tiếp tục hoàn thiện quy hoạch các viện nghiên cứu, trường đại học nhằm tạo thành một mạng lưới có quy hoạch, phân bổ hợp lý hơn giữa vùng, miền và chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực hoạt động. Cần thành lập tổ chức khoa học - công nghệ nghiên cứu thực hiện các nhiệm vụ đặt ra ở địa phương. Trong thời gian tới, các tổ chức khoa học - công nghệ cần chuyển đổi sang hình thức hoạt động tự chủ và phấn đấu có nhiều hơn nữa viện nghiên cứu, trường đại học đạt trình độ khu vực và quốc tế, trong đó hai viện: Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam và Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam thực sự trở thành hạt nhân, đầu tàu thúc đẩy và lan tỏa phát triển khoa học, công nghệ nói chung và công nghệ cao ở các ngành, lĩnh vực trọng điểm nói riêng.

Tám là, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ ở các doanh nghiệp. Doanh nghiệp công nghiệp là khâu trung tâm của đổi mới công nghệ, khâu ứng dụng các kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ nói chung và công nghệ cao nói riêng vào sản xuất. Ngoài việc quan tâm đến nhập các thiết bị máy móc hiện đại, công nghệ cao từ nước ngoài, các doanh nghiệp còn phải chú ý đến hoạt động R&D, đổi mới sản phẩm, tiếp nhận, ứng dụng, làm chủ, cải tiến và phát triển công nghệ nhập. Chính vì vậy, cần phải đẩy mạnh hoạt động R&D của các doanh nghiệp nhằm thúc đẩy năng lực chế tạo và hấp thụ công nghệ của các doanh nghiệp. Theo đó, cần: Nâng cao nhận thức của các doanh nghiệp, phải thấy đồi mới công nghệ, hướng đến ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất là nhu cầu tự thân và đầu tư cho R&D và đổi mới công nghệ là động hực phát triển, từ đó nâng cao tỷ lệ đầu tư cho đổi mới và phát triển công nghệ.

Đầu tư nâng cao tiềm lực, năng lực nghiên cứu của các tập đoàn, tổng công ty, trong đó lựa chọn và xây dựng thí điểm một số doanh nghiệp tiên phong ở Việt Nam có đủ năng lực, tiềm lực để hỗ trợ trực tiếp tham gia các nhiệm vụ phát triển công nghệ cao có quy mô lớn.

 


[1] Nguồn: Tổng hợp từ số liệu do Văn phòng chứng nhận công nghệ cao, Bộ Khoa học và Công nghệ.

Sửa đổi lần cuối Thứ sáu, 26 Tháng 7 2024 09:25

Đăng ký nhận email

Đăng ký email để có thể có được những cập nhật mới nhất về tải liệu được đăng tải trên website

Tập san đã phát hành