Thứ sáu, 14 Tháng 6 2024 10:08

Phân tích về cấu trúc của quan hệ pháp lý giữa Nhà nước và Doanh nghiệp nhà nước

Dưới bình diện nghiên cứu lý luận thì xem xét cấu trúc của một loại quan hệ pháp lý là xem xét các bộ phận hợp thành quan hệ đó. Để phân tích một cách chính xác cấu trúc của quan hệ pháp lý ở đây đầu tiên cần phải xác định khái niệm cấu trúc.

Ở Việt Nam, quan hệ pháp lý gồm ba yếu tố hợp thành, đó là: chủ thể, khách thể và nội dung (quyền, nghĩa vụ pháp lý). Quy chế pháp lý, quyền và nghĩa vụ trong quan hệ pháp lý có mối tương quan chặt chẽ. Vì vậy, để nghiên cứu cấu trúc của quan hệ pháp lý với tính cách là sự thống nhất giữa hình thức pháp lý và nội dung vật chất, cần xem xét hai vấn đề cơ bản là địa vị pháp lý của chủ thể và khách thể của quan hệ pháp lý giữa Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước.

1. Địa vị pháp lý của doanh nghiệp nhà nước

Trong quan hệ pháp lý giữa Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước, địa vị pháp lý của doanh nghiệp nhà nước có ý nghĩa quan trọng đối với chủ thể pháp lý doanh nghiệp nhà nước

Địa vị pháp lý của doanh nghiệp nhà nước được xem xét từ vị trí, vai trò đến những chức năng mà Nhà nước đã xác định trong các văn bản pháp luật có liên quan đến tổ chức, hoạt động và quản lý hoạt động của doanh nghiệp nhà nước (gồm hai bộ phận lớn là quyền và nghĩa vụ trong tổ chức quản lý doanh nghiệp và quyết định về tài sản).

Quyền và nghĩa vụ trong tổ chức quản lý doanh nghiệp nhà nước được xác định thông qua các quy định về: vị trí nguyên tắc hoạt động, nhiệm vụ của doanh nghiệp nhà nước; quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của doanh nghiệp nhà nước đối với tài sản; tổ chức kinh doanh và tổ chức quản lý doanh nghiệp nhà nước (trong đó có quy định về vị trí của doanh nghiệp nhà nước trong mối quan hệ với cơ quan quản lý cấp trên, chính quyền địa phương và các cơ quan quản lý khác).

Quyền và nghĩa vụ đối với tài sản được xác định bởi các quy định liên quan đến việc quản lý hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trên thị trường như: chiến lược kinh doanh, khoa học - kỹ thuật; vật tư, tiền lương, tài chính, tín dụng, giá cả; liên doanh, liên kết; xuất nhập khẩu; hợp đồng.

Mặt khác, pháp luật luôn thừa nhận sự bình đẳng về mặt pháp lý giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Tuy nhiên, ở mỗi giai đoạn phát triển, mỗi doanh nghiệp lại có vị trí, vai trò, nhiệm vụ riêng trong xã hội và trong nền kinh tế. Trong đó, Nhà nước sử dụng doanh nghiệp nhà nước như một công cụ chính sách xuất phát từ địa vị pháp lý của doanh nghiệp nhà nước, bảo đảm chủ thể này có quyền và nghĩa vụ đặc thù phù hợp với vị trí, chức năng và quan hệ tổ chức của mình với Nhà nước. Do đó, khái niệm địa vị pháp lý của doanh nghiệp nhà nước bao gồm vị trí, vai trò, nhiệm vụ của doanh nghiệp trong nền kinh tế cũng như hệ thống quyền, nghĩa vụ pháp lý của doanh nghiệp nhà nước.

Vai trò và vị trí của doanh nghiệp trong nền kinh tế thể hiện yêu cầu khách quan của nền kinh tế đối với doanh nghiệp, đồng thời là cơ sở để Nhà nước xây dựng hệ thống quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp. Ngược lại, sự tồn tại của hệ thống quyền và nghĩa vụ thể hiện vai trò và vị trí của doanh nghiệp nhà nước về mặt pháp lý, năng lực pháp luật và phạm vi hoạt động của chủ thể này trong nền kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước hoạt động trên cơ sở những quy định chung và thống nhất của pháp luật hiện hành, song trên thực tế, mỗi loại hình doanh nghiệp lại có quyền và nghĩa vụ cụ thể khác nhau trong quá trình kinh doanh. Do đó, địa vị pháp lý của doanh nghiệp nhà nước vừa có quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp nhà nước nói chung, vừa có quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp nhà nước trong một loại hình doanh nghiệp cụ thể.

Địa vị pháp lý của doanh nghiệp nhà nước quyết định mức tự chủ và tự do trong hoạt động kinh doanh, bao gồm các quyền và nghĩa vụ pháp lý phát sinh khi doanh nghiệp nhà nước tham gia vào các quan hệ pháp luật trong quá trình hoạt động. Trên cơ sở những phân tích ở trên, có thể nhận định, địa vị pháp lý của doanh nghiệp nhà nước là tổng hợp những quyền hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm của doanh nghiệp nhà nước được pháp luật quy định, thể hiện vị trí, vai trò và chức năng của doanh nghiệp nhà nước trong quá trình kinh doanh. Đây là cơ sở pháp lý quy định quyền hạn và nghĩa vụ của doanh nghiệp nhà nước khi tham gia vào các quan hệ pháp lý được hình thành trong quá trình kinh doanh.

Như vậy, địa vị pháp lý của doanh nghiệp nhà nước gồm hai bộ phận. Một bộ phận bao gồm những quyền hạn, nghĩa vụ, trách nhiệm của doanh nghiệp nhà nước được pháp luật xác định. Theo đó, bộ phận này phải được pháp luật quy định tương ứng với đặc thù của doanh nghiệp nhà nước cũng như vai trò của chủ thể này trong nền kinh tế, đồng thời phải phù hợp với những điều kiện và nguyên tắc của cơ chế thị trường. Pháp luật phải “dung hòa” giữa lợi ích của Nhà nước (với tự cách là chủ sở hữu) và lợi ích của doanh nghiệp - một chủ thể kinh doanh độc lập. Bộ phận này thể hiện rõ sự khác nhau trong đặc điểm pháp lý của doanh nghiệp nhà nước với doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Doanh nghiệp nhà nước là mô hình tổ chức kinh doanh thuộc sở hữu nhà nước, chịu sự quản lý của Nhà nước thông qua hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền.

Do đó, cần có sự phân biệt rõ ràng về tư cách của Nhà nước trong mối quan hệ với doanh nghiệp nhà nước với tư cách là chủ sở hữu hay chủ thể thực hiện quyền lực công cộng.

Bộ phận thứ hai trong địa vị pháp lý của doanh nghiệp nhà nước là những quyền hạn, nghĩa vụ của một doanh nghiệp độc lập với chức năng kinh doanh. Ở đây, pháp luật phải quy định phù hợp với nguyên tắc thị trường, bảo đảm quyền tự do kinh doanh và sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp, không phân biệt quy mô, ngành, nghề, sở hữu. Điều này thể hiện sự cạnh tranh bình đẳng, góp phần thúc đẩy sự năng động, nhạy bén, tính độc lập và khả năng kinh doanh của doanh nghiệp. Nội dung, phạm vi, quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp nhà nước phải được quy định phù hợp với những đòi hỏi khách quan do vị trí độc lập của doanh nghiệp nhà nước với tư cách là người cung cấp hàng hóa, dịch vụ trong cơ chế thị trường.

Về hình thức pháp lý, bộ phận thứ nhất được thể hiện trong quy định của pháp luật về doanh nghiệp nhà nước; bộ phận thứ hai được thể hiện trong các quy định của pháp luật điều chỉnh những quan hệ về doanh nghiệp và kinh doanh.

2. Địa vị pháp lý của Nhà nước trong mối quan hệ với doanh nghiệp nhà nước

Trong quan hệ pháp lý giữa Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước, Nhà nước là chủ thể của quyền lực chính trị, thiết lập quyền lực công cộng đặc biệt, có chủ quyền quốc gia, quyền ban hành và tổ chức thực hiện pháp luật. Thông qua quyền ban hành pháp luật, Nhà nước quy định các quyền và nghĩa vụ pháp lý cho doanh nghiệp nhà nước, yêu cầu doanh nghiệp nhà nước sử dụng đúng đắn các quyền và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ pháp lý, giám sát và xử lý doanh nghiệp nhà nước có hành vi vi phạm pháp luật. Ngược lại, Nhà nước có nghĩa vụ bảo đảm điều kiện về mọi mặt để các doanh nghiệp nhà nước thực hiện các quyền, nghĩa vụ cũng như bảo quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Địa vị pháp lý của Nhà nước trước hết thể hiện qua hệ thống quyền và nghĩa vụ của Nhà nước.

Quyền và nghĩa vụ của Nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước thể hiện qua những quy định về quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước (gồm các hoạt động như: tổ chức thực hiện pháp luật, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm) và trách nhiệm pháp lý của Nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước. Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm những điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp nhà nước thực hiện đầy đủ các quyền, nghĩa vụ cũng như bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong khuôn khổ pháp luật nếu vượt ra khỏi khuôn khổ pháp luật sẽ phải chịu trách nhiệm pháp lý.

Địa vị pháp lý của Nhà nước thể hiện qua hai tư cách chủ thể:

Thứ nhất, Nhà nước là chủ thể quản lý nhà nước về kinh tế, thực hiện chức năng kinh tế thông qua hai quyền cơ bản là:

Định hướng phát triển kinh tế, thiết lập trật tự trong quản lý kinh tế, hỗ trợ, tạo điều kiện, môi trường để doanh nghiệp hoạt động lành mạnh, hiệu quả và an toàn; tổ chức các đơn vị kinh tế và hệ thống quản lý nhà nước về kinh tế. Nội dung quyền này được thể hiện như sau:

Nghiên cứu, xây dựng chiến lược phát triển kinh tế và khoa học - kỹ thuật, quy hoạch phát triển kinh tế theo ngành và vùng lãnh thổ, kế hoạch phát triển kinh tế dài hạn, trung hạn và ngắn hạn.

Xây dựng và ban hành chính sách, pháp luật, chế độ quản lý, nhằm cụ thể hóa và thực hiện Hiến pháp, luật; cung cấp các thông tin cho hoạt động kinh doanh.

Tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động kinh doanh, bao gồm: môi trường kinh tế, pháp lý, chính trị trong và ngoài nước; cải thiện quan hệ quốc tế về kinh tế, chính trị, pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động, điều tiết và phối hợp kinh doanh, giải quyết, xử lý tranh chấp, khiếu nại, thường xuyên kiểm tra và thanh tra hoạt động kinh tế.

Thực hiện quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý kinh tế, quản lý kinh doanh, ban hành các tiêu chuẩn, chức danh cán bộ quản lý.

Điều tiết nền kinh tế thông qua thị trường, tác động trực tiếp đối với doanh nghiệp nhà nước như sau:

Trực tiếp điều tiết giá cả của các mặt hàng thiết yếu không thể thay thế và trong một số trường hợp đặc biệt.

Điều tiết thị trường bằng cách sử dụng các công cụ điều tiết kinh tế, quy định điều kiện, tiêu chuẩn, thủ tục gia nhập thị trường và hoạt động trên thị trường; tăng khả năng cạnh tranh, hạn chế độc quyền và tiêu cực của độc quyền nhà nước; trực tiếp điều tiết thu nhập của các chủ thể tham gia thị trường thông qua công cụ thuế.

Công cụ Nhà nước sử dụng để tác động đến doanh nghiệp nhà nước trong quan hệ pháp lý là kế hoạch và chính sách pháp luật. Đây vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ của Nhà nước.

Sử dụng công cụ chính sách là việc Nhà nước ban hành tổng thể các chủ trương, quan điểm chính thức cũng như hoạt động tổ chức thực hiện các chủ trương đó.

Sử dụng công cụ kế hoạch là việc Nhà nước đưa ra các mục tiêu vĩ mô, xác định tốc độ phát triển, cơ cấu và cân đối các chính sách, giải pháp để dẫn dắt nền kinh tế theo định hướng kế hoạch. Kế hoạch kinh tế vĩ mô hướng dẫn hành vi của các chủ thể kinh tế, tác động đến quyết định cụ thể trong hoạt động kinh doanh. Kế hoạch nhà nước nhằm phối hợp hành vi của các chủ thể kinh tế, từ đó tạo nên sức mạnh chung của toàn bộ nền kinh tế.

Sử dụng công cụ pháp luật là việc Nhà nước ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật để pháp luật đị vào cuộc sống, thể hiện ở ba mặt cơ bản là: xây dựng pháp luật tổ chức thực hiện pháp luật, xử lý vi phạm pháp luật.

Thứ hai, Nhà nước là chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước.

Với tư cách này, Nhà nước là chủ thể có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với tài sản và vốn của Nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước. “Nhà nước là chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước, còn doanh nghiệp nhà nước là chủ sở hữu tài sản trong doanh nghiệp”[1]. Việc xác định vị trí pháp lý của Nhà nước (chủ thể giao vốn) khi doanh nghiệp nhà nước được thành lập, sắp xếp cũng như việc thực hiện quyền chủ sở hữu của Nhà nước khi doanh nghiệp nhà nước đi vào hoạt động là vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong việc hoàn thiện quan hệ pháp lý giữa Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước. Mặc dù do bản chất của quan hệ sở hữu, sự tách bạch chức năng thực hiện quyền sở hữu và chức năng quản lý nhà nước là yêu cầu khách quan, song trên thực tế, hai chức năng này có liên quan mật thiết với nhau và đều do một cơ quan thực hiện, nên trong nhiều trường hợp khó có thể phân định rạch ròi.

Tài sản của doanh nghiệp nhà nước thuộc sở hữu toàn dân, do đó nhân dân là chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước. Song, nhân dân không thể trực tiếp thực hiện quyền sở hữu của mình thông qua hoạt động kinh doanh, mà phải có tổ chức đại diện, đó là Nhà nước. Đến lượt mình, Nhà nước lại có sự phân công, phân cấp, ủy quyền cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân nhất định. Như vậy, có sự “phân cấp, phân quyền” trong cơ chế thực hiện quyền sở hữu đối với các doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên, mỗi quốc gia lại có cách thức thực hiện sự phân cấp khác nhau. Chẳng hạn, tại Niu Dilân, Quốc hội thay mặt nhân dân thực hiện quyền của chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước bằng việc giao cho 2 Bộ trưởng (Bộ Tài chính và Bộ hữu quan) nắm giữ cổ phần nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước bằng việc giao cho 2 Bộ trưởng (Bộ Tài chính và Bộ hữu quan) nắm giữ cổ phần nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước[2]. Hai bộ trưởng này được xác định là người đại diện cho Nhà nước trong thực hiện quyền sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước[3].

Tại Pháp, việc tham gia hay rút khỏi khu vực quốc doanh được luật pháp quy định với sự kiểm tra của Hội đồng Hiến pháp (và sự giám sát trên thực tế của Ủy ban Tư hữu hóa trong trường hợp chuyển đổi sở hữu), đồng thời cá ba cơ quan chủ quản: Ngân khố quản lý về tài sản, Ngân sách quản lý về tài chính và các bộ chuyên trách phụ trách các vấn đề kỹ thuật[4].

Tại Trung Quốc, chức năng tài sản quốc hữu được tách khỏi chức năng quản lý kinh tế của chính quyền theo mô hình “khung ba tầng”. Tầng thứ nhất là Ủy ban quản lý tài sản quốc hữu thành phố, tầng thứ hai là các công ty kinh doanh tài sản quốc hữu cấp thành phố với chức năng đầu tư vốn vào các doanh nghiệp, tầng thứ ba gồm các xí nghiệp quốc hữu với tư cách là các pháp nhân kinh tế độc lập (quan hệ giữa tầng thứ hai và tầng thứ ba theo mô hình công ty mẹ - công ty con)[5].

Các học giả nước ngoài thường gọi Nhà nước với tư cách nhà đầu tư là “nhà nước cổ đông”. Nhà nước không chỉ đơn thuẩn là một người trọng tài, chỉ lập ra và cưỡng chế thực hiện những quy tắc, nhà nước còn là một đấu thủ, thực sự là một đấu thủ quan trọng nhất, trong trò chơi kinh tế[6]. Khi đó, Nhà nước phải đối mặt với hai trở ngại: Một là, Nhà nước can thiệp trực tiếp vào hoạt động kinh doanh, dẫn đến hạn chế tính năng động và sự tự chủ của doanh nghiệp nhà nước; Hai là, không thể xác định rõ ràng quyền hạn và trách nhiệm quản lý tài sản, vốn khi giao quyền tự chủ cho doanh nghiệp nhà nước. Điều này kết hợp với sự yếu kém của hệ thống giám sát, kiểm tra, thanh tra sẽ dẫn đến tình trạng thực thí quyền sở hữu chỉ mang tính hình thức, danh nghĩa. Yêu cầu đặt ra là phải xác định rõ mối quan hệ giữa chủ sở hữu nhà nước với tổ chức, cá nhân đại diện cũng như mối quan hệ giữa đại diện chủ sở hữu nhà nước với người quản lý doanh nghiệp. Chỉ khi giải quyết được các quan hệ phức tạp nêu trên, Nhà nước mới có thể thực hiện tốt vai trò là chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước.

Để vừa thực hiện quyền chủ thể với tư cách là chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước, vừa bảo đảm các doanh nghiệp nhà nước hoạt động độc lập, có hiệu quả, Nhà nước phải xác lập cơ chế trao quyền thích hợp, nhằm xác định rõ người (cơ quan) đại diện chủ sở hữu trực tiếp tại doanh nghiệp. Việc góp vốn (giao vốn) thành lập doanh nghiệp nhà nước nhằm mục đích chuyển giao quyền sở hữu vốn và tài sản cho doanh nghiệp nhà nước, với mong muốn khai thác lợi ích từ vốn và tài sản đó thông qua hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước (lợi ích này có thể là mục đích công cộng). Khi được thành lập và trở thành chủ thể pháp lý độc lập, quan hệ pháp lý giữa Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước được thể hiện trên thực tế. Trong quan hệ này, Nhà nước có nghĩa vụ góp vốn như trong quyết định thành lập doanh nghiệp nhà nước để vốn góp được chuyển thành vốn của doanh nghiệp nhà nước.

Sau khi thực hiện xong nghĩa vụ góp vốn, đồng nghĩa với việc Nhà nước đã chuyển giao quyền sở hữu và trách nhiệm liên đới đối với khoản nợ cho doanh nghiệp nhà nước. Hành vi góp vốn của Nhà nước thể hiện việc tách một bộ phận vốn và tài sản thuộc sở hữu của Nhà nước thành tài sản độc lập chuyển giao cho doanh nghiệp nhà nước (một pháp nhân kinh tế). Nếu là chủ thể góp vốn duy nhất, Nhà nước sẽ là chủ sở hữu duy nhất đối với doanh nghiệp nhà nước.

Có quan điểm cho rằng, nếu có từ hai thành viên góp vốn trở lên thì các thành viên sẽ đồng sở hữu doanh nghiệp nhà nước. Họ có đầy đủ quyền năng của chủ sở hữu đối với đôi tượng sở hữu là doanh nghiệp nhà nước. Quan niệm này chưa thể hiện đúng nội dung của quyền sở hữu.

Theo thông lệ quốc tế, chỉ những cổ đông (Nhà nước cũng là một cổ đông) thật sự nắm được quyền lực chi phối, kiểm soát và điều hành thật sự doanh nghiệp theo điều lệ mới có thể được coi là chủ sở hữu doanh nghiệp.

Do đó, việc xem xét quyền sở hữu doanh nghiệp nhà nước trước hết phải căn cứ vào điều lệ để xác định xem Nhà nước hay cổ đông nào hiện đang nắm giữ quyền lực chi phối, kiểm soát và điều hành thật sự doanh nghiệp nhà nước.

Quyền lực chi phối, kiểm soát và điều hành doanh nghiệp được phân chia theo tỷ lệ vốn góp: cổ đông hoặc thành viên nào có tỷ lệ vốn góp cao hơn sẽ có quyền lực chi phối, kiểm soát và điều hành doanh nghiệp nhà nước nhiều hơn. Trên thực tế, cũng có thể xảy ra trường hợp Nhà nước tuy không chiếm đa số vốn góp vào doanh nghiệp nhà nước (cổ đông thiểu số), nhưng theo điều lệ Nhà nước vẫn nắm giữ quyền chi phối, kiểm soát và điều hành doanh nghiệp nhà nước, tại thời điểm đó, Nhà nước được coi là chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước. Trường hợp này Nhà nước có thể được coi là đồng sở hữu doanh nghiệp, tuy nhiên, lúc này doanh nghiệp nhà nước không còn là doanh nghiệp nhà nước theo đúng nghĩa của nó.

Doanh nghiệp nhà nước vẫn là một pháp nhân có tài sản độc lập, tách biệt với tài sản của Nhà nước, mặc dù quyền sở hữu tài sản của doanh nghiệp nhà nước được xác lập từ quyền sở hữu tài sản của Nhà nước. Vì vậy, doanh nghiệp nhà nước là chủ thể của quyền sở hữu tài sản với các quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đối với tài sản giống như các chủ sở hữu khác.

Quyền sở hữu tài sản độc lập là cơ sở pháp lý để doanh nghiệp nhà nước tự chủ hoạt động kinh doanh cũng như thực hiện chế độ trách nhiệm hữu hạn. Trên cơ sở này, giữa doanh nghiệp nhà nước và Nhà nước có mối quan hệ mật thiết, nhưng là hai chủ thể pháp lý độc lập. Trong quá trình hoạt động, về nguyên tắc, sự thay đổi địa vị pháp lý của chủ sở hữu nhà nước không ảnh hưởng đến địa vị pháp lý của doanh nghiệp nhà nước. Hình thức pháp lý để điều chỉnh quan hệ này được xác định trong pháp luật về giao vốn và quản lý vốn đầu tư tại doanh nghiệp, điều lệ và pháp luật điều chỉnh việc thành lập và hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.

Trên thực tế, trong nhiều trường hợp, quan hệ pháp lý giữa Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước đã không tuân theo “nguyên lý” của quyền sở hữu. Nhà nước không dùng khái niệm “góp vốn” mà dùng khái niệm “giao vốn”. Thủ tục, điều kiện giao vốn cũng giống như thủ tục hành chính, nội dung của giao vốn chỉ là giao quyền sử dụng vốn. Nhà nước kinh doanh nhưng không chuyển giao quyền sở hữu cho doanh nghiệp, do đó, doanh nghiệp nhà nước không có quyền sở hữu tài sản, không có đầy đủ tư cách pháp nhân và quyền tự chỉ kinh doanh. Vì vậy, việc hoàn thiện quan hệ pháp lý giữa Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước phải được xem xét trên cơ sở nhận thức đúng đắn đặc điểm của việc thực hiện quyền sở hữu doanh nghiệp nhà nước.

Với tư cách là nhà đầu tư, chủ thể Nhà nước có địa vị pháp lý bình đẳng như các nhà đầu tư khác trong nền kinh tế. Quyền, lợi ích và trách nhiệm của chủ sở hữu nhà nước đối với các doanh nghiệp nhà nước tương tự như quyền của chủ tư bản đầu tư vào các công ty. Các quyền này bao gồm: quyền định đoạt doanh nghiệp (thành lập, sáp nhập chia tách, chuyển đổi sở hữu, giải thể doanh nghiệp); quyền quyết định mục tiêu, phương hướng hoạt động, mô hình tổ chức, bổ nhiệm người quản lý trong doanh nghiệp; quyền quyết định một số chỉ tiêu cơ bản về hoạt động của doanh nghiệp, trong đó chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên vốn là căn cứ để đánh giá chất lượng điều hành, quản lý doanh nghiệp; quyền quy định nguyên tắc phân phối lợi nhuận sau thuế; quyền quyết định tài trợ có liên quan tới kinh phí của chủ đầu tư như đầu tư ban đầu; quyền phê duyệt vay nợ hoặc đầu tư lớn, tăng hoặc giảm vốn điều lệ của doanh nghiệp; quyền giám sát giá cả nếu doanh nghiệp là độc quyền hoặc trợ cấp, bù giá khi cung cấp sản phẩm hoặc dịch vụ theo giá quy định để thực hiện các chính sách xã hội; quyền kiểm tra, giám sát thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ được giao; quyền chịu trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi vốn đã đầu tư vào doanh nghiệp; quyền thụ hưởng kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.

Đồng thời, chủ sở hữu nhà nước cũng phải có nghĩa vụ đối với doanh nghiệp nhà nước, đó là: đầu tư đủ vốn điều lệ cho doanh nghiệp; tuân theo điều lệ doanh nghiệp; chịu trách nhiệm đối với các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi vốn điều lệ của doanh nghiệp; tuân theo các quy định của pháp luật về hợp đồng trong việc mua, bán, vay, cho vay, thuê và cho thuê giữa doanh nghiệp và chủ sở hữu; bảo đảm quyền tự chủ kinh doanh, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp; thực hiện các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.

3. Khách thể của quan hệ pháp lý giữa Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước

Trong lý luận về nhà nước và pháp luật, vấn đề khách thể quan hệ pháp lý cũng như mối tương quan giữa khách thể với nội dung vẫn chưa có sự thống nhất, cần phải tiếp tục làm sáng tỏ. Có thể đề cập một số quan điểm được sử dụng phố biến trong thực tiễn lý luận ở nước ta như:

Khách thể quan hệ pháp lý là “các hành vi của chủ thể…”: “là tất cả những gì mà quan hệ đó tác động”; “là lợi ích vật chất, tinh thần và những lợi ích xã hội khác có thể thỏa mãn những nhu cầu, đòi hỏi của chủ thể”; “là những giá trị vật chất, tinh thần và giá trị xã hội khác mà chủ thể mong muốn đạt được nhằm thỏa mãn các lợi ích, nhu cầu của chủ thể”[7].

Sự phức tạp của khách thể được thể hiện ở việc nó không hoàn toàn hữu hình như chủ thể, từ đó gây khó khăn cho lý luận về nhận thức. Qua các quan điểm trên cho thấy sự thống nhất của các nhà khoa học trong việc thừa nhận khách thể là một bộ phận cấu thành quan hệ pháp lý. Mặc dù vậy, các quan điểm vẫn còn có sự khác nhau căn bản trong cách tiếp cận. Nhìn chung, mỗi quan điểm, ý kiến đều có những hạt nhân hợp lý nhất định. Để đi đến sự thống nhất có tính khoa học về khách thể, có thể hiểu: Khách thể là yếu tố được hình thành từ thời điểm quan hệ pháp lý được thiết lập bởi sự điều chỉnh của pháp luật, đồng thời là yếu tố đòi hỏi chủ thể Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước hướng tới. Nhu cầu của chủ thể có thể hợp pháp hoặc không hợp pháp. nhưng khách thể luôn là yếu tố tích cực, chính đáng. Mặc dù chủ thể đặt ra cho mình những lợi ích riêng, nhưng muốn đạt được lợi ích đó thì cần đáp ứng nhu cầu và lợi ích của cả hai bên. Điều này đòi hỏi phải có sự thống nhất giữa các chủ thể về lợi ích chung cùng hướng tới.

Khi xác định khách thể là lợi ích, cần phân biệt lợi ích riêng của từng chủ thể với lợi ích chung với tính cách là khách thể. Lợi ích riêng của các chủ thể mang tính cá thể và có thể nảy sinh trước khi chủ thể tham gia quan hệ pháp lý. Lợi ích riêng gắn với nhu cầu riêng của từng chủ thể.

Lợi ích riêng của chủ thể không phải bao giờ cũng được các chủ thể khác thừa nhận. Vì vậy, lợi ích đó không mặc định chuyển hóa thành lợi ích chung với tính cách là khách thể buộc các chủ thể khác cùng hướng tới. Trên thực tế, lợi ích của chủ thể có thể không tăng thêm, thậm chí bị sụt giảm, nhưng khách thể ít nhiều cũng tồn tại về mặt lý thuyết.

Quan hệ pháp lý giữa Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước biểu hiện trên thực tế rất đa dạng, do đó phải xem xét kỹ đặc điểm, tính chất của mỗi loại quan hệ, đồng thời vận dụng quan niệm chung về khách thể để xác định khách thể cho từng quan hệ pháp luật cụ thể. Trên thực tế, có quan hệ pháp luật phát sinh do chủ thể thực hiện quyền, nghĩa vụ pháp lý mang tính tự giác, tích cực, song cũng có trường hợp quan hệ pháp luật phát sinh do vi phạm pháp luật.

Như vậy, khách thể quan hệ pháp lý giữa Nhà nước và kinh tế - xã hội khác mà các chủ thể hướng tới, nhằm thỏ mãn nhu cầu và thực hiện quyền, nghĩa vụ pháp lý của chủ thể khi tham gia quan hệ pháp luật cụ thể.

Với định nghĩa này, khách thể của quan hệ pháp lý giữa Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước bao gồm: hiệu quả đầu tư của Nhà nước là lợi nhuận, các nguồn thu ngân sách để tích lũy quốc gia và các giá trị kinh tế - xã hội như xây dựng hạ tảng cơ sở cho nền kinh tế, bảo đảm hàng hóa, dịch vụ phục vụ an ninh, quốc phòng và hàng hóa, dịch vụ thiết yếu, nhạy cảm (có tính độc hại, dễ cháy nổ, thuộc lĩnh vực viễn thông...); bình ổn thị trường, điều tiết nền kinh tế; giải quyết lao động, việc làm: ổn định xã hội, xóa đói, giảm nghèo, củng cố độc lập và chủ quyền quốc gia.

Ở mỗi quốc gia và trong từng giai đoạn phát triển, những lợi ích nêu trên được định nghĩa và giải thích khác nhau. Những lợi ích này đan xen và hòa trộn vào nhau nên rất khó phân định rõ ràng. Trong hệ thống lợi ích này, hiệu quả đầu tư là khách thể của quan hệ pháp lý giữa Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước.

Như vậy, có thể nói Nhà nước với tư cách là nhà đầu tư và đã tăng hiệu quả đầu tư trong bối cảnh thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ kinh tế - xã hội. Đây có thể nói là “bài toán khó” đối với các quốc gia, thường gắn với từ cách là cơ quan quyền lực công cộng của Nhà nước. Hầu hết các quốc gia đều cố gắng phân định lợi ích của quan hệ pháp lý này vì mục đích kinh doanh lợi nhuận và mục đích công cộng.

 


[1] TS. Bùi Ngọc Cường: Một số vấn đề về quyền tự do kinh doanh trong pháp luật kinh tế hiện hành ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.98.

[2] Do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 đã khiến một số hãng hàng không của Niu Dilân đứng trước nguy cơ phá sản, Quốc hội nước này đã tiến hành mua lại hãng hàng không để bảo đảm hoạt động của giao thông hàng không quốc gia.

[3] Viện Quản lý kinh tế Trung ương: Chuyển đổi các doanh nghiệp nhà nước - Quản lý sự thay đổi triệt để tổ chức trong môi trường phi điều tiết, Trung tâm thông tin tư liệu, Hà Nội, 1998, tr.46.

[4] Diễn đàn Kinh tế - Tài chính Việt - Pháp: Dịch vụ công và khu vực quốc doanh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.74-75.

[5] Lê Văn Trung: “Vấn đề về thực hiện quyền sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay”, Kỷ yếu Đề tài KX01-02 về sở hữu nhà nước và doanh nghiệp nhà nước, 1998, tr.234.

.

[6] World Bank: Nhà nước trong một thế giới đang chuyển đổi, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.46.

[7] Bùi Văn Lành: Những vấn đề của pháp luật về doanh nghiệp nhà nước và giải pháp khắc phục, Luận văn Thạc sĩ Luật học, 2000, tr.88, 89, 90.

Đăng ký nhận email

Đăng ký email để có thể có được những cập nhật mới nhất về tải liệu được đăng tải trên website

Tập san đã phát hành