Thứ tư, 12 Tháng 6 2024 10:28

Phân tích một số quan điểm về doanh nghiệp nhà nước và mối quan hệ pháp lý giữa Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước

1. Quan điểm về doanh nghiệp nhà nước

Hiện nay, về mặt lý luận, có nhiều cách tiếp cận khác nhau về doanh nghiệp nhà nước. Một nhà nghiên cứu cho rằng, doanh nghiệp nhà nước bao gồm cả những tổ chức nghiên cứu không hoạt động thương mại. Trong khi đó, một số quốc gia trên thế giới khi thống kê doanh nghiệp nhà nước lại không đề cập những doanh nghiệp nhà nước do chính quyền địa phương quản lý. Tuy nhiên, đa số các nước đều có điểm chung khi nói đến doanh nghiệp nhà nước, đó là doanh nghiệp thuộc sở hữu của Nhà nước hoặc Nhà nước có quyền chi phối doanh nghiệp.

Hiện nay, chưa có sự thống nhất giữa các quốc gia và các nhà nghiên cứu về khái niệm doanh nghiệp nhà nước.

Các nước khác nhau có khái niệm và giới hạn về doanh nghiệp nhà nước khác nhau. Chẳng hạn như tại Anh, khi thành lập Ủy ban đặc biệt về quốc hữu hóa công nghiệp, đã quy định doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp đáp ứng ba điều kiện: i) Hội đồng quản trị doanh nghiệp do Chính phủ bổ nhiệm; ii) Ủy ban đặc biệt về quốc hữu hóa công nghiệp kiểm tra tài khoản kinh doanh của doanh nghiệp: iii) Thu nhập của doanh nghiệp phần lớn không dựa vào việc phân bổ ngân sách của Quốc hội hoặc của các cơ quan tài chính nhà nước. Ở Pháp, doanh nghiệp nhà nước được xác định là những doanh nghiệp thỏa mãn các điều kiện như tính công hữu của quyền sở hữu tài sản, nhờ đó Chính phủ xác lập được vị trí lãnh đạo đối với doanh nghiệp; có tư cách pháp nhân độc lập như những doanh nghiệp khác; thực hiện các hoạt động kinh doanh độc lập, là tổ chức kinh tế có hạch toán lỗ, lãi chứ không phải là đơn vị hành chính sự nghiệp. Các quốc gia như Thụy Điển, Phần Lan, Braxin, Mêhicô thì cho rằng các doanh nghiệp - trong đó nhà nước sở hữu trên 50% vốn là doanh nghiệp nhà nước[1].

Định nghĩa doanh nghiệp nhà nước được sử dụng khá phổ biến trong báo cáo của Tổ chức Phát triển công nghiệp Liên hợp quốc (UNIDO). Theo UNIDO, doanh nghiệp nhà nước là các tổ chức kinh tế thuộc sở hữu nhà nước hoặc do Nhà nước kiểm soát, có thu nhập chủ yếu từ việc tiêu thụ hàng hóa và cung cấp dịch vụ. Theo định nghĩa này, doanh nghiệp nhà nước bao gồm các doanh nghiệp hoàn toàn thuộc sự quản lý của các bộ, ngành, các doanh nghiệp mà Nhà nước giữ phần lớn cổ phần và cả những doanh nghiệp tuy Nhà nước không giữ phần lớn cổ phần song do sự phân tán của cổ đông mà Nhà nước nắm giữ quyền chi phối.

Rõ ràng, doanh nghiệp nhà nước không chỉ là đặc trưng của các nước xã hội chủ nghĩa, bởi trước đây và hiện tại, doanh nghiệp nhà nước vẫn tồn tại ở hầu hết các quốc gia, bao gồm cả quốc gia đang phát triển hay quốc gia phát triển, quốc gia phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa hay con đường tư bản chủ nghĩa với quy mô và vị trí khác nhau.

Tại Việt Nam, có học giả tiếp cận doanh nghiệp nhà nước là một bộ phận của hệ thống kinh tế nhà nước “hệ thống kinh tế nhà nước gồm hai bộ phận cấu thành: doanh nghiệp nhà nước và kinh tế nhà nước phi doanh nghiệp (đất đai, rừng, biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên, của cải, tài sản, tư liệu sản xuất, vốn, ngân sách nhà nước, các quỹ quốc gia)[2]. Có học giả khẳng định: Về nguyên tắc, khái niệm khu vực kinh tế nhà nước ở Việt Nam rộng hơn nhiều và có tính bao trùm đối với khái niệm doanh nghiệp nhà nước[3].

Ở khía cạnh pháp lý, định nghĩa doanh nghiệp nhà nước được đề cập trong các luật chuyên ngành về doanh nghiệp[4]. Như vậy, về tư duy tiếp cận cũng như việc xác định doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam có sự khác biệt rõ ràng qua các giai đoạn dựa theo tỷ lệ vốn điều lệ do Nhà nước nắm giữ.

Theo quan điểm chỉ đạo của Đảng về doanh nghiệp nhà nước thể hiện tập trung tại Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khóa IX về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước thì “Doanh nghiệp nhà nước gồm doanh nghiệp nhà nước giữ 100% vốn và doanh nghiệp nhà nước giữ cổ phần chi phối”[5]. Sau 15 năm triển khai Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khóa IX, ngày 03/6/2017 Hội nghị Trung ương 5 khóa XII ban hành Nghị quyết số 12-NQ/TW về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước (viết tắt là Nghị quyết số 12-NQ/TW) đã có sự phát triển về cách tiếp cận khái niệm doanh nghiệp nhà nước: "Doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ hoặc cổ phần, vốn góp chi phối; được tổ chức và hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn".

Luật Doanh nghiệp năm 2020, sửa đổi, bổ sung năm 2022 là văn bản quy phạm pháp luật đang có hiệu lực thi hành. Theo đó, cách định nghĩa về doanh nghiệp nhà nước của Luật Doanh nghiệp năm 2020, sửa đổi, bổ sung năm 2022 cũng có sự khác biệt so với Luật Doanh nghiệp năm 2014 và Nghị quyết số 12-NQ/TW. Khoản 11 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2020, sửa đổi, bổ sung năm 2022 quy định: “Doanh nghiệp nhà nước bao gồm các doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ, tổng số cổ phần có quyền biểu quyết theo quy định tại Điều 88 của Luật này”.

Điều 88. Doanh nghiệp nhà nước

1. Doanh nghiệp nhà nước được tổ chức quản lý dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, bao gồm:

a) Doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ;

b) Doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ hoặc tổng số cổ phần có quyền biểu quyết, trừ doanh nghiệp quy định tại điểm a khoản 1 Điều này.

2. Doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều này bao gồm:

a) Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ là công ty mẹ của tập đoàn kinh tế nhà nước, công ty mẹ của tổng công ty nhà nước, công ty mẹ trong nhóm công ty mẹ - công ty con,

b) Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là công ty độc lập do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ.

3. Doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ hoặc tổng số cổ phần có quyền biểu quyết theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều này bao gồm:

a) Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, công ty cổ phẩn do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ, tổng số cổ phần có quyền biểu quyết là công ty mẹ của tập đoàn kinh tế, công ty mẹ của tổng công ty nhà nước, công ty mẹ trong nhóm công ty mẹ - công ty con;

b) Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, công ty cổ phần là công ty độc lập do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ, tổng số cổ phần có quyền biểu quyết.

4. Chính phủ quy định chi tiết Điều này",

Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 12/5/2022 của Chính phủ về tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động và huy động nguồn lực của doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là tập đoàn kinh tế, tổng công ty trong phát triển tr kinh tế - xã hội (viết tắt là Nghị quyết số 68/NQ-CP) xác định: “Khu vực doanh nghiệp nhà nước là một lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế nhà nước, thực hiện vai trò dẫn dắt, tích cực chủ động tham gia xây dựng phát triển đất nước, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; tiên phong trong những lĩnh vực then chốt, thiết yếu, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, địa bàn quan trọng về quốc phòng, an ninh, lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tư".

Như vậy, có thể nhận thấy Đảng và Nhà nước ta đã có những bước phát triển nhận thức quan trọng về doanh nghiệp nhà nước, thể hiện tư duy, quan điểm tiếp cận có sự thay đổi qua các thời kỳ khác nhau, xuất phát từ sự phát triển nhanh chóng, mạnh mẽ, năng động của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

Trên cơ sở tiếp thu định nghĩa về doanh nghiệp nhà nước trên thế giới cũng như cách tiếp cận trong các văn bản pháp lý của Việt Nam, có thể hiểu: Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế có mục đích thương mại do Nhà nước nắm quyền kiểm soát và chi phối.

Theo khái niệm này, các đơn vị kinh tế có cơ cấu tổ chức nhất định hoạt động nhằm vào giá trị lợi ích do Nhà nước kiểm soát hoặc chi phối là doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên, các quốc gia khác nhau lại có cách hiểu khác nhau về khái niệm “mục đích thương mại”, “kiểm soát và chi phối”. Ngay cả trong mỗi quốc gia, ở mỗi giai đoạn phát triển, khái niệm đó cũng có sự khác biệt.

2. Đặc điểm của doanh nghiệp nhà nước

Doanh nghiệp nhà nước là một trong những chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế

Về mặt pháp lý, doanh nghiệp là chủ thể chủ yếu tham gia các quan hệ pháp lý kinh doanh trên thương trường như mua bán hàng hóa, dịch vụ, giải quyết các tranh chấp, đăng kỳ hoạt động, giải thể, thực hiện các quyền và nghĩa vụ trong kinh doanh. Doanh nghiệp nhà nước trước hết là doanh nghiệp, vì vậy chủ thể này có đầy đủ đặc điểm của doanh nghiệp và được xem xét trên cả hai phương diện kinh tế và pháp lý.

Sơ đồ 1. Khái quát về doanh nghiệp

Thứ nhất, doanh nghiệp nhà nước là một đơn vị kinh doanh có chức năng chính là sản xuất hàng hóa, dịch vụ. Có thể khái quát về đặc điểm này qua sơ đồ trên.

Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là việc thực hiện một, một số hay tất cả các công đoạn của quá trình sản xuất cho đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi. Hộ kinh doanh cá thể, hộ gia đình, tổ hợp tác cũng trực tiếp tham gia kinh doanh, song không được pháp luật thừa nhận là doanh nghiệp. Các tổ chức xã hội có chức năng hoạt động chính không phải là kinh doanh (các đơn vị sự nghiệp như trường đại học, viện nghiên cứu có hoạt động tạo nguồn thu, đoàn thể quần chúng, các tôn giáo, các tổ chức từ thiện, v.v.) cũng không thể coi là doanh nghiệp. Doanh nghiệp nhà nước được quyền hoạt động kinh doanh trong một số ngành, nghề liên quan đến an ninh - quốc phòng và một số ngành, nghề đặc biệt mà doanh nghiệp ngoài quốc doanh không được phép kinh doanh, song phải hoạt động trong khuôn khổ pháp luật.

(Khoản 21 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2020, sửa đổi, bổ sung năm 2022 quy định: “Kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả công đoạn của quá trình từ đầu tư, sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận").

2. Quy định về hộ kinh doanh và đăng ký hộ kinh doanh hiện nay thực hiện theo quy định tại Nghị định số 01/2021/NĐ-CP ngày 04/01/2021 của Chính phủ về đăng ký doanh nghiệp (viết tắt là Nghị định số 01/2021/NĐ-CP). Theo đó, Điều 79 Nghị định số 01/2021/NĐ-CP quy định: “Hộ kinh doanh do một cá nhân hoặc các thành viên hộ gia đình đăng ký thành lập và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đồi với hoạt động kinh doanh của hộ... Cá nhân đăng ký hộ kinh doanh, người được các thành viên hộ gia đình ủy quyền làm đại diện hộ kinh doanh là chủ hộ kinh doanh".

3. Hiện nay, danh mục các ngành nghề kinh doanh có điều kiện được áp dụng theo Phụ lục IV Luật Đầu tư năm 2020 sửa đổi, bổ sung năm 2022 và Nghị định số 31/2021/NĐ-CP ngày 26/3/2021 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư được bổ sung bởi Nghị định số 35/2022/NĐ-CP ngày 28/5/2022 (viết tắt là Nghị định số 31/2021/NĐ-CP sửa đổi).

Thứ hai, doanh nghiệp nhà nước là những đơn vị kinh doanh bằng vốn và tài sản của mình. Nhà nước có thể xác định hoặc không xác định mức vốn pháp định dựa trên cơ sở ngành, nghề và loại hình doanh nghiệp.

Thứ ba, doanh nghiệp nhà nước phải đăng ký kinh doanh để trở thành chủ thể kinh doanh. Doanh nghiệp nhà nước chỉ có quyền tiến hành kinh doanh sau khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.

Thứ tư, doanh nghiệp nhà nước phải thực hiện chế độ hạch toán kế toán và thống kê. Hạch toán kế toán nhằm phản ánh mọi hoạt động kinh doanh thông qua các chứng từ, tài khoản và số kế toán, phục vụ yêu cầu quản lý, điều hành của chính doanh nghiệp cũng như yêu cầu kiểm soát của Nhà nước.

Ngoài việc thực hiện chế độ hạch toán kế toán và thống kê thì doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ phải thực hiện chế độ báo cáo theo Điều 9 Thông tư số 36/2021/TT-BTC ngày 26/5/2021 của Bộ trưởng Bộ Tài chính hướng dẫn một số nội dung về đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp và quản lý, sử dụng vốn, tài sản tại doanh nghiệp quy định tại Nghị định số 91/2015/NĐ-CP ngày 13/10/2015; Nghị định số 33/2018/NĐ-CP ngày 08/3/2018; Nghị định số 121/2020/NĐ-CP ngày 09/10/2020 và Nghị định số 140/2020/NĐ-CP ngày 30/11/2020 của Chính phủ (viết tắt là Thông tư số 36/2021/TT-BTC). Các loại báo cáo gồm báo cáo định kỳ (Báo cáo tài chính, Báo cáo một số chỉ tiêu ngoại bảng cân đối kế toán); Báo cáo về tình hình tái cơ cấu doanh nghiệp; Báo cáo tình hình đầu tư ra nước ngoài.

Doanh nghiệp có vốn Nhà nước thực hiện lập, trình bày và gửi báo cáo tài chính năm theo biểu mẫu, thời hạn nộp và nơi nhận báo cáo theo hướng dẫn tại Thông tư số 200/2014/TT-BTC ngày 22/12/2014 của Bộ trưởng Bộ Tài chính hướng dẫn chế độ kế toán doanh nghiệp (viết tắt là Thông tư số 200/2014/TT-BTC).

Đặc trưng của doanh nghiệp nhà nước khác với doanh nghiệp ngoài quốc doanh là sự hỗn hợp của tính kinh doanh và tính công cộng

Tính chất kinh doanh thể hiện ở mục đích hoạt động của doanh nghiệp nhà nước. Kết quả và năng lực hoạt động của doanh nghiệp nhà nước phụ thuộc vào năng lực thực hiện quyền tự chủ kinh doanh và khả năng tổ chức, quản lý kinh doanh. Vì vậy, lợi nhuận hay hiệu quả tài chính được pháp luật thừa nhận chính là mục tiêu chủ yếu. Tính chất công cộng của doanh nghiệp nhà nước không chỉ được phản ánh thông qua tính chất công hữu của tài sản, mà còn thể hiện ở mục đích sử dụng tài sản và kết quả hoạt động. Bên cạnh mục đích kinh doanh, hoạt động của doanh nghiệp nhà nước còn hướng tới phục vụ lợi ích công cộng, xã hội, Nhà nước. “Doanh nghiệp nhà nước hoạt động theo cơ chế thị trường, lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ yếu, tự chủ, tự chịu trách nhiệm, cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác theo quy định của pháp luật. Bảo đảm công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình của doanh nghiệp nhà nước. Tách bạch nhiệm vụ của doanh nghiệp nhà nước sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thông thường và nhiệm vụ của doanh nghiệp nhà nước sản xuất, cung cấp hàng hóa, dịch vụ công ích¹. Trong thời điểm diễn ra dịch bệnh Covid-19, tính công cộng của doanh nghiệp nhà nước thể hiện rất rõ rệt: “Đặc biệt trong bối cảnh dịch Covid-19 và những biến động trong khu vực và quốc tế doanh nghiệp nhà nước đã tích cực triển khai và hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao, duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô. Do đó, tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp nhà nước có những điểm đặc thù khác so với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.

Có thể căn cứ vào tính kinh doanh và tính công cộng để phân biệt doanh nghiệp nhà nước với các tổ chức kinh tế khác. Tổ chức có tính chất kinh doanh thấp nhất là các tổ chức phi lợi nhuận như: bảo tàng, tổ chức tự quản, tổ chức xã hội. Để tồn tại và hoạt động, các tổ chức này đều phải sử dụng và khai thác nguồn tài chính vật chất của Nhà nước, nhưng không nhằm tạo ra thêm giá trị, mà thực chất là nhằm mục tiêu phi lợi nhuận hoặc duy trì các giá trị văn hóa, kinh tế, xã hội. Một tổ chức khác của Nhà nước cũng đang hoạt động hiện nay là đơn vị sự nghiệp công lập. Theo khoản 1 Điều 9 Luật Viên chức năm 2010, sửa đổi, bổ sung năm 2019 thì đơn vị sự nghiệp công lập là tổ chức do cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội thành lập theo quy định của pháp luật, có tư cách pháp nhân, cung cấp dịch vụ công, phục vụ quản lý nhà nước. Theo Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, thì “Hệ thống các đơn vị sự nghiệp công lập với đông đảo đội ngũ trí thức, các nhà khoa học, các nhà giáo dục và các nhà văn hóa đã có đóng góp to lớn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; góp phần thực hiện các Mục tiêu giảm nghèo bền vững, hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi và phổ cập giáo dục tiểu học, tăng cường bình đẳng giới, nâng cao sức khỏe nhân dân, góp phần bảo đảm bền vững môi trường, công bằng xã hội và hoàn thành cơ bản các Mục tiêu Thiên niên kỷ”[6].

Dựa trên hai tính chất này, có thể thấy sự khác nhau giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp ngoài quốc doanh, đồng thời thể hiện mối quan hệ hữu cơ giữa chức năng kinh doanh và chức năng công cộng của doanh nghiệp nhà nước.

- Tính chất “kinh doanh” của doanh nghiệp nhà nước: Giống như các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong môi trường kinh doanh chịu ảnh hưởng của các yếu tố và quy luật của thị trường. Vì vậy, mục tiêu, quyền lợi và nghĩa vụ pháp lý của doanh nghiệp nhà nước cũng tương tự như các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Tuy nhiên, do đặc điểm riêng có của doanh nghiệp nhà nước mà tính chất kinh doanh của loại hình doanh nghiệp này cũng có những nét đặc thù riêng có.

Doanh nghiệp nhà nước có nghĩa vụ tạo ra nguồn tài chính cần thiết để duy trì hoạt động của mình. Nguồn tài chính này chủ yếu đến từ kinh doanh, phụ thuộc chủ yếu vào kết quả kinh doanh.

Mục tiêu kinh doanh và lợi nhuận là yếu tố cơ bản bảo đảm sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên, tính chất kinh doanh này sẽ bị hạn chế nếu doanh nghiệp nhà nước cung cấp hàng hóa và dịch vụ có tính chất công cộng và nguồn tài chính được bù đắp từ ngân sách nhà nước.

Đối tượng, mục tiêu và phương thức kinh doanh có sự tham gia của nhiều yếu tố và chủ thể liên quan, vì vậy, quyền tự chủ kinh doanh bị ảnh hưởng. Từ đó, hành vi kinh doanh, giá cả và lợi nhuận của doanh nghiệp nhà nước rất khó đánh giá. Lợi nhuận là động lực thúc đẩy doanh nghiệp hướng vào hàng hóa, thị trường, được xác định trên cơ sở chi phí sản xuất và hiệu quả kinh doanh. Tuy nhiên, lợi nhuận doanh nghiệp nhà nước không chỉ bao gồm lợi nhuận do hiệu quả kinh doanh mang lại mà còn có lợi nhuận do vị trí độc quyền hay được ưu đãi.

Việc xác định và đánh giá tính kinh doanh luôn là vấn đề phức tạp do tính đa mục tiêu của doanh nghiệp nhà nước. Vì vậy, chính sách phân phối lợi nhuận được áp dụng khác với doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh, lợi nhuận chủ yếu được sử dụng để phân phối cho chủ sở hữu tài sản, sau đó chủ sở hữu phân phối lại cho người quản lý, người lao động theo thứ tự ưu tiên nhất định. Đối với doanh nghiệp nhà nước, đối tượng được quan tâm đầu tiên thường là người lao động, sau đó mới đến Nhà nước (chủ sở hữu quan trọng nhất đối với tài sản của doanh nghiệp nhà nước). Song, Nhà nước lại là chủ thể phải gánh chịu thiệt hại nếu doanh nghiệp nhà nước thua lỗ hoặc hoạt động kém hiệu quả. Điều này khiến Nhà nước lúng túng khi thực hiện quyền sở hữu của mình trong rất nhiều trường hợp.

- Tính chất “công cộng” của doanh nghiệp nhà nước: Tính “công cộng" là đặc trưng của doanh nghiệp nhà nước, được thể hiện qua mục đích hoạt động và phương thức kinh doanh. Tính chất này được thể hiện qua những điểm cơ bản sau:

Hoạt động kinh doanh được quyết định bởi đại diện nhà nước, tập thể, không căn cứ hoàn toàn vào mục tiêu tài chính của các nhà đầu tư hay tài trợ; người quản lý trong doanh nghiệp nhà nước thường là công chức nhà nước được bổ nhiệm, vì vậy, cách thức quản lý và phương thức kinh doanh thường mang tính hành chính. Hệ lụy là doanh nghiệp nhà nước thường có cơ cấu tổ chức cứng nhắc, thiếu linh hoạt và dễ mang dáng dấp "quan liêu” của cơ quan nhà nước. Lợi ích thu được từ các hoạt động không chỉ được doanh nghiệp nhà nước sử dụng để phục vụ nhà đầu tư mà còn bị chi phối, tác động bởi lợi ích chung của cộng đồng. Đây là đặc điểm quan trọng, ảnh hưởng sâu sắc đến quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước.

Về nguyên tắc, lợi ích hay quyền sử dụng các lợi ích đó sẽ được phân phối cho chủ sở hữu theo tỷ lệ sở hữu của họ đối với tài sản. Thông thường, phần giá trị được chia ở doanh nghiệp ngoài quốc doanh tồn tại dưới dạng cổ tức, phần giá trị tăng thêm về tài sản. Sau đó, các lợi ích này được chủ sở hữu (hay người có quyền sử dụng) quyết định sử dụng tiếp vào mục đích, công việc khác. Đối với doanh nghiệp nhà nước thì việc phân phối được thực hiện theo cách khác. Trong các doanh nghiệp nhà nước, phần lớn vốn và tài sản thuộc sở hữu nhà nước, tạo ra lợi nhuận thuộc quyền quyết định của Nhà nước, song Nhà nước không trực tiếp nhận và thụ hưởng mà phân chia theo nhiều cách thức, mục đích cho nhiều đối tượng khác nhau. Như vậy, điểm khác biệt quan trọng chính là chủ sở hữu tài sản và người hưởng thụ lợi ích luôn khác nhau, do đó, gây khó khăn cho Nhà nước trong việc thực hiện quyền sở hữu và đánh giá kết quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước. Điều này cũng tương tự như tình trạng “một người trả tiền còn người khác sử dụng”. Đây chính là yếu tố dẫn đến quyền sở hữu nhà nước thường kém hiệu lực và nhiều doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả.

Xuất phát từ tính chất công cộng, lợi ích và việc sử dụng lợi ích thu được từ các doanh nghiệp nhà nước, Nhà nước luôn hướng đến việc cải thiện phúc lợi xã hội, ổn định kinh tế - xã hội hơn là tối đa hóa lợi nhuận. Tuy nhiên, điều này sẽ ảnh hưởng đến quyền tự chủ của doanh nghiệp nhà nước, đồng thời có thể làm nảy sinh tình trạng thất thoát, lãng phí tài sản.

 


[1] . Xem TS. Lê Vương Long: Những vấn đề lý luận về quan hệ pháp luật, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2006, tr.63

[2] Xem PGS.TS. Bùi Xuân Đức: Đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước trong giai đoạn hiện nay, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2004, tr.69-70. 2. Vũ Văn Phúc: "Vì sao lại hiến định: nền kinh tế nước ta có nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo?”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 05/02/2014.

[3] Xem GS.TS. Nguyễn Quang Thuấn (Chủ biên): Cải cách doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam sau 30 năm đổi mới: Thực trạng và giải pháp, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2018, tr.118

[4] Chẳng hạn, Điều 1 Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 2003 định nghĩa: “Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn". Khoản 22, Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2005, sửa đổi, bổ sung năm 2009, 2013 nêu rõ: “Doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp trong đó Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ". Khoản 8, Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2014 định nghĩa: "Doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ"

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.6.

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nôi, 2017, tr.79-80.

Đăng ký nhận email

Đăng ký email để có thể có được những cập nhật mới nhất về tải liệu được đăng tải trên website

Tập san đã phát hành