Quá trình hoàn thiện quan hệ pháp lý giữa Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước, trong đó Nhà nước với tư cách là nhà đầu tư, là một trong những vấn đề trọng tâm của quá trình đổi mới, phát triển kinh tế ở nước ta. Nội dung này gồm hai mặt:
Thứ nhất, đổi mới, thành lập, giải thể, sắp xếp, tổ chức lại các chủ thể Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước (sáp nhập, chia tách, cổ phần hóa, thành lập tổng công ty...).
Thứ hai, hoàn thiện cơ chế pháp lý giữa Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước, trong đó chủ yếu là hoàn thiện phương thức và hình thức ủy quyền thực hiện quyền sở hữu tài sản tại doanh nghiệp nhà nước, đổi mới mức độ, phạm vi tự chủ của doanh nghiệp nhà nước trên các mặt: kế hoạch, tài chính, thị trường, đầu tư, sử dụng lao động...
Trong các giai đoạn khác nhau của quá trình đổi mới, do yếu tố khách quan và chủ quan quy định, hai mặt trên được tiến hành đồng thời hoặc có thể chỉ thiên về một mặt nào đó. Có thể khái quát các yếu tố chi phối, tác động đến quan hệ pháp lý giữa Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước như sau:
1. Chức năng kinh tế của Nhà nước
Chức năng kinh tế của Nhà nước lúc đầu còn hạn chế, chỉ bao gồm việc phân phối lại, bảo đảm cơ sở kinh tế cho nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, đấu tranh phòng, chống thiên tai, bảo vệ sản xuất. Cùng với sự phát triển của Nhà nước, chức năng kinh tế của Nhà nước cũng mở rộng và phát triển Nhà nước ngày càng “nắm trong tay” các cơ sở vật chất lớn của nền sản xuất, trong đó có các tư liệu sản xuất chủ yếu Nhà nước không chỉ là một bộ phận của kiến trúc thương tảng mà còn là một chủ thể kinh tế (khu vực kinh tế nhà nước). Về mặt pháp lý, Nhà nước là chủ thể pháp lý của quan hệ pháp lý giữa Nhà nước và doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp nhà nước.
Nhà nước thiết lập khu vực kinh tế của mình để thực hiện chức năng điều tiết, phát triển kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội và bảo đảm quyền lợi cho các chủ thể pháp lý trong xã hội. Việc xuất hiện sở hữu nhà nước về tư liệu sản xuất tạo điều kiện để Nhà nước tham gia vào các quan hệ thuộc về cơ sở hạ tầng và bắt đầu hình thành khu vực kinh tế nhà nước. Vì vậy, Nhà nước trở thành chủ thể trực tiếp tham gia toàn bộ quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội đồng thời là chủ sở hữu tài sản và tiến hành các hoạt động kinh doanh.
Ở nước ta, trong một số giai đoạn, do yêu cầu của nhiệm vụ phát triển kinh tế, khắc phục sự tụt hậu kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội, chức năng kinh tế của Nhà nước được mở rộng, theo đó, Nhà nước buộc phải có những điều kiện kinh tế nhất định để thực hiện các chức năng kinh tế mở rộng của mình. Sự hình thành khu vực kinh tế nhà nước như một tất yếu khách quan, đặc biệt là việc hình thành và xây dựng xí nghiệp quốc doanh, doanh nghiệp nhà nước
Trong giai đoạn đầu phát triển kinh tế, Nhà nước đã tiến hành quốc hữu hóa doanh nghiệp ngoài quốc doanh, kế thừa những cơ sở vật chất để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, từ đó góp phần phát triển kinh tế đất nước. Trong giai đoạn này, quan hệ pháp lý giữa Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước là quan hệ hành chính với thành phần chủ thể hạn chế và nội dung pháp lý đơn điệu, cứng nhắc. Trong điều kiện hiện nay, với nhiều yếu tố mới như toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, sự phát triển của khoa học và công nghệ, đòi hỏi Nhà nước phải thực hiện một cách hiệu quả chức năng kinh tế của mình, đặc biệt là việc thực hiện sở hữu của Nhà nước, đổi mới khu vực kinh tế nhà nước, trong đó quan trọng nhất là doanh nghiệp nhà nước.
Trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hình thức quan trọng nhất biểu hiện chức năng kinh tế của Nhà nước là việc xác lập vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, nền tảng là các doanh nghiệp nhà nước. Ở Việt Nam, sự tồn tại của doanh nghiệp nhà nước, cùng với khu vực kinh tế nhà nước trong lịch sử, hiện tại và trong tương lai vẫn hết sức cần thiết, quan trọng, là công cụ có sức mạnh vật chất để Nhà nước điều tiết và hướng dẫn nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều này giúp Nhà nước tăng cường vai trò của mình trong lĩnh vực kinh tế, đồng nghĩa với việc tăng cường hỗ trợ, bảo hộ đối với doanh nghiệp nhà nước.
Trong nền kinh tế đang chuyển đổi, định hình, Nhà nước có vai trò quan trọng. Điều đó thể hiện Nhà nước - trước hết là một tác nhân quyết định đối với sự hình thành, phát triển nhanh kinh tế thị trường ở nước ta bằng việc nắm rõ ngành kinh tế, kỹ thuật mũi nhọn, then chốt trên cơ sở tạo lập sự ổn định trong môi trường kinh tế vĩ mô, xây dựng hạ tầng cơ pháp luật để bảo đảm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các doanh nghiệp nhà nước là một trong những công cụ được nhà nước sử dụng để thực hiện chức năng điều tiết vĩ mô ấy. Tuy nhiên, phạm vi và mức độ sử dụng công cụ doanh nghiệp nhà nước như thế nào để tác động hiệu quả đối với việc hoàn thiện quan hệ pháp lý giữa Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước là vấn đề cần phải xác định. Đồng thời, xác định mức độ lệ thuộc của doanh nghiệp nhà nước vào chủ sở hữu nhà nước, mức độ độc lập tự chủ cần thiết để doanh nghiệp nhà nước có thể hoạt động hiệu quả trên thị trường.
Việc chuyển đổi cơ chế quản lý sẽ làm thay đổi cơ bản phương thức tác động của Nhà nước trong quan hệ với doanh nghiệp nhà nước. Mặc dù phương thức hoạt động, lĩnh vực, quy mô cũng như hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp nhà nước còn nhiều vấn đề cần phải bàn, song sự có mặt của chúng với tư cách là một công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế đã được khẳng định, vấn đề điều chỉnh pháp lý, hoạt động và xây dựng quy chế pháp lý cho doanh nghiệp nhà nước là hết sức cần thiết. Theo đó, những khái niệm, phạm trù, hệ thống quyền và nghĩa vụ được hình thành trong cơ chế cũ được dùng để thể hiện quan hệ pháp lý giữa Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước như quan niệm về vị trí, vai trò của doanh nghiệp nhà nước, hệ thống quản lý, cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp, quyền quản lý tài sản quyền quản lý nghiệp vụ, quyền chủ động trong kinh doanh, quyền chủ thể, tư cách chủ thể, tư cách pháp nhân đã được thay đổi trong lịch sử. Đổi mới và tăng cường vai trò của kinh tế nhà nước sẽ đưa đến sự đổi mới vai trò và phương thức hoạt động của Nhà nước, doanh nghiệp nhà nước, từ đó tác động mạnh mẽ đến quá trình hoàn thiện của quan hệ pháp lý giữa Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước.
2. Vị trí, vai trò của hệ thống doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế
Ở bất cứ quốc gia nào, các chủ thể kinh doanh đều có vị trí, vai trò nhất định trong nền kinh tế. Tuy nhiên, vị trí, vai trò đó được xác định tùy thuộc vào nhiều yếu tố như: sự lựa chọn mô hình kinh tế của quốc gia; yếu tố lịch sử; trình độ và xu hướng phát triển của các khu vực doanh nghiệp khác trong nền kinh tế... Sự tồn tại của doanh nghiệp nhà nước là khách quan và cần thiết. Mặc dù doanh nghiệp nhà nước trên thực tế tỏ ra kém hiệu quả kinh tế hơn các doanh nghiệp tư nhân; mặc dù doanh nghiệp nhà nước thường trở thành gánh nặng cho ngân sách các quốc gia; mặc dù các chính phủ ngày càng bán hoặc cổ phần hóa nhiều hơn các doanh nghiệp nhà nước và giảm mạnh đầu tư vào khu vực này, nhưng các doanh nghiệp nhà nước vẫn tiếp tục chiếm một phần quan trọng trong nền kinh tế[1].
Ở nước ta, doanh nghiệp nhà nước gần như giữ vị trí độc tôn trong thời kỳ xây dựng nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp. Theo đó, doanh nghiệp nhà nước được coi là đơn kinh tế cơ sở, tổ chức xã hội, trường học chủ nghĩa cộng sản của giai cấp công nhân. “Thị trường có khuyết tật, nhưng 80 quản lý của Nhà nước cũng không luôn luôn hoàn hảo. Đứng ở trung tâm của sự kết hợp đó chính là thành phần kinh tế nhà nước, trong đó doanh nghiệp nhà nước có vị trí rất quan trọng... doanh nghiệp nhà nước phải nắm giữ các vị trí then chốt, các yết hầu của nền kinh tế”[2].
Với quy mô và số lượng lớn, doanh nghiệp nhà nước là lực lượng kinh tế chủ đạo, đóng vai trò quan trọng trong việc cũng cố nền tảng kinh tế - xã hội. Vì vậy, quan hệ pháp lý giữa Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước được xác lập chủ yếu nhằm thực thi chỉ tiêu kế hoạch của Nhà nước và đáp ứng phúc lợi xã hội.
Từ khi đất nước thực hiện đường lối đổi mới, trong tư duy lý luận và thực tiễn lãnh đạo của Đảng, quan niệm về vị trí, vai trò của hệ thống doanh nghiệp nhà nước đã có sự thay đổi, ngày càng phù hợp hơn với sự phát triển của “nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”[3]. Điều 19, Hiến pháp năm 1992, sửa đổi, bổ sung năm 2001 quy định: “Kinh tế quốc doanh được củng cố và phát triển, nhất là trong những ngành và lĩnh vực then chốt, giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Cơ sở kinh tế quốc doanh được quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh, bảo đảm kinh doanh có hiệu quả". Khoản 1 Điều 51 Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định: “Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo". Tổn tại với tư cách là nhân tố trọng yếu trong vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, doanh nghiệp nhà nước đang đối mặt với mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn giữa thực trạng hoạt động với sứ mạng được giao phó.
Nghị quyết số 12-NQ/TW nhấn mạnh: “Doanh nghiệp nhà nước giữ vững vị trí then chốt và là một lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế nhà nước, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội[4]”. Với tư cách là bộ phận nòng cốt của thành phần kinh tế nhà nước, doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí trọng yếu, có ý nghĩa quan trọng trong thành phần kinh tế nhà nước. Đó là nguyên tắc căn bản nhất, thể hiện tư tưởng chỉ đạo của Đảng và Nhà nước trong việc xác định vị trí, vai trò của các doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế. Để các doanh nghiệp nhà nước xác lập và hoạt động trong đời sống kinh tế năng động và đa dạng, yêu cầu đặt ra là phải xác định cụ thể và chính xác các doanh nghiệp nhà nước về mặt pháp lý, vị trí, khả năng, giới hạn cũng như bảo đảm về tổ chức và hoạt động củ doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế đó (mối quan h doanh nghi nghiệp nhà nước với Nhà nước). Điều này có tác động mạnh mẽ đến việc hoàn thiện quan hệ pháp lý giữa Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước.
3. Cơ chế kinh tế
Sự chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường với sự quản lý của Nhà nước tác động mạnh mẽ, sâu sắc đến quá trình hoàn thiện quan hệ pháp lý giữa Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước. Chính sự chuyển đổi của cơ chế kinh tế đã quyết định việc điều chỉnh quan hệ pháp lý giữa Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước cho phù hợp với thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội nhằm bảo đảm các doanh nghiệp nhà nước phát huy được vai trò của mình trong cơ chế tự chủ kinh doanh, hợp tác và cạnh tranh, bình đẳng trước pháp luật.
Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, Nhà nước là tổng chỉ huy của nền kinh tế, trực tiếp bằng mệnh lệnh hành chính đối với doanh nghiệp nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước chỉ được coi như một đơn vị sản xuất cơ sở, mọi hoạt động chỉ gói gọn trong “bốn bức tường”. Do vậy, doanh nghiệp nhà nước mất tự chủ, môi trường kinh doanh đơn giản và tương đối ổn định, các yếu tố thị trường chưa phát triển, quan hệ pháp lý giữa Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước xơ cứng, sự tác động và điều chỉnh của pháp luật không rõ nét.
Thị trường là tổng thể các quan hệ kinh tế - xã hội trong lĩnh vực lưu thông, trao đổi hàng hóa, là một khâu của quá trình tái sản xuất xã hội. Thị trường và kế hoạch không phải hai phạm trù tách biệt, đối lập hay loại trừ nhau, trái lại, thị trường vừa là căn cứ, vừa là đối tượng của kế hoạch hóa. Thị trường phản ánh nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng, do đó, kế hoạch phải thông qua thị trường, hợp đồng để cân đối sản xuất, tiêu dùng, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế. Mặt khác, kế hoạch hóa sẽ cân đối các khâu của quá trình sản xuất trong xã hội, trong đó khâu lưu thông hàng hóa và tiền tệ được thực hiện thông qua thị trường có vai trò quan trọng đối với sản xuất, phân phối và tiêu dùng. Dù có những ưu điểm như vậy, nhưng “thị trường không phải là liều thuốc vạn năng”[5], nhất là đối với nền kinh tế của chúng ta.
Khi chuyển đổi cơ chế sang kinh tế thị trường, môi trường kinh doanh có nhiều thay đổi và không ngừng biến động, tác động mạnh mẽ đến quan hệ pháp lý giữa Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước, buộc các doanh nghiệp nhà nước phải thực sự quan tâm đến việc phân tích môi trường kinh doanh để điều chỉnh hoạt động của mình cho phù hợp. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng nhận thấy tầm quan trọng của việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế; tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp, buộc doanh nghiệp nhà nước phải khai thác các yếu tố thuận lợi, tìm kiếm cơ hội kinh doanh, kịp thời phát những nguy cơ, đe dọa bảo đảm điều kiện cho doanh nghiệp nhà nước tồn tại và phát triển. Có thể nói, môi trường kinh doanh có tác động lớn đến sự phát triển của các doanh nghiệp nhà nước. Môi trường kinh doanh thuận lợi được coi là bệ phóng, điểm tựa vững chắc cho sự phát triển của doanh nghiệp nhà nước. Ngược lại, môi trường kinh doanh không thuận lợi sẽ kìm hãm, cản trở, thậm chí khiến doanh nghiệp nhà nước lâm vào tình trạng phá sản.
Trong cơ chế thị trường, thông qua thị trường, các nhà kinh doanh và người tiêu dùng gặp nhau ở thị trường để xác định giá cả, số lượng và chất lượng hàng hóa. Mọi hoạt động kinh tế diễn ra một cách tự nguyện, không có sự lãnh đạo của Nhà nước. Thị trường trực tiếp hướng dẫn người sản xuất lựa chọn các lĩnh vực hoạt động và kinh doanh hiệu quả thông qua hệ thống giá cả và mức độ lợi nhuận. Để làm được điều đó, đòi hỏi doanh nghiệp phải có vị trí pháp lý bình đẳng, có khả năng và quyền độc lập trong các quyết định kinh tế, đồng thời chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Cơ chế thị trường, môi trường kinh doanh bình đẳng chính là yếu tố góp phần thúc đẩy hoàn thiện quan hệ pháp lý giữa Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước.
Đại hội Đảng lần thứ VI đã xác định một số quan điểm lớn về việc sử dụng quan hệ hàng hóa tiền tệ và thị trường trong cơ chế kinh tế mới, làm cơ sở cho việc đổi mới, đó là: “Việc sử dụng quan hệ hàng hóa - tiền tệ đòi hỏi sản xuất phải gắn với thị trường, mọi hoạt động kinh tế phải so sánh chi phí với hiệu quả, các tổ chức và đơn vị kinh tế phải tự bù đắp chỉ phí và có lãi để tái sản xuất mở rộng, tức là phải thực hiện hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa”[6].
Đại hội Đảng lần thứ VIII (6/1996) và Đại hội Đảng lần thứ IX (4/2001) khẳng định tiếp tục quan điểm và sự nghiệp đổi mới, tiếp tục thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách này, khuyến khích mọi doanh nghiệp, cá nhân trong và ngoài nước khai thác các tiềm năng, ra sức đầu tư phát triển, yên tâm làm ăn lâu dài, hợp pháp, có lợi cho quốc kế dân sinh, đối xử bình đẳng với mọi thành phần kinh tế trước pháp luật, không phân biệt sở hữu và hình thức tổ chức kinh doanh. Những chủ trương này tác động mạnh mẽ đến quan hệ pháp lý giữa Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng (năm 2021) khẳng định: “Thị trường đóng vai trò quyết định trong xác định giá cả hàng hóa, dịch vụ; tạo động lực huy động, phân bổ hiệu quả các nguồn lực; điều tiết sản xuất và lưu thông; điều tiết hoạt động của doanh nghiệp, thanh lọc những doanh nghiệp yếu kém”[7].
Cơ chế nền kinh tế thị trường đem lại những ưu thế nhất định, song cũng có những tác động tiêu cực tới xã hội.
Hạn chế những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường góp phần quyết định quan hệ pháp lý giữa Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước. Cơ chế vận hành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước trên cơ sở pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác. Điều này cũng tác động rất lớn đến địa vị pháp lý, phương thức hoạt động của Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước cũng như hệ thống quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp nhà nước. Từ chỗ hoàn toàn làm theo mệnh lệnh để được bảo trợ, đến cơ chế mới, các doanh nghiệp nhà nước là đơn vị sản xuất hàng hóa có năng lực độc lập về kinh tế và pháp lý, phù hợp với kinh tế hàng hóa trong cơ chế thị trường, theo đó doanh nghiệp nhà nước hoàn toàn có quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm đối với những vấn đề về tổ chức và quản lý kinh doanh.
Có thể khẳng định, đặc điểm, quy luật, nguyên lý của cơ chế thị trường, môi trường kinh doanh sẽ là cơ sở khoa học cho việc đổi mới, điều chỉnh pháp luật trong quan hệ giữa Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước.
Công cuộc đổi mới toàn diện gồm nhiều mặt với nhiều nội dung. Về kinh tế, nội dung cốt yếu của quan điểm đổi mới là thừa nhận và tạo điều kiện hình thành nền kinh tế nhiều thành phần với nhiều loại hình doanh nghiệp thuộc các hình thức sở hữu khác nhau. Cơ chế quản lý kinh tế thay đổi tương ứng với sự thay đổi cơ cấu nền kinh tế. Chủ trương, đường lối của Đảng nhanh chóng được "luật hóa" thành chức năng và phương pháp quản lý nền kinh tế của Nhà nước và quyền tự do kinh doanh của các loại hình doanh nghiệp. Theo đó, pháp luật được khẳng định là công cụ hàng đầu để thực hiện vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước và tạo môi trường kinh doanh cho các doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp nhà nước.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các đơn vị kinh tế có quyền tự chủ kinh doanh, quan hệ bình đẳng, cạnh tranh hợp pháp, hợp tác và liên doanh tự nguyện, thị trường có vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phương án tổ chức kinh doanh có hiệu quả. Nhà nước quản lý nền kinh tế nhằm định hướng, dẫn dắt các thành phần kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trường, kiểm soát chặt chẽ và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động kinh tế, bảo đảm sự hài hòa giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa, gắn với tiến bộ và công bằng xã hội.
4. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII diễn ra vào tháng 10/2022 đã khẳng định quan điểm đổi mới, đột phá của Đảng ta trong giai đoạn tới về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước:
“Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một quá trình chuyến đi căn bản, toàn diện nền kinh tế và đời sống xã hội ngày càng dựa nhiều hơn vào sự phát triển của công nghiệp và dịch vụ, khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Đây là phương thức quan trọng để Việt Nam xây dựng nển kinh tế độc lập, tự chủ, tự cường, phát triển kinh tế nhanh và bền vững, trở thành nước phát triển, có thu nhập cao. Trong đó xác định, tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là một yêu cầu tất yếu khách quan trong tình hình mới; là nhiệm vụ trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đất nước; là sự nghiệp của toàn dân và của cả hệ thống chính trị; lấy con người là trung tâm, doanh nghiệp là chủ thể; bảo đảm sự hài hoà giữa mục tiêu phát triển kinh tế đi đôi với yêu cầu giữ gìn tiến bộ và công bằng xã hội”.
Quan điểm của Đảng ta thể hiện trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII khẳng định: Xuyên suốt quá trình đổi mới đất nước có thể thấy, nhận thức của Đảng ta về vấn đề này đã có bước phát triển toàn diện, đồng bộ, đảm bảo sự phù hợp với quá trình chuyển đổi và hoàn thiện thể chế quản lý kinh tế - xã hội của đất nước. Từ chỗ xác định chủ thể chủ yếu thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa là Nhà nước và kinh tế quốc doanh trước đây đã chuyển sang quan điểm khẳng định công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp của toàn dân với sự tham gia của tất cả các thành phần kinh tế cũng như các chủ thể khác nhau trong xã hội, trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo, doanh nghiệp nhà nước là nòng cốt, kinh tế tư nhân là động lực quan trọng[8].
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi phải nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước cũng như các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, trong đó có các doanh nghiệp nhà nước. Vì vậy, cần có khung pháp lý phù hợp để điều chỉnh kịp thời, đồng bộ quan hệ pháp lý giữa Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước.
Đồng thời quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cũng đặt ra yêu cầu phải đánh giá lại vị trí, vai trò của doanh nghiệp nhà nước cho phù hợp. Đường lối phát triển của Đảng và Nhà nước ta là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp. Để thực hiện được điều này, các cơ quan nhà nước phải thực sự trở thành “người” tổ chức và quản lý mọi mặt đời sống xã hội, tạo điều kiện và phát huy được mọi tiềm năng của đất nước và sức mạnh của quần chúng nhân dân và của mọi thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế nhà nước mà nòng cốt là các doanh nghiệp nhà nước.
Do đó, yêu cầu hoàn thiện quan hệ pháp lý giữa Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước ngày càng tăng trước sức ép của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) (năm 2006) và các Hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới.
Việc gia nhập WTO có tác động mạnh mẽ đến đời sống kinh tế ở Việt Nam. Nó đã, đang và sẽ trở thành “chất xi bác cũng như trực tiếp định hướng hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó có việ thúc đẩy cải cách khu vực doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là hoàn thiện quan hệ pháp lý giữa Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước, bởi lẽ:
Thứ nhất, gia nhập WTO, Việt Nam phải từng bước xóa bỏ hàng rào bảo hộ và tiến hành thực hiện các điều chỉnh khác theo các nguyên tắc của WTO. Việc thống nhất môi trường kinh doanh cho mọi loại hình doanh nghiệp, xóa bỏ mọi khoản bảo hộ và trợ cấp cho doanh nghiệp nhà nước là một yêu cầu bắt buộc. Điều XVII Hiệp định chung về thương mại và thuế quan (GATT) quy định:
“Các quốc gia phải cam kết rằng nếu muốn thành lập các doanh nghiệp nhà nước, cho dù đặt ở đâu, hoặc muốn trao cho bất cứ doanh nghiệp nào những ưu đãi dù là hình thức hay thực tế thì các doanh nghiệp đó trong các hoạt động mua bán hàng hóa xuất nhập khẩu phải ứng xử phù hợp với các nguyên tắc không phân biệt đối xử”[9].
Thứ hai, việc thực hiện các cam kết quốc tế và hội nhập kinh tế quốc tế khiến cho các doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp nhà nước phải cạnh tranh với hàng hóa của các nước trên thế giới. Sự cạnh tranh này sẽ tác động mạnh mẽ đến doanh nghiệp nhà nước, chúng sẽ ở vào vị thế yếu cả trên thị trường trong và ngoài nước nếu không nhanh chóng đối mới hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước. Hơn nữa, chúng ta cũng phải đương đầu với những yếu kém vốn có bên trong nền kinh tế của mình, do phần lớn các doanh nghiệp nhà nước ở nước ta làm ăn kém hiệu quả.
Thứ ba, sau khi gia nhập WTO, pháp luật của Việt Nam phải được nâng lên một bước và mang tính ổn định hơn, công khai hơn, thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng. Việt Nam buộc phải tuân thủ các quy tắc của WTO, trong đó có các quy tắc đối với doanh nghiệp nhà nước. Dưới sức ép cạnh tranh của quốc tế, Việt Nam phải khẩn trương hoàn thiện pháp luật điều chỉnh doanh nghiệp nhà nước.
Việt Nam phải cam kết giảm dần vai trò của các doanh nghiệp nhà nước, còn đối với một số lĩnh vực cần giữ lại sự độc quyền của Nhà nước thì phải xác định lộ trình bãi bỏ và phải thông báo với các thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
“Để đảm bảo sự minh bạch trong hoạt động của các doanh nghiệp thương mại nhà nước, các thành viên phải rà soát chính sách của mình và hằng năm phải thông báo về tình hình doanh nghiệp cho Ủy ban về Thương mại và hàng hóa của WTO.”[10]
Trong giai đoạn hiện nay, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư có những bước tiến nhảy vọt, kinh tế tri thức ngày căng giữ vai trò quan trọng trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất, toàn cầu hóa kinh tế trở thành xu thế khách quan. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định: “Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”[11], “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng”; doanh nghiệp nhà nước là lực lượng quan trọng, phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia và bảo vệ môi trường. Việc tham gia các FTA thế hệ mới của Việt Nam đã làm thay đổi không nhỏ nền tảng pháp lý đối với doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước, Các FTA thế hệ mới đòi hỏi mọi thành viên phải thực hiện rà soát toàn bộ hệ thống chính sách kinh tế, xã hội, văn hóa, cải cách tư pháp - hành chính, xử lý mối quan hệ giữa thương mại quốc tế với những vấn đề vốn được coi là “phi thương mại” - “các giá trị xã hội” (như: thương mại và quyền con người, bảo vệ người lao động trong thương mại quốc tế, thương mại và môi trường, thương mại và văn
Về cơ bản, điều này tác động đến sự thay đổi khung pháp luật cũng như tác động vào quá trình hoạch định chính sách của Việt Nam trong việc xây dựng nền tảng pháp lý thỏa mân các giá trị cốt lõi của các FTA là tự do thương mại, cạnh tranh công bằng và không phân biệt đối xử.
Hiện nay, để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới, cần đẩy nhanh hơn nữa việc cải cách kinh tế, mà nền tảng là cải cách khu vực doanh nghiệp nhà nước, từ đó góp phần hoàn thiện quan hệ pháp lý giữa Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước.
[1] World Bank: Giới quan chức trong kinh doanh - ý nghĩa kinh tế và chính trị của sở hữu nhà nước, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 54
[2] GS.TS. Tạ Ngọc Tấn - PGS.TS. Lê Quốc Lý (Đồng chủ biên): Đổi mới, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước bảo đảm vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tr.9
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.9-10.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc là thứ VII, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.55.
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1986, tr.63-64.
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021
[8] Xem Ban Tuyên giáo Trung ương: Tài liệu nghiên cứu các văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật. Hà Nội, 2022, tr. 208
[9] PGS.TS. Lê Hồng Hạnh: Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước - Những vấn đề lý luận và thực tiễn (Sách chuyên khảo), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr. 87.
[10] Ủy ban quốc gia về Hợp tác kinh tế quốc tế: Các văn kiện cơ bản của Tổ chức Thương mại thế giới, Hà Nội, tr. 48
[11] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, tr. 162