Thứ hai, 15 Tháng 7 2024 03:13

Phân tích đánh giá vị trí, chức năng của Chính phủ pháp trị trên con đường phát triển xã hội Trung Quốc

Trong quá trình chuyển đổi Trung Quốc đã xác định việc quản lý đất nước theo pháp luật là mấu chốt để chuyển đổi mô hình quản trị Chính phủ thông qua việc xác định vị trí chuẩn xác đối với các chức năng của Chính phủ và chuyển đổi các chức năng tương ứng.

Về cơ bản, việc xác định chức năng nào thực sự cần được thực hiện bởi chính phủ là do tiêu chí đánh giá giá trị cơ bản ở mức độ tương đối phụ thuộc vào khái niệm thiết kế thể chế xã hội và khả năng cũng như trình độ nhận thức của chính phủ. Từ kinh nghiệm phát triển của xã hội loài người cho thấy việc cung cấp hàng hóa công cộng, khắc phục những thất bại của thị trường và xây dựng một hệ thống an sinh xã hội phủ khắp toàn dân là những trọng trách của Chính phủ. Chức năng cơ bản của Chính phủ là bảo vệ xã hội và cũng là chức năng cốt lõi của một Chính phủ pháp trị.

Chức năng bảo vệ của Chính phủ được thể hiện ở việc Chính phủ sử dụng sức mạnh của luật pháp để duy trì trật tự xã hội nhằm bảo đảm quyền và lợi ích của mọi công dân không bị ai xâm phạm. Vì đời sống kinh tế là nội dung quan trọng nhất trong hoạt động của xã hội loài người, nên việc bảo vệ phương thức phân bổ nguồn lực và mô hình vận hành kinh tế do một xã hội lựa chọn đương nhiên là trọng trách của Chính phủ. Quyền tài sản và quyền tự chủ tư nhân là tiền đề không thể thiếu cho hoạt động bình thường của nền kinh tế thị trường nên việc bảo vệ quyền tài sản và quyền tự chủ tư nhân có ý nghĩa cấu thành và là trách nhiệm chính của Chính phủ trong việc xây dựng một xã hội chuyển đổi.

Một hệ thống pháp luật hoàn thiện là sự bảo đảm thể chế bên trong của một hệ thống kinh tế thị trường hoàn hảo. Kinh tế thị trường nhất thiết phải là kinh tế pháp quyền hay thể chế thị trường là một hệ thống pháp luật để điều chỉnh các quan hệ kinh tế hiệu quả, bình đẳng mà không phải là kết quả của kế hoạch hóa, càng không thể là sự võ đoán cường quyền.

Loại hình thể chế, mức độ hoàn thiện luật pháp của một quốc gia sẽ mang lại sự khác biệt lớn về tốc độ tăng trưởng kinh tế và mức độ mà các thành viên của cộng đồng kinh tế có thể đáp ứng các mục tiêu kinh tế của họ, từ đó dẫn đến một khoảng cách rõ rệt về phúc lợi xã hội.

Theo lý thuyết tăng trưởng tân cổ điển chỉ có thể xác định các điều kiện tăng trưởng trực tiếp nhất như tích lũy vốn và thay đổi công nghệ, trong khi để giải thích tại sao mọi người tiết kiệm, đầu tư, học hỏi và thu thập kiến thức hữu ích, phải xem xét các hệ thống thể chế, hệ thống giá trị đằng sau sự thành công hay thất bại của nền kinh tế. Đối với bất kỳ xã hội nào, một hệ thống pháp luật hoàn hảo vừa là những quy tắc ban đầu mà hệ thống nói trên tuân theo, vừa là sự bảo đảm cho tính hiệu quả của hệ thống này.

Chức năng bảo vệ của Chính phủ có thể tăng cường trật tự xã hội và giúp các cá nhân, công ty tư nhân và tổ chức dân sự dễ dàng điều tiết các nhiệm vụ khi đối mặt với sự thiếu hiểu biết, từ đó xây dựng niềm tin vào chế độ xã hội. Trong nhiều trường hợp, chức năng bảo vệ của chính phủ được thực hiện thông qua việc xây dựng các luật và quy định.

Các hoạt động kinh tế thị trường không thể được tiến hành trong một khoảng trống chế độ, tư pháp và chính trị[1]. Tự do cá nhân, quyền sở hữu tư nhân, tiền tệ ổn định và các dịch vụ công hiệu quả là điều kiện tiền đề. Do đó, nhiệm vụ hàng đầu của quốc gia là bảo vệ sự an toàn để những người lao động và sản xuất có thể tận hưởng thành quả lao động của họ và được khuyến khích làm việc một cách trung thực và hiệu quả.

Đối với các nền kinh tế thị trường mới nổi, chức năng bảo hộ nổi bật nhất của Chính phủ trong nền kinh tế thị trường là xây dựng và duy trì một trật tự thị trường công bằng, bảo đảm tự do cạnh tranh, vừa tránh cho một số công dân không bị người khác chèn ép, vừa phải có quyền lực mạnh mẽ hơn để ngăn chặn cưỡng bức, xâm hại thị trường và công dân. Về lý thuyết, việc để một chính phủ đảm nhận chức năng bảo hộ của nền kinh tế thị trường tương đương với việc đạt được một “hiệp ước giải trừ quân bị" giữa các công dân. Nếu xã hội của chúng ta đang ở vào tình trạng vô chính phủ, nếu sự bắt buộc chỉ bị hạn chế bởi “tiềm năng bạo lực” của các bên khác, nếu tất cả các thành viên trong xã hội phải chống lại người khác để bảo vệ tài sản của mình, thì xã hội của chúng ta sẽ phải trả chi phí độc quyền và chi phí thực thi rất cao. Nếu vậy, sự tự bảo vệ vô chính phủ sẽ kìm hãm một lượng lớn sự phân công lao động thuận lợi và cản trở sâu sắc sự phồn vinh của xã hội. Vì vậy, chính phủ được xem là đại diện được người dân “thuê làm việc", đồng thời được trao cho sứ mệnh bảo vệ tự do cá nhân, bảo vệ trật tự kinh tế - xã hội, công bằng và công lý. Trong hệ thống kinh tế thị trường mà chính phủ có thể đảm nhận một cách chính xác các chức năng bảo hộ nêu trên, trạng thái tự do cạnh tranh trên thị trường cũng có thể được bảo vệ và tồn tại lành mạnh. Bởi vì một thế giới quan hệ vi mô được cá nhân hóa luôn phát triển mạnh mẽ trong sự cải tiến và mở rộng liên tục của trật tự thị trường cạnh tranh.

Vấn đề của xã hội Trung Quốc ngày nay là tình trạng của thể chế kinh tế hỗn hợp "nửa thị trường” và “nửa truyền thống" dưới sự lãnh đạo của chính phủ do chưa hình thành hệ thống kinh tế thị trường hoàn chỉnh cũng như chưa hoàn thiện hệ thống pháp luật hoàn chỉnh. Việc cùng tồn tại thể chế kinh tế hỗn hợp như hiện nay làm tăng chi phí vận hành của nền kinh tế trị trường, đồng thời sẽ làm quy luật thị trường tuân theo mệnh lệnh hành chính một cách có hệ thống, dẫn đến quyền lực hành chính lớn hơn quyền lực của hệ thống pháp luật một cách có hệ thống. Khi thị trường phải phục tùng mệnh lệnh hành chính thì cơ chế thị trường sẽ không thể thực hiện được chức năng ban đầu của nó; khi quyền lực cao hơn sức mạnh của pháp luật thì pháp luật chỉ có thể là công cụ của quyền lực.

Với chức năng bảo vệ của chính phủ, chính phủ không chỉ nên xây dựng một hệ thống thị trường lành mạnh bằng cách cải thiện hệ thống pháp luật, mà còn phải bảo đảm rằng mọi người dân tham gia thị trường một cách công bằng, có trật tự và được bảo vệ bình đẳng, đồng thời phải sử dụng sức mạnh của pháp luật để hạn chế quyền lực và sức mạnh của chính mình trong đời sống kinh tế. Trong khuôn khổ các thay đổi thể chế mang tính bắt buộc mà quyền của chính phủ cũng bị tước đi so với quyền của chính phủ, việc giảm bớt sự can thiệp của quyền lực vào thị trường và hạn chế việc quyền lực xâm phạm tới lợi ích của công dân và lợi ích của công chúng là mục tiêu quan trọng của việc chuyển đổi chức năng của chính phủ. Do đó, điều kiện tiên quyết chính để chính phủ thực thi và thực hiện các chức năng bảo vệ chính xác là tuân theo các quy tắc tổng thể, tự kỷ luật, tự quy phạm, phân quyền và tự làm “suy yếu” bản thân hợp lý, để thực sự chuyển đổi được từ một chính phủ chuyên quyền sang một chính phủ phục vụ.

Dưới góc độ kinh tế thị trường, hệ thống kinh tế của Trung Quốc hiện nay đang có sự khiếm khuyết về hệ thống quyền tài sản trên thị trường, đặc biệt là khiếm khuyết về hệ thống quyền tài sản đất đai. Đối với nền kinh tế thị trường, việc thiếu hệ thống quyền tài sản là một tổn thương nghiêm trọng, vì nền kinh tế thị trường dựa trên sự rõ ràng của quyền tài sản và quyền tự chủ trong giao kết hợp đồng. Chính phủ không chỉ là nhà cung cấp duy nhất trong việc sắp xếp thể chế về quyền tài sản mà còn đảm nhận một cách hợp lý các chức năng bảo vệ và thực thi pháp lý đối với quyền tài sản. Có thể nói, đây là trách nhiệm xã hội quan trọng và thường xuyên của chính phủ cầu thị.

Nền kinh tế thị trường dựa trên việc thiết lập và bảo vệ chế độ quyền sở hữu tư nhân, đây cũng là tiền đề của các giao dịch tự nguyện dựa trên hợp đồng. Quyền tài sản được xác định và bảo vệ là điều cần thiết để con người sẽ nỗ lực không ngừng. Những nỗ lực này có "chức năng" của "bàn tay vô hình", sẽ luôn mang lại lợi ích cho người khác một cách khách quan, và những người chăm chỉ thường không biết đến người hưởng lợi. Quyền tài sản cũng không phải là một khái niệm trừu tượng chỉ ảnh hưởng đến các công ty lớn hoặc thị trường tài chính vô hình.

Nói chung, quyền tài sản được định nghĩa là một tập hợp các quyền được bảo vệ của cá nhân và tổ chức, cho phép chủ sở hữu nắm giữ hoặc định đoạt một số tài sản thông qua việc mua lại sử dụng, thế chấp, chuyển nhượng tài sản và chiếm hữu những lợi ích được tạo ra từ việc sử dụng các tài sản này. Do đó, quyền tài sản quyết định trách nhiệm và lợi ích của việc sử dụng tài sản bao gồm quyền sở hữu, nhưng quyền tài sản không ngang hàng với quyền sở hữu, đây là điểm khác biệt giữa quyền tài sản với vật sở hữu.

Quyền tư hữu luôn xác lập mối quan hệ giữa một cá nhân nhất định với một tài sản nhất định. Những tài sản đó có thể là sản phẩm vật chất, tư tưởng hoặc chính cơ thể của con người. Ở đâu các quyền tài sản được tôn trọng đầy đủ và được bảo vệ tốt ở đó có "tự do kinh tế”. Quyền tài sản, với tư cách là một dạng sắp xếp thế chế, có những đặc điểm chung riêng và là một bộ phận cấu thành của công bằng xã hội. Đặc điểm chung này là hệ thống không được phân biệt đối xử trong các tình huống riêng lẻ mà không có lý do xác định; không ai được đứng trên luật pháp do phải đảm bảo nguyên tắc bình đẳng về thủ tục. Ngược lại, khi quyền tài sản không rõ ràng và không chắc chắn, nhiều công dụng có lợi của tài sản sẽ biến mất do sự bất lợi của chúng đối với việc bảo vệ quyền tài sản.

Liên quan đến quyền tài sản còn có khái niệm về quyền tự chủ cá nhân đáng được chúng ta quan tâm. Quyền tự chủ cá nhân có nghĩa là các quyền của chủ sở hữu tài sản không bị giới hạn bởi cá nhân hoặc chính phủ trong các chi tiết cụ thể về cách sử dụng tài sản. Khi một người được quyền tự chủ trong việc sử dụng tài sản riêng của mình, bao gồm cả tri thức và sức lao động của chính mình, thì người đó có quyền tự do kinh tế. Khi chủ sở hữu tài sản gặp quá nhiều hạn chế, quyền tự chủ của họ cũng sẽ bị vi phạm. Khi loại can thiệp này được hợp pháp hóa bằng hành động chính trị sẽ không chỉ làm tăng chi phí thông tin và chi phí giao dịch của các hoạt động xã hội, mà còn làm tổn hại tới sự phồn thịnh của xã hội. Quyền tự do kinh tế đối với sở hữu và sử dụng tài sản tư nhân là bản chất của tự do dân sự và tự do lựa chọn. Tạo điều kiện cho mọi công dân có thể sử dụng các phương tiện vật chất theo ý mình để bảo vệ quyền lợi của mình mà trước tiên là không phải xin phép người khác.

Mặc dù kể từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XV của Đảng Cộng sản Trung Quốc, kinh tế phi công hữu đã trở thành một trong những nội dung quan trọng trong chế độ kinh tế cơ bản của Trung Quốc, nền tảng của quản trị cũng giống như kinh tế công hữu. Tuy nhiên, do tư tưởng phân biệt đối xử với sở hữu tư nhân không những luôn ảnh hưởng đến việc hình thành và hoàn thiện thực chất hệ thống quyền tài sản trong quá trình xây dựng kinh tế thị trường, mà còn ảnh hưởng đến trình độ nhận thức của người dân về quyền tài sản và quyền tự chủ của tư nhân và cảm giác kính sợ theo nghĩa pháp lý vì nó phải là thiêng liêng và bất khả xâm phạm. Ngược lại, sự giám sát đối với quyền lực nhà nước rất yếu, theo tư duy quán tính của thể chế truyền thống "công quyền” hay “toàn dân", việc giám sát quyền lực công khó thực hiện và có vẻ không chính đáng, thậm chí dường như là sự mạo phạm hoặc thách thức của quan niệm này đối với quan niệm kia.

Vô số trường hợp kinh tế thị trường thành công chứng minh rằng: khi các sắp xếp thể chế về quyền tài sản làm cho mọi người cảm thấy xứng đáng để tham gia vào các hoạt động sản xuất thì nền kinh tế - xã hội sẽ tiếp tục phát triển.

Hiến pháp là đạo luật cơ bản của đất nước, tuy nhiên, thói quen tư duy làm theo văn bản có dấu đỏ hình thành và kéo dài từ thời kinh tế kế hoạch đã khiến người dân một mặt không quen với các quy định của Hiến pháp. Mặt khác, do không có tiêu chuẩn đánh giá xử lý công việc theo pháp luật trong đánh giá hiệu quả công việc của quan chức và chủ yếu phụ thuộc vào việc có hoàn thành các chỉ tiêu của cấp trên hay không, nên về cơ bản, Hiến pháp bị lãng quên, đây cũng là một trong những lý do quan trọng khiến Trung Quốc khó có thể thực sự tiến hành quản lý đất nước theo pháp luật được.

Quá trình xây dựng chính phủ pháp quyền phải là biểu hiện của một chính phủ hướng tới sự phục vụ; không thể là sự can thiệp của quyền lực vào thị trường, mà phải là sự bảo vệ các quyền lợi theo pháp luật; không thể là sự độc chiếm “khan hiếm" của đặc quyền, mà phải là sự nể sợ của công bằng đối với chính nghĩa và bình đẳng. Việc tự học tập và tu dưỡng của chính phủ pháp trị là tiền đề căn bản cơ bản để xây dựng xã hội pháp quyền.

Bảo vệ tự do cá nhân là chức năng tối thượng của Hiến pháp, đồng thời nó cũng là phép thử mang tính quy phạm của Hiến pháp. Hiến pháp là một tập hợp các thể chế, chế độ cấp cao. Chúng thiết lập một tập hợp các "siêu quy tắc", trở thành các nguyên tắc chung cho việc hình thành và điều chỉnh các thể chế bên ngoài cụ thể hơn. Hiến pháp có hai nội dung cơ bản, một là quy định quyền lợi của người dân, hai là phân định phạm vi thẩm quyền của chính phủ. Nội dung trước bảo đảm rằng lợi ích của người dân không bị xâm phạm, nội dung sau bảo đảm rằng bộ máy nhà nước to lớn, mạnh mẽ nằm trong tay chính phủ chỉ được sử dụng để bảo vệ các quyền hiến định của người dân, không thể và không dám sử dụng để xâm phạm các quyền lợi cơ bản của người dân. Phân tích hệ quả kinh tế của các Hiến pháp khác nhau là nội dung nghiên cứu của kinh tế học Hiến pháp, tiền đề cơ bản của kinh tế học Hiến pháp là chính các cá nhân hành động vì lợi ích của họ chứ không phải các giai cấp hoặc tập đoàn. Do đó, phân tích kinh tế học Hiến pháp tập trung vào các quy tắc khác nhau hướng dẫn các lựa chọn cá nhân và thu hút các giá trị cá nhân khác nhau, tức là quyền tự chủ kinh tế tư nhân.

Hiến pháp bao gồm các thể chế, chế độ cấp cao và không thể thay đổi dễ dàng như các thể chế, chế độ cấp thấp. Do đó, chúng cung cấp một khuôn khổ có tính liên tục và có thể dự đoán cho các điều chỉnh không thể tránh khỏi trong các thể chế, chế độ cấp thấp. Hiến pháp khẳng định các quyền lợi cơ bản và bất khả xâm phạm của cá nhân. Các quyền lợi này không nên bị từ chối bởi các quy tắc cấp thấp, lực lượng dân sự mạnh hoặc các cơ quan chính phủ khác nhau. Hiến pháp bao gồm lôgíc cơ bản nhất để bảo vệ tài sản cá nhân là: tài sản cá nhân cung cấp cơ sở vật chất cho quyền tự chủ cá nhân.

Các nguyên tắc và thể chế, chế độ được thảo luận dưới tiêu đề của Hiến pháp đều là những ràng buộc cấp cao và phổ biến đổi với chính sách công. Chúng giúp giám sát việc lạm dụng quyền lực chính thức. Mục đích của chúng là hạn chế quyền hành tập thể, bảo vệ quyền tự do hoạt động của cá nhân, đồng thời hạn chế chủ nghĩa cơ hội và các hoạt động tìm kiếm, cho thuê của chính phủ với tư cách là người đại diện. Nói cách khác, các nguyên tắc và thể chế, chế độ được xây dựng dưới tiêu đề của Hiến pháp đều là để hạn chế quyền lực chính trị thực hiện phân biệt đối xử. Những nguyên tắc và thể chế, chế độ này thường được nâng lên thành một phần của hiến chương kinh tế và chính trị: tức là những nguyên tắc chỉ huy bất di bất dịch khi đối mặt với những thay đổi mang tính cách mạng. Chỉ khi hiểu được tầm quan trọng của trật tự, chúng ta mới ủng hộ việc thiết lập cơ chế bảo vệ để chống lại sự hoành hành của chủ nghĩa cơ hội.

Bất luận như thế nào chúng ta cũng không thể hiểu một cách đơn giản Hiến pháp là phương tiện quản lý đất nước ở các nước phương Tây, chủ nghĩa xã hội cũng nên quản lý đất nước thông qua chính trị dân chủ. Thiết lập thẩm quyền của Hiến pháp, hình thành ý thức thượng tôn pháp luật và bồi dưỡng văn hóa pháp quyền tuân thủ pháp luật là những bảo đảm cơ bản để xây dựng một xã hội pháp quyền. Đồng thời, các quan chức phải học cách để ý thực hành pháp luật tuân theo quy tắc; chính phủ phải học cách sử dụng các quy tắc thay vì các chính sách, đặc biệt là các chính sách đặc biệt dành cho các sự việc đặc biệt. Sự tuân thủ áp dụng pháp luật thay thế mệnh lệnh hành chính nhằm kết thành các ràng buộc pháp lý, thay vì thay thế các sự kiện pháp lý để chỉ phối các hoạt động xã hội.

Thiết lập trật tự chính trị của đất nước theo khuôn khổ của Hiến pháp nghĩa là quyền lực hành chính bị hạn chế và không thể bị lạm dụng; thực hiện dân chủ chính trị theo quy tắc tổng thể của Hiến pháp nghĩa là mọi công dân đều có thể thực hiện hợp lý và hợp pháp quyền tham gia quản lý nhà nước của mình; việc thực hiện sự tôn nghiêm của con người dưới sự bảo hộ của Hiến pháp nghĩa là mọi công dân đều có quyền tự do mà pháp luật trao cho, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật.

Một xã hội pháp trị trước hết là một xã hội dân sự, bởi vì xã hội dân sự là nền tảng của một xã hội pháp trị. Quyền tự do dân sự là trạng thái của con người được luật pháp và chế độ dân sự bảo vệ, lấy con người làm gốc không phải là một khẩu hiệu chính trị từ trên xuống để lấy lòng người dân, mà là một quan điểm phát triển với nội hàm là sự phát triển tự do của con người, cũng là cốt lõi của quan điểm phát triển khoa học[2]. Con người không chỉ là lực lượng tạo ra của cải, mà còn là lực lượng tận hưởng cuộc sống. Nếu chỉ lấy GDP làm thước đo cho sự phát triển của xã hội sẽ đánh mất mục đích thực sự của phát triển. Nếu chỉ coi con người là “lực lượng sản xuất" sẽ thay chủ thể thực sự bằng chủ thể khác. Việc hình thành quan điểm phát triển đúng đắn là một quá trình dùng quan điểm để chiến thắng quan điểm, đây là quá trình nâng cao nhận thức của chính phủ. Khi giá trị kinh tế của con người tăng lên, xã hội sẽ xuất hiện nhiều cơ hội mới và tốt hơn. Phát triển con người không chỉ là nội dung, mục đích của phát triển xã hội mà còn là kết quả, thu hoạch của phát triển xã hội cũng là tiền đề, sự bảo đảm để thúc đẩy xã hội văn minh và tự do, “Cải cách mở cửa là sự lựa chọn then chốt quyết định vận mệnh của Trung Quốc đương đại, là con đường tất yếu để phát triển chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc, thực hiện phục hưng vĩ đại dân tộc Trung Hoa; chỉ có chủ nghĩa xã hội mới cứu được Trung Quốc, chỉ có cải cách mở cửa mới có thể phát triển Trung Quốc, phát triển chủ nghĩa xã hội và phát triển chủ nghĩa Mác"[3]. Không thể lấy phát triển thay thế cho cải cách, cũng không thể lấy các cách làm hoặc mô hình theo từng giai đoạn trong quá trình cải cách làm mục tiêu cuối cùng để kiên trì. Lấy cải cách để mưu cầu phát triển, lấy mở cửa để thúc đẩy cải cách vẫn là con đường phát triển mà xã hội Trung Quốc phải kiên trì bám trụ.

Từ những vấn đề phân tích trên cho thấy, Trung Quốc có quan điểm nhất quán về cải cách và phát triển dựa trên cơ sở của hệ thống pháp luật bảo vệ các quyền con người thông qua vai trò và chức năng của Chính phủ. Đây là sức mạnh thể chế, là sức hấp dẫn của chế độ xã hội chủ nghĩa được thể hiện cho người dân được khẳng định trong báo cáo của "Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XVIII Đảng Cộng sản Trung Quốc".

 


[1] Đức Giáo hoàng John Paul II, “Trăm năm cống hiến”, năm 1991

[2] Báo cáo Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XVIII Đảng Cộng sản Trung Quốc.

[3] Văn kiện Đại hội lần thứ XVIII Đảng Cộng sản Trung Quốc.

Đăng ký nhận email

Đăng ký email để có thể có được những cập nhật mới nhất về tải liệu được đăng tải trên website

Tập san đã phát hành