Thứ năm, 18 Tháng 7 2024 02:35

Đổi mới, sắp xếp cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước trong giai đoạn hiện nay

1. Sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước

Để bảo đảm việc đổi mới, sắp xếp doanh nghiệp nhà nước hiệu quả, tránh việc thành lập mới một cách tùy tiện, thiếu căn cứ, cần thực hiện nghiêm túc các giải pháp sau:

Người quyết định thành lập mới và người trực tiếp quản lý doanh nghiệp nhà nước phải chịu trách nhiệm về hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp nhà nước thua lỗ nhiều năm liên tục do lỗi chủ quan thì xem xét bổi hoàn thiệt hại cho Nhà nước và chịu trách nhiệm hành chính. Trừ lĩnh vực doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích, Nhà nước sẽ thành lập doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh thông qua công ty đầu tư tài chính của Nhà nước. Nhà nước đã từng bước sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật nhằm thẩm định, kiểm tra chặt chẽ việc thành lập doanh nghiệp nhà nước theo Luật Doanh nghiệp. Hằng năm, công bố ngành và lĩnh vực có thể thành lập mới doanh nghiệp nhà nước.

Hoàn thiện cơ chế phân loại theo tiêu chí đánh giá tầm quan trọng của ngành nghề, lĩnh vực hoạt động, sắp xếp chức lại quy mô, xác định tỷ lệ và tính chất cổ phần Nhà nước, cho phép độc quyền hay khuyến khích cạnh tranh. Yêu cầu đại diện chủ sở hữu phải cụ thể hóa cơ chế đối với từng doanh nghiệp và chịu trách nhiệm trước Chính phủ nếu thực hiện không nghiêm túc.

Các doanh nghiệp kinh doanh hiện nay cần được phân thành bốn nhóm để tiếp tục rà soát, điều chỉnh việc phân loại, kết hợp với các biện pháp đổi mới, sắp xếp:

Nhóm thứ nhất: các doanh nghiệp nhà nước cần giữ hình thức 100% vốn. Đây là nhóm doanh nghiệp có vai trò đặc biệt quan trọng, dễ bảo đảm tính chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước ở những lĩnh vực cần thiết;

Nhóm thứ hai: gồm các doanh nghiệp nhà nước mà Nhà nước cần nắm cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt trong các lĩnh vực quan trọng;

Nhóm thứ ba: gồm các doanh nghiệp không quan trọng đang hoạt động có lãi hoặc có triển vọng có lãi sẽ tiến hành cổ phần hóa;

Nhóm thứ tư: gồm các doanh nghiệp nhà nước không quan trọng, có vốn dưới 100 tỷ đồng, hoặc doanh nghiệp nhà nước hoạt động thua lỗ trên hai năm liên tục mà Nhà nước cũng không cần nắm giữ, nếu không cổ phần hóa được thì tiến hành một trong các hình thức giao, khoán, bán, cho thuê.

Đối với các doanh nghiệp yếu kém hoặc không cần thiết tồn tại độc lập, nếu không thực hiện các hình thức chuyển đổi sở hữu nói trên thì sáp nhập vào doanh nghiệp khác hoặc giải thể, phá sản. Cần từng bước thu hẹp doanh nghiệp nhà nước giải thể, phá sản. Cần từng bước thu hẹp doanh nghiệp nhà nước thuộc nhóm 1 và nhóm 2, mở rộng nhóm 3 và nhóm 4. Trừ lĩnh vực an ninh, quốc phòng, đối với ngành mà các nhà đầu tư ngoài Nhà nước có khả năng đầu tư kinh doanh thì Nhà nước rút dần vốn để tập trung đầu tư vào những dự án quan trọng cho quốc gia.

Thu hẹp tối đa diện Nhà nước độc quyền kinh doanh, xóa bỏ đặc quyền kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước. Xây dựng cơ chế giám sát và chính sách điều tiết đối với những doanh nghiệp chưa xóa bỏ được vị thế độc quyền kinh doanh.

Hoàn thiện hệ thống cơ quan có trách nhiệm tổ chức sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước theo hướng nâng cao năng lực và thẩm quyền. Trong phạm vi các đề án được duyệt, các cơ quan này có trách nhiệm chỉ đạo phối hợp thực hiện phương án của Chính phủ, bộ và địa phương, đồng thời cho phép cơ quan này áp dụng các biện pháp thưởng, phạt đối với việc thực thi đề án.

Tiếp tục cụ thể hóa quan điểm chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết số 68/NQ-CP: Khẩn trương triển khai thực hiện cơ cấu lại doanh nghiệp theo Quyết định số 360/QĐ-TTg ngày 17/3/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước giai đoạn 2021-2025” và Quyết định số 22/2021/QĐ-TTg ngày 02/7/2021 của Thủ tướng Chính phủ về “Tiêu chí phân loại doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn nhà nước thực hiện chuyển đổi sở hữu, sắp xếp lại, thoái vốn giai đoạn 2021-2025”. Định kỳ rà soát việc chấp hành các quy định về đăng ký lưu ký, đăng ký giao dịch, niêm yết trên thị trường chứng khoán đối với các doanh nghiệp đa cổ phần hóa; kịp thời đề xuất giải pháp phù hợp, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm.

Tuân thủ quy định tại Nghị định số 23/2022/NĐ-CP ngày 05/4/2022 của Chính phủ về thành lập, sắp xếp lại, chuyển đổi sở hữu, chuyển giao quyền đại diện chủ sở hữu tại doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ. Đây là văn bản có hiệu lực hiện hành, hướng dẫn chi tiết việc thành lập, sắp xếp lại, chuyển đổi sở hữu, chuyển giao quyền đại diện chủ sở hữu tại doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ. Đối tượng áp dụng của nghị định được xác định rõ là:

Cơ quan đại diện chủ sở hữu. Đối với Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước thì thực hiện theo quy định riêng của Chính phủ.

Doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ theo quy định tại khoản 2 Điều 88 Luật Doanh nghiệp năm 2020, sửa đổi, bổ sung năm 2022.

Các tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc thành lập, sắp xếp lại, chuyển đổi sở hữu, chuyển giao quyền đại diện chủ sở hữu tại doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ.

Các hình thức sắp xếp lại gồm: hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, giải thể doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ.

Doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ được hợp nhất, sáp nhập, chia, tách khi đáp ứng đủ các điều kiện sau: (i) Việc sáp nhập, hợp nhất, chia, tách doanh nghiệp phải phù hợp với văn bản về sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Trường hợp chưa được quy định tại các văn bản này thì cơ quan đại diện chủ sở hữu phải trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định; (ii) Các doanh nghiệp mới hình thành sau khi chia, tách phải bảo đảm đủ điều kiện như đối với thành lập doanh nghiệp quy định tại Điều 4 Nghị định này; (iii) Việc hợp nhất, sáp nhập doanh nghiệp phải bảo đảm tuân thủ quy định của Luật Cạnh tranh năm 2018 về hợp nhất, sáp nhập doanh nghiệp.

Nghiên cứu thêm hình thức đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư thực hiện quản lý, vận hành doanh nghiệp nhà nước hoặc một phần tài sản, dự án trong một khoảng thời gian nhất định. Hết thời hạn trên (khoảng từ 5-10 năm), Nhà nước thu hồi lại tài sản để sử dụng vào mục đích phát triển, an sinh xã hội. Tăng cường liên kết với các doanh nghiệp trong nước thuộc các thành phần kinh tế khác, tạo ra các chuỗi liên kết, cung ứng trong nước, giảm lệ thuộc vào nước ngoài[1].

2. Tiếp tục củng cố, sắp xếp và hoàn thiện tổng công ty nhà nước

Khoản 1 Điều 194 Luật Doanh nghiệp năm 2020, sửa đổi, bổ sung năm 2022 nêu rõ: “Tập đoàn kinh tế, tổng công ty thuộc các thành phần kinh tế là nhóm công ty có mối quan hệ với nhau thông qua sở hữu cổ phần, phần vốn góp hoặc liên kết khác. Tập đoàn kinh tế, tổng công ty không phải là một loại hình doanh nghiệp, không có tư cách pháp nhân, không phải đăng ký thành lập theo quy định của Luật này”.

Việc các doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp nhà nước có nhu cầu liên kết tự nguyện để thành lập một hình thức tổ chức cao hơn thuộc quyền đương nhiên của doanh nghiệp, hoặc quyền thành lập “công ty con” để mình trở thành “công ty mẹ” cũng là quyền của bất cứ loại hình doanh nghiệp nào.

Việc hoàn thiện pháp luật phải tập trung vào việc cụ thể hóa các quyền và nghĩa vụ chung của doanh nghiệp tương ứng với các loại hình doanh nghiệp, không cần phân biệt doanh nghiệp nhà nước thành hai loại hình là công ty và tổng công ty. Điều này sẽ giúp cho pháp luật về doanh nghiệp phù hợp với thông lệ quốc tế và bảo đảm quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp nói chung.

Việc xây dựng, củng cố các tổng công ty giữ vai trò rất quan trọng trong hoàn thiện doanh nghiệp nhà nước vì hầu hết các doanh nghiệp nhà nước có quy mô lớn đều nằm trong cơ cấu tổng công ty đã thành lập. Căn cứ vào chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chiến lược phát triển ngành kinh tế - kỹ thuật, chiến lược hội nhập và tiêu chí tập đoàn kinh tế, tổng công ty có nền tảng vững chắc để xác định ngành, lĩnh vực cần duy trì “độc quyền nhà nước”; sắp xếp lại tổng công ty theo ngành, theo vùng lãnh thổ. Các khu vực không cần thiết duy trì hoặc không đủ điều kiện phát triển tổng công ty thì thu gọn: thực hiện chuyển đổi sở hữu, còn lại sáp nhập các doanh nghiệp vào các tổng công ty cũng lĩnh vực hoạt động. Giải thể một số tổng công ty hoạt động không hiệu quả, Sáp nhập, hợp nhất một số tổng công ty quy mô nhỏ theo ngành nghề và lãnh thổ. Ban hành quy định về chống độc quyền và khuyến khích cạnh tranh trong nền kinh tế.

Ngoài ra, Nhà nước cần xây dựng hành lang pháp lý nhằm điều chỉnh các tổng công ty để có cơ cấu mềm dẻo trên cơ sở các doanh nghiệp nhà nước nòng cốt, trong đó, các doanh nghiệp thành viên khác phải thực sự tham gia trên tinh thần tự nguyên vì lợi ích chung và lợi ích của chính mình. Nhà nước cũng cần có quy hoạch cụ thể để tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp gia nhập tổng công ty. Các tổng công ty phải có tiềm lực tài chính mạnh, sử dụng phương thức tham gia vốn vào các doanh nghiệp thành viên thông qua công ty đầu tư tài chính của mình, dần dần trở thành các tập đoàn kinh doanh mạnh tham gia cạnh tranh quốc tế.

Bên cạnh đó, trên cơ sở nghiên cứu Nhà nước từng bước hoàn thiện mô hình các tổng công ty đang hoạt động theo hướng phân định rõ ràng quyền sở hữu và quyền quản lý trong các tổng công ty, các doanh nghiệp thành viên.

Trong hoạt động của mình, doanh nghiệp nhà nước cần thực hiện việc nâng cao vai trò chủ sở hữu của Hội đồng quản trị. Đối với cơ cấu Hội đồng quản trị nên bao gồm đại diện Bộ Tài chính, bộ chuyên ngành, đại diện người lao động, ngoài ra có thể mời một số chuyên gia giỏi về quản trị tham gia. Giao trách nhiệm cho Hội đồng quản trị đối với vấn đề bảo toàn và phát vốn, chiến lược kinh doanh, giám sát hoạt động của tổng công ty, tuyển chọn và bãi miễn Ban Giám đốc. Mỗi thành viên của Hội đồng quản trị phải phát huy hết năng lực của mình, từ bỏ lối làm việc hành chính. Nhanh chóng áp dụng việc thuê giám đốc điều hành theo cơ chế thị trường gắn với hiệu quả kinh doanh. Đa dạng hóa sản xuất kinh doanh, chuyển từ tổng công ty đơn ngành sang tổng công ty đa ngành, đa sản phẩm, vừa đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường, vừa hạn chế rủi ro trong đầu tư, nhưng không được đầu tư ngoài ngành được duyệt. Hạn chế tối đa và dần dần triệt tiêu cạnh tranh nội bộ trong các tổng công ty, hướng sức mạnh và cạnh tranh với các đối thủ ngoài thị trường. Thực hiện chuyên môn hóa các doanh nghiệp thành viên trên cơ sở phát triển thế mạnh của từng doanh nghiệp, vừa chuyên môn hóa sản xuất, vừa tránh chồng chéo trùng lắp về sản phẩm, thị trường. Bên cạnh đó cũng cần xây dựng liên kết giữa các doanh nghiệp trong tổng công ty với các doanh nghiệp ngoài tổng công ty, tạo mạng lưới vệ tinh các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngoài tổng công ty.

Chỉ thành lập tổng công ty trên cơ sở nhận thức đúng, tự nguyện, xuất phát từ thực tế hoạt động, tập trung vào nhu cầu liên kết của các doanh nghiệp. Có thể liên kết nhiều mô hình: liên kết vốn, liên kết trong sản xuất, liên kết trong nghiên cứu ứng dụng... với mức độ khác nhau. Tránh gán ghép theo mô hình hành chính, ý chí chủ quan dẫn đến nảy sinh hiện tượng mỗi thành viên một tính toán riêng. Tạo lập cơ chế chính sách để hoàn thiện và phát triển mô hình tổng công ty với tư cách là doanh nghiệp nhà nước đặc biệt, là lực lượng chủ lực trong nền kinh tế.

Tăng cường chức năng của Hội đồng quản trị tổng công ty theo hướng Hội đồng quản trị thực sự là đại diện chủ sở hữu nhà nước tại tổng công ty. Chủ tịch Hội đồng quản trị là người nhận vốn và chịu trách nhiệm sử dụng có hiệu quả, bảo toàn và phát triển nguồn vốn đó; Hội đồng quản trị được quyết định toàn bộ vấn đề nhân sự của các đơn vị thành viên; Tổng Giám đốc do Hội đồng quản trị tuyển chọn và ký hợp đồng với sự chấp thuận của cơ quan hành chính có thẩm quyền; phân định rõ quyền hạn và trách nhiệm của Hội đồng quản trị và Tổng Giám đốc trong quản lý và điều hành tổng công ty. Tăng cường trách nhiệm, quyền hạn và nghĩa vụ của tổng công ty trong lĩnh vực quản lý đầu tư xây dựng cơ bản, tài chính, cán bộ.

Hoàn chỉnh khái niệm về công ty mẹ - con gắn với tính chất đặc trưng cơ bản của chúng. Xác định rõ ràng đặc điểm và tính chất pháp lý của chủ thể công ty mẹ, chủ thể công ty con và hệ thống công ty mẹ - con; các tiêu chí quyền chi phối của công ty mẹ - con; quyền hạn của công ty mẹ trong việc thực hiện chức năng quản lý, chức năng tài chính, chức năng dịch vụ như quyết định chiến lược, điều phối quản lý các khoản vốn góp... Đồng thời, quy định chế tài đối với việc công ty mẹ dùng quyền chi phối gây thiệt hại cho công ty con.

Để thực hiện được các vấn đề trên, các tập đoàn, tổng công ty cần phải vận dụng linh hoạt, sáng tạo, phù hợp với điều kiện thực tế của mỗi doanh nghiệp nhưng không trái với định hướng của Trung ương. Vừa qua, trong giai đoạn Covid, các doanh nghiệp nhà nước đã thực hiện tốt việc triển khai thực hiện các giải pháp phòng, chống dịch bệnh Covid-19 nhằm bảo đảm an toàn sức khỏe, tính mạng và công ăn việc làm, thu nhập cho cán bộ, viên chức, người lao động, duy trì được lực lượng sản xuất. Đồng thời, phấn đấu hoàn thành ở mức cao nhất kế hoạch sản xuất, kinh doanh và đầu tư phát triển; nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh; bảo toàn, phát triển vốn và các nguồn lực Nhà nước giao; đầu tư theo chiến lược, kế hoạch, phù hợp cơ chế kinh tế thị trường, bảo đảm hiệu quả, phát triển bền vững.

Một trong những yêu cầu tiên quyết trong giai đoạn hiện nay là khẩn trương xây dựng, hoàn thiện các chiến lược, kế hoạch, đề án quan trọng, điều lệ tổ chức hoạt động để trình cấp có thẩm quyền xem xét, phê duyệt, làm cơ sở cho việc triển khai thực hiện: (1) Chiến lược, kế hoạch sản xuất kinh doanh và đầu tư phát triển 05 năm 2021-2025; (2) Đề án cơ cấu lại tập đoàn, tổng công ty giai đoạn 2021-2025; (3) Sửa đổi, bổ sung Điều lệ tổ chức và hoạt động phù hợp với các quy định pháp luật mới được ban hành.

Làm tốt công tác chuẩn bị đầu tư và giải ngân vốn đầu tư kịp thời để đẩy nhanh tiến độ các dự án đầu tư kinh doanh quan trọng, có tính kết nối, lan toả, tạo động lực, thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội; đặc biệt là các dự án đầu tư vào kết cấu hạ tầng, các dự án lớn, có ý nghĩa quan trọng nhiều mặt cả về kinh tế, chính trị và an ninh - quốc phòng, an ninh năng lượng.

Thực hiện nghiêm túc, bảo đảm thời hạn các quy định về giám sát đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp, giám sát tài chính, đánh giá hiệu quả hoạt động và công khai tài chính, công bố thông tin của doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn nhà nước.

Khẩn trương đổi mới, hiện đại hóa quản trị doanh nghiệp theo cơ chế kinh tế thị trường và các nguyên tắc, chuẩn mực quốc tế. Kiện toàn hệ thống kiểm soát nội bộ để phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và xử lý vi phạm pháp luật. Nâng cao tính minh bạch, công khai và trách nhiệm giải trình, đặc biệt là về tài chính, đầu tư, mua sắm, sử dụng vốn nhà nước. Rà soát, phát hiện và kiên quyết xử lý dứt điểm các doanh nghiệp thua lỗ, dự án đầu tư không hiệu quả, hiệu quả thấp theo nguyên tắc thị trường. Tăng cường kiểm tra, giám sát, không để xảy ra thất thoát vốn, tài sản nhà nước trong quá trình hoạt động kinh doanh và quá trình sắp xếp, cổ phần hóa, thoái vốn và quản lý, sử dụng vốn nhà nước.

Chú trọng nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo, nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, kỹ thuật hiện đại, sử dụng tiết kiệm năng lượng, thân thiện với môi trường vào sản xuất, kinh doanh và quản lý; chuyển đổi mạnh sang kinh tế số phù hợp với điều kiện, yêu cầu; coi đây là yếu tố quyết định nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp trong giai đoạn tới.

Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước đẩy mạnh tiếp nhận quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại doanh nghiệp và bán vốn nhà nước theo chỉ đạo của cấp có thẩm quyền và tiến độ đã được phê duyệt[2].

3. Tiếp tục đẩy nhanh việc chuyển đổi quyền sở hữu và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước

Trước khi hoàn thiện cơ sở pháp lý cho việc chuyển đổi quyền sở hữu và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước cần thay đổi nhận thức, quan điểm về cổ phần hóa, thoái vốn đầu tư nhà nước tại doanh nghiệp. Mục tiêu của cổ phần hóa, thoái vốn không phải là rút vốn ra khỏi doanh nghiệp nhà nước, thu hẹp phạm vi, quy mô của doanh nghiệp nhà nước, mà phải là hình thức tái cơ cấu lại danh mục đầu tư. Không áp đặt mệnh lệnh hành chính đối với cổ phần hóa, thoái vốn; mà thay vào đó, thực hiện theo nguyên tắc và tín hiệu thị trường, bảo đảm công khai, minh bạch, hiệu quả.

Hiện nay, cơ chế, chính sách về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước đã được sửa đổi, bổ sung và ngày càng hoàn thiện, tạo cơ sở pháp lý đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa. Từ năm 2011 đến nay, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo các bộ, ngành nghiên cứu, xây dựng để ban hành hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành đầy đủ, đồng bộ hệ thống cơ chế chính sách, pháp luật về cổ phần hóa, kịp thời cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước theo đúng quy định Luật Doanh nghiệp, Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp, Luật Chứng khoán năm 2019, Luật Thực hành tiết kiệm chống lãng phí, Luật Đất đai... từ tiêu chí, danh mục phân loại doanh nghiệp nhà nước, trình tự cổ phẩn hóa, phương pháp định giá, cơ chế đấu giá bán ra thị trường, chế độ, chính sách đối với người lao động.

Nghị định số 126/2017/NĐ-CP ngày 16/11/2017 của Chính phủ về chuyển doanh nghiệp nhà nước và công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do doanh nghiệp nhà nước đầu tư 100% vốn điều lệ thành công ty cổ phần đã quy định các tổ chức tư vấn định giá chủ động áp dụng các phương pháp định giá tiên tiến phù hợp với cơ chế thị trường; tổ chức tư vấn xác định giá trị doanh nghiệp được lựa chọn các phương pháp thích hợp để xác định giá trị doanh nghiệp, bảo đảm mỗi doanh nghiệp cổ phần hóa phải được áp dụng tối thiểu hai phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp khác nhau và trình cơ quan đại diện chủ sở hữu xem xét, quyết định; đồng thời, hướng dẫn cụ thể việc áp dụng phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp theo phương pháp tài sản là giá trị tối thiểu để cơ quan đại diện chủ sở hữu quyết định. Khi xác định giá trị đối với một số doanh nghiệp đặc thù, cơ quan tư vấn báo cáo cơ quan đại diện chủ sở hữu nhằm quyết định xác định giá trị thương hiệu dựa vào các yếu tố lịch sử, bề dày truyền thống.

Bên cạnh đó, để tăng cường công tác kiểm tra, giám sát quá trình cổ phần hóa, trọng tâm là khâu xác định giá trị doanh nghiệp, xác định giá trị quyền sử dụng đất đầy đủ vào giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa, thúc đẩy việc nâng cao trách nhiệm và chất lượng của tư vấn độc lập, Nghị định đã bổ sung phạm vi, đối tượng phải thực hiện kiểm toán nhà nước trước khi cơ quan có thẩm quyền công bố giá trị doanh nghiệp (doanh nghiệp có giá trị từ 1.800 tỷ đồng trở lên).

Về xử lý đất đai và xác định giá trị quyền sử dụng đất khi cổ phần hóa, doanh nghiệp phải hoàn thiện đầy đủ hồ sơ pháp lý phương án sử dụng đất trước khi cổ phần hóa, việc này đã khắc phục bất cập khi doanh nghiệp chuyển sang công ty cổ phần mới có ý kiến của địa phương về phương án sử dụng đất. Ngày 31/12/2017, Chính phủ ban hành Nghị định số 167/2017/NĐ-CP quy định việc sắp xếp lại, xử lý tài sản công, trong đó hướng dẫn cụ thể về trình tự, thủ tục sắp xếp, xử lý nhà đất của các doanh nghiệp trong đó có doanh nghiệp cổ phần hóa.

Theo Công điện số 478/CĐ-TTg ngày 27/5/2022 của Thủ tướng Chính phủ về đẩy mạnh công tác sắp xếp, cổ phần hóa, thoái vốn và cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các bộ, ngành Trung ương, chính quyền địa phương theo chức năng, nhiệm vụ được giao nghiêm túc thực hiện Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 12/5/2022 của Chính phủ về tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động và huy động nguồn lực của doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là tập đoàn kinh tế, tổng công ty trong phát triển kinh tế - xã hội; Quyết định số 22/2021/QĐ-TTg ngày 02/7/2021 của Thủ tướng Chính phủ về tiêu chí phân loại doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn nhà nước thực hiện chuyển đổi sở hữu, sắp xếp lại, thoái vốn giai đoạn 2021-2025; Quyết định số 360/QĐ-TTg ngày 17/3/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án "Cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước giai đoạn 2021-2025". Khẩn trương rà soát, hoàn thiện Kế hoạch sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước giai đoạn 2021-2025, theo đúng chủ trương của Đảng, nghị quyết của Quốc hội, quy định của pháp luật và các chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, trình Thủ tướng Chính phủ trước ngày 31/5/2022.

Các cơ quan đại diện chủ sở hữu phải nghiêm túc thực hiện Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 12/5/2022 của Chính phủ; Quyết định số 22/2021/QĐ-TTg và Quyết định số 360/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ; Triển khai công tác cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp thuộc phạm vi quản lý theo đúng quy định, bảo đảm công khai, minh bạch, hiệu quả và thu hồi cao nhất phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp; Chỉ đạo các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, doanh nghiệp nhà nước thuộc phạm vi quản lý rà soát, đánh giá kết quả thực hiện cơ cấu lại doanh nghiệp; xây dựng, phê duyệt theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền phê duyệt Đề án cơ cấu lại doanh nghiệp giai đoạn 2021-2025 để tổ chức thực hiện ngay.

Thực tế cho thấy, những hạn chế của doanh nghiệp nhà nước có nguyên nhân sâu xa do thể chế về chế độ sở hữu còn bất cập, do chế độ phân phối chưa phù hợp với chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Vì vậy, không thể khắc phục hoàn toàn những yếu kém này nếu không có chế độ sở hữu chặt chẽ hoặc đa dạng hình thức sở hữu trong doanh nghiệp.

Việc phân phối lợi nhuận của doanh nghiệp nhà nước một cách khoa học và định lượng rõ ràng rất khó thực hiện. Kết quả làm ra được phân phối trước hết cho những người làm việc tại doanh nghiệp nhà nước dưới hình thức tiền lương. Chủ sở hữu - người đầu tư vốn là Nhà nước - lợi nhuận với tư cách chủ sở hữu và khấu hao tư liệu sản xuất.

Ngoài phần thu thuế với tư cách người quản lý xã hội mà doanh nghiệp nhà nước có nghĩa vụ nộp như doanh nghiệp dân doanh, Nhà nước không được hưởng lợi tức đầy đủ của chủ sở hữu. Với mức lương và mức thuế tương đương như doanh nghiệp tư nhân nên doanh nghiệp nhà nước không có động lực phải làm ra lợi nhuận, thậm chí có khả năng thất thoát, mất hết vốn của Nhà nước. Mặc dù thua lỗ, doanh nghiệp nhà nước vẫn tồn tại do được Nhà nước bù lỗ và tiếp tục đầu tư. Doanh nghiệp nhà nước hiếm khi phá sản hoặc dừng hoạt động do phải xác định trách nhiệm làm doanh nghiệp thua lỗ.

Những hạn chế của doanh nghiệp nhà nước khó khắc phục bằng khuôn khổ luật pháp. Nhưng nếu duy trì khu vực kinh tế nhà nước với nhiều doanh nghiệp thua lỗ sẽ khiến nền kinh tế suy sụp, vấn đề là thời gian nhanh hay chậm, do cạn kiệt ngân sách nhà nước hay do phát hành tiền không giới hạn. Đó chính là lý do phải đẩy mạnh chuyển đổi quyền sở hữu các doanh nghiệp nhà nước.

Để quán triệt thực hiện tốt các quy định về chuyển đổi quyền sở hữu và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, bên cạnh việc thực hiện công khai, minh bạch và đầy đủ nguyên tắc phù hợp với cơ chế thị trường trong quá trình chuyển đổi sở hữu, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:

Xác định giá trị doanh nghiệp nhà nước, kể cả giá trị quyền sử dụng đất theo cơ chế thị trường. Quy định tiêu chí, hướng dẫn cụ thể phương pháp xác định giá trị tài sản vô hình và quyền sử dụng đất.

Xóa bỏ tình trạng cổ phần khép kín, tăng lượng cổ phần bán ra ngoài doanh nghiệp, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư chiến lược (nhất là nhà đầu tư nước ngoài) tham gia với tỷ lệ sở hữu cao hơn, xác định rõ hơn tiêu chí của nhà đầu tư chiến lược, nhằm thực sự làm thay đổi cách quản lý, đồng thời gia tăng tiềm lực tài chính, công nghệ, thị trường cho doanh nghiệp.

Áp dụng rộng rãi và mở rộng việc đấu giá cổ phần, bảo đảm hiệu quả của quá trình cổ phần hóa, đồng thời xác định giá ưu đãi cho người lao động và các nhà đầu tư chiến lược trên cơ sở giá đấu giá. Mở rộng các hình thức bán cổ phần thông qua đấu giá, bảo lãnh phát hành, đại lý phát hành. Phát triển các tổ chức tài chính trung gian như công ty chứng khoán, quỹ đầu tư chứng khoán.

Bãi bỏ các ưu đãi đối với doanh nghiệp thuộc diện chuyển đổi sở hữu, loại bỏ sự ưu đãi, hỗ trợ cho doanh nghiệp sau chuyển đổi. Có quy định pháp lý rõ ràng, bảo đảm sự công bằng cho các doanh nghiệp, các cổ đông và nhà đầu tư. Tiếp tục cải tiến quy trình chuyển đổi sở hữu gắn với cải cách hành chính, đặc biệt là quy trình kiểm kê tài sản, xác nhận nợ, xử lý tài chính và định giá doanh nghiệp.

Không quy định hạn chế mức mua cổ phần lần đầu và mức mua cổ phần ưu đãi của cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp không vượt quá mức bình quân của các cổ đông trong và ngoài doanh nghiệp, nhằm khuyến khích việc huy động vốn và phát huy vai trò tích cực của Giám đốc, lôi cuốn mọi người quan tâm, hưởng ứng chủ trương này.

Nâng tỷ lệ giá trị cổ phần được mua với giá ưu đãi ở những doanh nghiệp nhà nước có vốn nhà nước nhỏ, nhằm thu hẹp chênh lệch phần được mua ưu đãi giữa các doanh nghiệp có nhiều vốn nhà nước và doanh nghiệp có ít vốn nhà nước.

Chuyển phương pháp định giá doanh nghiệp theo kiểu “hội đồng”, “hành chính”, chứa đựng nhiều yếu tố chủ quan sang hình thức đấu giá thịnh hành trong nền kinh tế thị trường. Thiết lập hệ thống kiểm soát chất lượng các tổ chức định giá, đánh giá, kiểm toán doanh nghiệp. Cho phép doanh nghiệp hạch toán chi phí tư vấn, định giá, kiểm toán vào kết quả hoạt động.

4. Tiếp tục hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp

Ủy ban thực hiện quyền, trách nhiệm của cơ quan đại diện chủ sở hữu đối với doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp; tuân thủ các quy định về chế chính đối với các doanh nghiệp do Ủy ban làm đại diện chủ sở hữu.

Trong thời gian tới, cần tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện mô hình hoạt động, chức năng, nhiệm vụ của Ủy ban nhằm đáp ứng tốt hơn các yêu cầu, nhiệm vụ trong thời gian tới vừa nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, vừa bảo đảm vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước; sự phối hợp giữa Ủy ban và các cơ quan chức năng trong tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong hoàn thiện, xây dựng khung khổ pháp lý cho hoạt đông của Ủy ban; các giải pháp để tiếp tục thúc đẩy sắp xếp, cổ phần hóa, thoái vốn và tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước[3]...

Chính phủ cần tiếp tục chỉ đạo Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp và các bộ, ngành có liên quan khẩn trương hoàn thiện Chiến lược tổng thể đầu tư phát triển doanh nghiệp thuộc phạm vi quản lý của Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp, làm cơ sở để các doanh nghiệp nhà nước trực thuộc triển khai theo quan điểm chỉ đạo tại Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 12/5/2022. Khẩn trương tổng kết, đánh giá và đề xuất mô hình hoạt động hiệu quả của Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp.

Tiếp tục nghiên cứu, đề xuất với cấp có thẩm quyền việc hoàn thiện, phát triển mô hình tổ chức và cơ chế hoạt động của Ủy ban để thực hiện tốt hơn chức năng cơ quan chuyên trách, chuyên nghiệp thực hiện thống nhất chức năng đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Kiện toàn đủ cán bộ theo chỉ tiêu biên chế được giao, bảo đảm năng lực công tác đáp ứng được yêu cầu công việc.

Nghiên cứu đề nghị Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành các quy định cụ thể về: cơ chế, nội dung và trách nhiệm phối hợp giữa các bộ, ngành với Ủy ban trong việc quản lý vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp; nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Ủy ban và các bộ, ngành để nâng cao hơn nữa vai trò của Ủy ban trong việc thực hiện chức năng phản biện, đóng góp ý kiến với các bộ, ngành trong quá trình hoạch định cơ chế, chính sách pháp luật và xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển các ngành kinh tế - kỹ thuật trung và dài hạn có liên quan đến hoạt động của các tập đoàn, tổng công ty do Ủy ban làm đại diện chủ sở hữu nhà nước.

Thực hiện đầy đủ, đúng quy định của pháp luật, bảo đảm thời hạn các công việc thuộc quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của cơ quan đại diện chủ sở hữu nhà nước đối với 19 tập đoàn, tổng công ty.

Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của cơ quan đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước đối với các tập đoàn, tổng công ty, đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính và đầu tư. Áp dụng các cơ chế và công cụ quản lý hiện đại vào công tác của Ủy ban trong việc giảm sát, đánh giá hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh, đầu tư và tình hình tài chính của các doanh nghiệp nhằm đưa ra những quyết định quản lý và cảnh báo rủi ro sát thực và kịp thời, phù hợp.

Chỉ đạo các tập đoàn, tổng công ty khẩn trương xây dựng các chiến lược, kế hoạch, đề án quan trọng, điều lệ tổ chức hoạt động để trình cấp có thẩm quyền xem xét, phê duyệt, làm cơ sở cho việc triển khai thực hiện: (1) Chiến lược, Kế hoạch sản xuất kinh doanh và đầu tư phát triển 5 năm 2021-2025; (2) Đề án cơ cấu lại tập đoàn, tổng công ty giai đoạn 2021-2025; (3) Sửa đổi, bổ sung Điều lệ tổ chức và hoạt động phù hợp với các quy định pháp luật mới được ban hành.

Kiện toàn đủ số lượng kiểm soát viên nhà nước và bổ nhiệm Trưởng Ban kiểm soát tại các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thuộc Ủy ban theo quy định; tiếp tục kiện toàn đội ngũ cán bộ quản lý, người đại diện phần vốn nhà nước tại các tập đoàn, tổng công ty; đặc biệt là các tập đoàn, tổng công ty còn khuyết các chức danh cán bộ quản lý hoặc cán bộ quản lý bố trí chưa phù hợp, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ.

Thực hiện tốt nhiệm vụ cơ quan thường trực của Ban Chỉ đạo xử lý các dự án, doanh nghiệp thua lỗ, kém hiệu quả ngành công thương. Tiếp tục chỉ đạo, phối hợp với các tập đoàn, tổng công ty triển khai ý kiến của Bộ Chính trị; đẩy mạnh giải quyết dứt điểm các khó khăn vướng mắc còn tồn đọng.

Doanh nghiệp nhà nước là một lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế nhà nước, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Doanh nghiệp nhà nước tập trung vào những lĩnh vực then chốt, thiết yếu; những địa bàn quan trọng và quốc phòng, an ninh; những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tư hoặc khó đầu tư. Cùng với cơ chế, chính sách của Nhà nước, doanh nghiệp nhà nước là công cụ quan trọng để bảo đảm thực hiện có hiệu quả các chính sách ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, đối phó với những biến động thị trường; tạo nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước; đóng góp quan trọng trong xây dựng và phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và chuyển dịch cơ cấu kinh tế; thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh và chính sách an sinh xã hội.

Tuy nhiên, bên cạnh các kết quả đạt được, khu vực doanh nghiệp nhà nước vẫn còn một số tồn tại, hạn chế trong quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh cũng như trong huy động nguồn lực. Một trong những nguyên nhân của tồn tại, hạn chế đó là sự thiếu hoàn thiện của quan hệ pháp lý giữa Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước. Do vậy, trong thời gian tới, việc hoàn thiện quan hệ pháp lý giữa Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước là một yêu cầu tất yếu, quan trọng, cần thực hiện một cách tổng thể, toàn diện, từ đổi mới khung hành lang pháp lý, cơ chế thực thi quyền sở hữu của Nhà nước với tư cách là nhà đầu tư vào doanh nghiệp, cho đến việc kiện toàn, nâng cao năng lực quản lý, sử dụng vốn nhà nước; sắp xếp chuyển đổi quyền sở hữu và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước.

 


[1] Theo Báo cáo số 1840/BKHĐT-PTDN ngày 23/3/2022 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư gửi Văn phòng Chính phủ phục vụ Hội nghị của Thủ tướng Chính phủ với doanh nghiệp nhà nước.

[2] Theo Báo cáo Tổng kết công tác của Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp và các tập đoàn, tổng công ty thuộc Ủy ban năm 2021 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2022 (Báo cáo tại Hội nghị tổng kết ngày 08/01/2022

[3] Xem: Hoàn thiện mô hình Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhằm đáp ứng tốt hơn các yêu cầu, nhiệm vụ trong thời gian tới, https://thitruongtaichinhtiente.vn/hoan-thien-mo-hinh-uy-ban-quan-ly- von-nha-nuoc-tai-doanh-nghiep-nham-dap-ung-tot-hon-cac-yeu-cau-nhiem-vu-trong-thoi-gian-toi-32823.html

Đăng ký nhận email

Đăng ký email để có thể có được những cập nhật mới nhất về tải liệu được đăng tải trên website

Tập san đã phát hành