Thứ sáu, 08 Tháng 11 2024 01:57

Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tìm hiểu và ứng dụng Luật Giám sát tại Trung Quốc

1. Đối tượng của giám sát 

 Theo quy định tại Luật Giám sát Trung Quốc ngoài cán bộ, công chức thực hiện quyền xét về logic lý luận, công dân Trung Quốc, thậm chí là người nước ngoài đều có thể trở thành đối tượng giám sát. Quy định này căn cứ vào Điều 15 Luật giám sát đã quy định rõ “tiến hành giám sát đối với các cán bộ, công chức và nhân viên liên quan sau đây”. Việc phân định rõ đối tượng áp dụng của điều luật cho thấy sự khác biệt giữa cán bộ, công chức và các nhóm nhân viên khác. Nếu điều luật này đặt cán bộ, công chức và nhân viên khác ngang hàng nhau, thì rõ ràng nhân viên khác không thuộc nhóm cán bộ, công chức. Cụ thể, những đối tượng như “nhân viên quản lý các doanh nghiệp nhà nước” hay “người quản lý trong các tổ chức tự quản quần chúng ở cơ sở” được quy định tại Điều 15 Luật Giám sát không được xem là cán bộ, công chức. Vấn đề này, nhấn mạnh sự cần thiết phải phân biệt rõ ràng giữa các nhóm đối tượng trong quy định pháp luật.  Quy định tại Điều 22 Luật Giám sát cho phép cơ quan giám sát áp dụng các biện pháp tạm giữ đối với các cá nhân bị nghi ngờ liên quan đến các vụ án phạm tội hối lộ hoặc các tội phạm cùng chức vụ, dựa trên nội dung quy định tại điều khoản trước đó. Tuy nhiên, do tính chất và tình tiết cụ thể của từng vụ án khác nhau, các cá nhân liên quan đến các trường hợp phạm tội cụ thể cũng sẽ khác nhau. Vì vậy, không chỉ những cá nhân thuộc phạm vi quy định tại Điều 15 Luật Giám sát, mà cả những cá nhân nằm ngoài phạm vi này cũng có thể trở thành đối tượng giám sát. Điều này cho thấy phạm vi giám sát có thể được mở rộng tùy theo tình huống thực tế của từng vụ việc. Ngoài ra, khoản 2 Điều 34 Luật giám sát quy định: “Người bị điều tra vừa có nghi vấn liên quan tới hành vi vi phạm pháp luật về chức vụ nghiêm trọng hoặc tội phạm chức vụ, vừa bị nghi ngờ liên quan tới các hành vi vi phạm hay phạm tội khác, thường sẽ do cơ quan giám sát phụ trách điều tra chính, các cơ quan khác hỗ trợ”. Để đảm bảo tính chặt chẽ và minh bạch trong hoạt động giám sát, cần đặc biệt lưu ý đến việc xác định rõ ràng phạm vi và quyền hạn của đối tượng giám sát. Nếu không, việc lập pháp thiếu chặt chẽ hoặc cách giải thích pháp luật mở rộng ngoại diên có thể dẫn đến tình trạng quyền lực giám sát không có giới hạn, gây ra những hệ lụy tiêu cực. Chính vì vậy, quy định này đã được xây dựng nhằm mở rộng phạm vi đối tượng giám sát một cách hợp lý, đồng thời đảm bảo không vượt quá giới hạn cần thiết.

Để có được câu trả lời khoa học và hợp lý về việc các cá nhân liên quan thuộc các tổ chức như đoàn thanh niên, công đoàn, hội liên hiệp phụ nữ, hội luật sư,... có thuộc đối tượng giám sát hay không, cần dựa trên kỹ thuật giải thích luật. Tuy nhiên, Luật giám sát hiện nay không quy định trực tiếp vấn đề này. Vì vậy, việc nghiên cứu sâu hơn các quy định tại Điều 15 Luật giám sát là một vấn đề cần được giải quyết.

2. Một số vấn đề pháp luật có liên quan đến tổ chức đại diện cơ quan giám sát và nhân viên giám sát biệt phái tại Trung Quốc

Ủy ban Giám sát các cấp có quyền cử tổ chức đại diện hoặc nhân viên giám sát biệt phái tới các cơ quan, tổ chức thuộc phạm vi quản lý. Cụ thể, theo quy định tại Điều 12 Luật giám sát, các cơ quan này bao gồm cơ quan của Đảng, cơ quan nhà nước cùng cấp, các tổ chức quản lý công vụ theo ủy quyền hoặc ủy thác pháp luật, các đơn vị, khu hành chính và doanh nghiệp nhà nước. Điều 13 Luật giám sát của Trung Quốc quy định, nhân viên giám sát biệt phái hoặc làm việc ở tổ chức đại diện thực hiện công việc giám sát theo nội dung được ủy quyền và đề xuất kiến nghị giám sát đối với cán bộ, công chức thuộc quyền hạn quản lý theo quy định pháp luật, tiến hành điều tra, xử lý cán bộ, công chức theo quy định pháp luật. Những diễn đạt liên quan trong Luật giám sát đều mang tính nguyên tắc và thiếu tính ứng dụng thực tế. Điều này thể hiện qua việc chưa làm rõ tên gọi của các tổ chức đại diện được nêu trong điều luật, phương thức đại diện hoặc biệt phái cụ thể ra sao. Đồng thời, phương thức ủy quyền của tổ chức đại diện cũng chưa được xác định rõ ràng, liệu đó là ủy quyền nguyên tắc phổ biến hay chỉ là ủy quyền tạm thời đối với từng vụ việc cụ thể. Cần nói thêm rằng, quyền hạn quản lý của tổ chức đại diện, nhân viên biệt phái được nêu trong Điều 13 bao gồm toàn bộ 12 quyền điều tra và quyền xử lý của ủy ban giám sát cấp 1 hay chỉ là một phần quyền hạn trong đó. Đối với các biện pháp điều tra, xử lý chặt chẽ đối với tài sản (ví dụ như kiểm tra, niêm phong, thu giữ, phong tỏa tài sản), các biện pháp tạm giữ hạn chế quyền tự do cá nhân, tổ chức đại diện hoặc nhân viên biệt phái có phải đều không có các quyền hạn liên quan hay không. Tổ chức đại diện, nhân viên biệt phái làm thế nào để vừa thực hiện đầy đủ chức trách, hoàn thành nhiệm vụ theo quy định của Luật giám sát, vừa có thể điều chỉnh các biện pháp sao cho phù hợp với từng thời điểm và từng địa phương, tôn trọng nguyên tắc hoạt động của các bộ phận khác nhau, các lĩnh vực khác nhau, như: giám sát cán bộ tòa án, Viện kiểm sát, nhưng không cản trở tòa án, Viện kiểm sát sử dụng độc lập thẩm quyền của mình; giám sát các cán bộ liên quan trong các trường đại học, mà không cản trở việc quản lý nhà trường, tự do nghiên cứu học thuật của nhà trường; giám sát các cán bộ, công chức của Đại hội đại biểu nhân dân, mà không làm ảnh hưởng đến vai trò quan trọng của đại biểu Đại hội đại biểu nhân dân. 

3. Phạm vi giám sát

Vấn đề đặt ra đối với cơ quan giám sát của Ủy ban Giám sát của Trung Quốc là cơ quan giám sát có thể giám sát đại biểu Đại hội đại biểu nhân dân hay không.

Luật giám sát hiện hành không đưa ra các quy định cụ thể về vấn đề này. Ngay cả trong “Đề án nghiên cứu Giải thích Luật giám sát nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa” do Ủy ban Kiểm tra Kỷ luật Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và Phòng Pháp chế thuộc Ủy ban Giám sát Nhà nước biên soạn, nội dung cũng chỉ đề cập đến khả năng tiến hành giám sát đối với cán bộ, công chức thuộc cơ quan Đại hội đại biểu nhân dân và Ủy ban Thường vụ Đại hội. Điều này cho thấy, các quy định về giám sát vẫn còn thiếu tính cụ thể và cần được làm rõ hơn. Ở đây thành phần sẽ bao gồm: Một, cán bộ lãnh đạo Ủy ban Thường vụ Đại hội đại biểu nhân dân các cấp từ cấp huyện trở lên, chủ tịch, phó chủ tịch Đại hội đại biểu nhân dân các xã/thị trấn; Hai, nhân viên làm việc tại các đơn vị chuyên môn và đơn vị phục vụ thuộc Ủy ban Thường vụ Đại hội đại biểu nhân dân các cấp từ cấp huyện trở lên; Ba, nhân viên làm việc tại các đơn vị phục vụ thuộc ủy ban chuyên môn của Đại hội đại biểu nhân dân các cấp. Ở đây cũng không nhắc tới đại biểu Đại hội đại biểu nhân dân. Theo nguyên lý chung của chế độ tự quản trong cơ cấu đại nghị, cơ quan giám sát ngoài nước hoặc ngoài lãnh thổ thường không đưa nghị sĩ vào phạm vi giám sát, nhưng do tuyệt đại đa số đại biểu Đại hội đại biểu nhân dân 5 cấp của Trung Quốc đều là kiêm nhiệm nên nếu kiên quyết loại đại biểu Đại hội đại biểu nhân dân ra khỏi phạm vi giám sát thì sẽ khiến phạm vi giám sát xuất hiện một lỗ hổng lớn. Nếu đưa toàn bộ đại biểu Đại hội đại biểu nhân dân vào phạm vi giám sát, thì về mặt lý luận, bắt buộc phải giải thích đại biểu Đại hội đại biểu nhân dân có thuộc đối tượng cán bộ, công chức hay không; ngoài ra, còn cần cân nhắc việc giám sát đại biểu Đại hội đại biểu nhân dân có thể gây ảnh hưởng tiêu cực đến chế độ đại biểu Đại hội đại biểu biểu nhân dân, cũng như nếu giám sát đại biểu Đại hội đại biểu nhân dân và việc áp dụng các biện pháp tạm giữ đối với đại biểu Đại hội đại biểu nhân dân, thì có cần phải tuân thủ theo các yêu cầu bảo đảm tư cách đặc biệt của đại biểu Đại hội đại biểu nhân dân theo quy định trong Hiến pháp và Luật đại biểu hay không. Một số vấn đề nữa cần cân nhắc là khi giám sát việc chấp hành kỷ luật, pháp luật hoặc điều tra hành vi phạm tội chức vụ của đại biểu Đại hội đại biểu nhân dân, có cần xóa tư cách đại biểu Đại hội đại biểu nhân dân trước hay không. Những năm gần đây, trong thời gian diễn ra Đại hội đại biểu nhân dân các cấp, Ủy ban Kiểm tra kỷ luật đều cử đoàn đến thanh tra công tác tổ chức Đại hội, công tác này có vai trò nhất định trong việc nâng cao ý thức chính trị của đại biểu Đại hội đại biểu nhân dân, bảo đảm Đại hội được diễn ra thuận lợi, nhưng mặt khác, vấn đề này liệu có thể được giải quyết bởi đơn vị xử lý kỷ luật độc lập do Đại hội đại biểu nhân dân tự thành lập, kiện toàn và hoàn thiện chế độ tham gia Đại hội của đại biểu hay không? Bộ phận giám sát, kiểm tra kỷ luật can thiệp sâu vào các công việc của Đại hội đại biểu nhân dân có lẽ không hoàn toàn phù hợp với mục tiêu lập pháp là Luật giám sát không có quy định trực tiếp trong việc giám sát đại biểu Đại hội đại biểu nhân dân.

Một nội dung quan trọng của cải cách thể chế tư pháp ở Trung Quốc được thể hiện qua việc thành lập ủy ban xử lý kỷ luật thẩm phán và ủy ban xử lý kỷ luật kiểm sát viên. Việc này nhằm mục tiêu xây dựng chế độ trách nhiệm tư pháp phù hợp với các quy định tư pháp. Các tổ chức giám sát đại diện làm việc tại Tòa án và Viện kiểm sát đã được bố trí hiện nay làm thế nào để duy trì sự phối hợp nhịp nhàng với công tác cải cách tư pháp, tổ chức giám sát đại diện làm thế nào để tương thích với bộ phận xử lý kỷ luật của Tòa án và Viện kiểm sát, hoặc làm thế nào để tổ chức giám sát đại diện có thể gắn kết hiệu quả với Tòa án và Viện kiểm sát, cũng là một vấn đề quan trọng đáng để nghiên cứu.

4. Nhiệm kỳ của chủ nhiệm Ủy ban Giám sát nhà nước Trung Quốc

Luật Giám sát có sự khác biệt trong quy định về nhiệm kỳ của các cấp Ủy ban Giám sát. Cụ thể, Điều 8 quy định rõ ràng về nhiệm kỳ của Chủ nhiệm Ủy ban Giám sát Nhà nước, theo đó, nhiệm kỳ của Chủ nhiệm trùng với nhiệm kỳ của Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc và không được liên tục đảm nhiệm quá hai nhiệm kỳ. Tuy nhiên, Điều 9 chỉ quy định rằng nhiệm kỳ của Ủy ban Giám sát các cấp địa phương tương ứng với nhiệm kỳ của Đại hội đại biểu nhân dân cùng cấp, mà không đề cập đến giới hạn về số nhiệm kỳ liên tiếp. Vậy ý đồ lập pháp ở đây là gì? Câu hỏi này cần được cơ quan có uy tín giải thích rõ ràng. Trong thực tiễn còn xuất hiện trường hợp chủ nhiệm Ủy ban Giám sát chưa làm hết nhiệm kỳ (tức được điều chuyển sang đảm nhiệm cương vị khác) bởi nhiều nguyên nhân khác nhau, vì thế thủ tục bãi miễn chức vụ của Ủy ban Giám sát nhiệm kỳ cũ và thủ tục nhậm chức của chủ nhiệm Ủy ban Giám sát mới cũng cần được quy định rõ ràng.

Bên cạnh đó, Luật Giám sát quy định phương thức nhắc nhở và giám sát của Đại hội đại biểu nhân dân các cấp đối với Ủy ban Giám sát và cán bộ giám sát thông qua nhiều hình thức cụ thể. Một trong những phương thức đó là việc Ủy ban Thường vụ Đại hội đại biểu nhân dân các cấp lắng nghe và xem xét báo cáo công tác chuyên môn. Ngoài ra, Ủy ban Thường vụ còn tổ chức kiểm tra công tác thực thi pháp luật của Ủy ban Giám sát cùng cấp. Những quy định này được nêu rõ tại Điều 53 của Luật Giám sát; Đại hội đại biểu nhân dân các cấp từ cấp huyện trở lên và Ủy ban Thường vụ Đại hội khi tổ chức họp, đại biểu Đại hội đại biểu nhân dân hoặc thành viên Ủy ban Thường vụ Đại hội có thể căn cứ theo quy định của pháp luật để đề xuất thắc mắc hoặc chất vấn về các vấn đề có liên quan tới công tác giám sát". Biện pháp mà Đại hội đại biểu nhân dân nhắc nhớ, giám sát Ủy ban Giám sát được đưa ra trong điều này liệu có bao gồm hoặc loại trừ các biện pháp nhắc nhở, giám sát khác được quy định trong Luật giám sát Ủy ban Thường vụ Đại hội đại biểu nhân dân các cấp nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (như thẩm tra các loại hồ sơ, văn bản quy phạm, thanh tra các vấn đề cụ thể, cách chức) hay không, cũng như mối quan hệ và sự gắn kết giữa các cấp cụ thể giữa Luật giám sát đôn đốc với Luật giám sát khi được áp dụng, tất cả đều cần có những nghiên cứu cụ thể.

Hơn nữa, Luật Giám sát quy định rõ trách nhiệm bồi thường của nhà nước trong trường hợp cơ quan giám sát hoặc cá nhân công tác tại cơ quan này thực thi thẩm quyền mà xâm phạm đến lợi ích hợp pháp của công dân, pháp nhân và các tổ chức khác. Cụ thể, theo Điều 67, nếu hành vi của cơ quan hoặc cá nhân đó gây ra tổn thất, nhà nước sẽ chịu trách nhiệm bồi thường cho các đối tượng bị ảnh hưởng theo quy định của pháp luật. Việc nhà nước bồi thường hiện nay ở Trung Quốc bao gồm hai hình thức là bồi thường hành chính và bồi thường tư pháp hình sự, trong khi đó cơ quan giám sát được xác định là "không phải cơ quan hành chính, cũng không phải cơ quan tư pháp". Vậy hai chế độ nhà nước bồi thường trên không tương thích với bồi thường giám sát, mâu thuẫn này cần nhanh chóng giải quyết bằng cách giải thích pháp luật hoặc sửa đổi luật. Nói cách khác là xác định chế độ “bồi thường giám sát" riêng, hay là xử lý bằng cách lần lượt tham chiếu "bồi thường tư pháp hình sự" và "bồi thường hành chính"? Và, làm thế nào để xác định được phạm vi bồi thường phù hợp, thủ tục bồi thường của "bồi thường giám sát"? Ví dụ, cơ chế hợp nhất làm việc của Ủy ban Kiểm tra kỷ luật và Ủy ban Giám sát, đồng thời thực thi các quyền như điều tra tội phạm chức vụ, giám sát việc chấp hành pháp luật, chấp hành kỷ luật, vậy đối với những tổn hại trong quá trình chấp hành kỷ luật, thì cơ quan Ủy ban Kiểm tra kỷ luật của Đảng có nằm trong danh sách các cơ quan phải bồi thường hay không? Những văn đề này đều đáng để nghiên cứu.

Luật giám sát của Trung Quốc quy định khi cơ quan giám sát hoặc cá nhân công tác tại cơ quan này thực thi thẩm quyền mà xâm phạm đến lợi ích hợp pháp của công dân, pháp nhân và các tổ chức khác, hành vi đó có thể gây ra tổn thất cho các đối tượng liên quan. Trong những trường hợp như vậy, nhà nước sẽ chịu trách nhiệm bồi thường theo quy định của pháp luật. Điều này được quy định rõ tại Điều 67 của Luật Giám sát, nhằm đảm bảo quyền lợi hợp pháp của công dân, pháp nhân và các tổ chức khác. Về mặt pháp lý, điều này dường như không có bất kỳ vấn đề gì, nhưng trên thực tế, nó sẽ khiến cho cơ quan xét xử và cơ quan kiểm sát phải gánh chịu những áp lực không hề nhỏ trong quá trình xử lý.

Việc quản lý các vụ án của Viện kiểm sát và Tòa án thường dựa trên khu vực địa giới hành chính. Trong khi đó, cơ quan giám sát lại quản lý vụ việc chủ yếu theo nguyên tắc nhân sự, tương ứng với chức danh và cấp bậc. Sự khác biệt này có thể dẫn đến tình huống, về mặt logic, các vụ án do cơ quan giám sát cấp cao xử lý cuối cùng lại được giao cho Viện kiểm sát cấp cơ sở truy tố công khai và do Tòa án cơ sở tiến hành xét xử hình sự. Tình huống này cũng sẽ làm nảy sinh vấn đề gắn kết trong quy trình xử án, như Viện kiểm sát tiến hành điều tra lại, Tòa án yêu cầu đối chất người làm chứng tại tòa, thậm chí bắt đầu loại trừ các chứng cứ phi pháp, luật sư yêu cầu lật lại toàn bộ chứng cứ có tội - không có tội, tội nặng - tội nhẹ của các cá nhân có liên quan (người bị điều tra), tất cả đều cần có những quy định chế độ chi tiết.

Theo Điều 25 Luật Giám sát, pháp luật quy định rõ trách nhiệm xử lý tài sản, văn bản tài liệu và hồ sơ bị niêm phong hoặc tịch biên trong quá trình điều tra. Cụ thể, nếu sau khi điều tra xác minh rằng các tài sản, tài liệu này không liên quan đến vụ án, cơ quan có thẩm quyền phải gỡ bỏ niêm phong hoặc tịch biên trong vòng 3 ngày kể từ khi có kết quả điều tra và tiến hành hoàn trả tài sản cho các bên liên quan. Nhưng Luật giám sát lại không quy định rõ về thời hạn xử án của cơ quan giám sát, vậy làm thế nào để cơ quan giám sát có quy định thích hợp về thời hạn phong tỏa tài sản của doanh nghiệp, tổ chức xã hội, cá nhân công dân, phù hợp với nguyên tắc tỷ lệ, nguyên tắc thủ tục chính đáng, đều là những vấn đề cần có những quy định pháp luật chi tiết.

Trong cấu trúc Hiến pháp của Trung Quốc, các cơ quan nhà nước trung ương đều có quyền lập pháp theo nghĩa rộng. Chẳng hạn, Ủy ban Quân sự Nhà nước có thể xây dựng và ban hành quy chế quân sự, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân tối cao có thể ban hành các giải thích tư pháp. Từ đó, có thể đặt ra câu hỏi liệu cơ quan giám sát có quyền xây dựng văn bản quy phạm pháp luật về giám sát, đề xuất các dự thảo pháp luật và đệ trình thẩm tra tính hợp hiến hay không, Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc và Ủy ban Thường trực Đại hội có thể xây dựng luật, nên nếu không trao cho Ủy ban Giám sát quyền xây dựng văn bản quy phạm pháp luật về giám sát, thì vừa không phù hợp với địa vị pháp lý của Ủy ban Giám sát nhà nước, vừa khiến sự rút gọn trong xây dựng quy định, quy chế của Luật giám sát không thể giải quyết kịp thời những điều bất cập phát sinh trong những tình huống cụ thể, đồng thời còn khiến cho mục tiêu pháp lý hóa mọi hoạt động giám sát khó có thể được thực hiện. Ngoài ra, Điều 3 Luật giám sát quy định: "Ủy ban Giám sát các cấp... triển khai công tác xây dựng chính phủ liêm chính và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, duy trì sự tôn nghiêm của hiến pháp và pháp luật". Cách thức để cơ quan giám sát duy trì được sự tôn nghiêm của hiến pháp và pháp luật cụ thể là gì? Về mặt lý luận, ngoài việc thông qua các hoạt động giám sát, nhắc nhở các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và các cá nhân tuân thủ theo hiến pháp và pháp luật, bảo vệ uy tín của hiến pháp, liệu có cần dựa theo sự sắp xếp của Luật lập pháp, trao cho cơ quan giám sát quyền đề xuất các dự thảo luật và quyền đệ trình thẩm tra tính hợp hiến, thực ra đó chính là điều cần có của công tác trù hoạch chế độ.

Dự thảo sửa đổi Luật Tố tụng Hình sự Trung Quốc đang tập trung vào việc khôi phục quyền điều tra cho Viện kiểm sát đối với các hành vi phạm tội của cán bộ tư pháp. Cụ thể, những hành vi này bao gồm lợi dụng thẩm quyền để tiến hành giam giữ phi pháp, tra tấn bức cung, khám xét trái pháp luật, xâm phạm quyền lợi dân chủ của công dân và gây tổn hại đến sự công bằng, nghiêm minh trong hoạt động tư pháp. Trong hai loại tội phạm chức vụ khác nhau này, một loại do Ủy ban Giám sát điều tra, không phải điều chỉnh bởi Luật tố tụng hình sự, luật sư không được can thiệp; một loại do Viện kiểm sát điều tra, xem xét vì cần sửa đổi Luật tố tụng hình sự, luật sư có thể can thiệp theo quy định của pháp luật. Đây là một sự cạnh tranh chế độ vô cùng sâu sắc. Biểu hiện của hai cách tiếp cận chế độ khác nhau là tốt hay xấu, có lẽ sẽ liên quan tới việc tổng hợp và điều chỉnh phù hợp với các chế độ có liên quan trong tương lai. Đương nhiên, hai loại quyền lực tương tự nhau về thực chất lại có các danh nghĩa khác nhau, việc các loại quy phạm pháp lý trong đó phối hợp linh hoạt như thế nào, cũng rất đáng để nghiên cứu. Điều đáng chú ý hơn là, cán bộ giám sát các cấp nếu lợi dụng chức quyền để thực hiện các hành vi giữ người trái phép, tra tấn búc cung, khám xét trái phép, xâm phạm tới lợi ích công dân, tổn hại tới sự công bằng, nghiêm minh của pháp luật, thi có cần giao cho Viện kiểm sát “lập án” điều tra, xem xét theo nguyên tắc kiểm soát quyền lực và cân đối tương ứng hay không.

Luật Giám sát quy định rõ nghĩa vụ của cán bộ giám sát trong việc thu thập chứng cứ một cách khách quan và toàn diện. Tuy nhiên, luật chưa đặt ra yêu cầu bắt buộc đối với cơ quan giám sát về việc phải chuyển giao toàn bộ chứng cứ thu thập được cho cơ quan tư pháp. Nếu cơ quan giám sát chưa chuyển toàn bộ chứng cứ khi luật sư sử dụng quyền lợi biện hộ theo quy định của pháp luật thì có được trực tiếp xin cơ quan giám sát tiếp cận chứng cứ hay không, hoặc có thể nộp đơn xin, và Toà án, Viện kiểm sát sẽ thực hiện việc trưng tập các chứng cứ liên quan hay không, tất cả đều cần có sự nghiên cứu bổ sung các vấn đề về hệ thống thủ tục liên quan.

Điều 18 Luật Giám sát Trung Quốc quy định rằng cơ quan giám sát, khi thực hiện thẩm quyền giám sát, thúc đẩy và điều tra, có quyền tìm hiểu tình hình từ các đơn vị và cá nhân liên quan theo quy định của pháp luật, đồng thời thu thập và điều tra chứng cứ. Quy định này đặt ra câu hỏi về cách hiểu đúng đắn, bởi nó liên quan trực tiếp đến ranh giới quyền lực và tính chính đáng trong việc sử dụng quyền lực của cơ quan giám sát. Mục đích của chương này là nêu ra vấn đề, không đưa ra phương án giải quyết vấn đề. Bởi trong các vấn đề nêu trên có một số vấn đề có thể không thể giải quyết, một số vấn đề chỉ có thể tìm thấy phương án xử lý sau khi được triển khai sâu, rộng trong thực tiễn. Tóm lại, cơ quan giám sát theo Hiến pháp và Luật giám sát là một cơ quan quyền lực mạnh mẽ, có phạm vi thẩm quyền rộng rãi, nhưng cơ quan này cần có giới hạn về quyền lực, cần tuân thủ pháp luật khi thực hiện thẩm quyền của mình, cần chịu sự giám sát nghiêm ngặt và hiệu quả thực sự. Đây đều là những vấn đề quan trọng để hoàn thiện chế độ giám sát trong tương lai. Một công cuộc cải cách hoàn toàn mới vừa phải có môi trường thẩm cứu tất yếu, vừa phải luôn ghìm chặt dây cương pháp luật, nhằm ngăn chặn những rủi ro mang tính kết cấu do các kẽ hở lớn về chế độ gây ra.

Sửa đổi lần cuối Thứ ba, 07 Tháng 1 2025 02:28

Đăng ký nhận email

Đăng ký email để có thể có được những cập nhật mới nhất về tải liệu được đăng tải trên website

Tập san đã phát hành