Thứ hai, 26 Tháng 5 2025 07:58

Một số vấn đề lý luận về thể chế pháp luật kinh tế

1. Khái niệm thể chế pháp luật kinh tế

Thể chế” là chủ đề nghiên cứu của nhiều ngành khoa học xã hội, nhưng đến nay vẫn chưa có định nghĩa thống nhất. Thuật ngữ này thường được hiểu là hệ thống luật lệ, cơ chế thực thi, tổ chức, hoặc tập hợp các quy tắc chính thức và không chính thức điều chỉnh hành vi con người. Các quy tắc này gồm luật pháp, quy định và các hệ thống tổ chức thực thi chúng; thể chế còn bao hàm cả nguyên tắc hoặc thể chế chính trị – chính là những “thể chế” tạo ra luật lệ, cũng như các chuẩn mực văn hóa định hướng hành vi như niềm tin, đạo đức. Một số quan điểm khác định nghĩa thể chế là tập hợp các quy tắc và cách ứng xử (trong đó có luật), còn tổ chức là các thực thể mà thành viên phối hợp hành động để đạt mục tiêu chung. Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) định nghĩa thể chế là tập hợp các quy tắc và luật lệ bao gồm cả chính thức, phi chính thức, khách quan, chủ quan, kinh tế, chính trị hay văn hóatạo nên khuôn khổ cho các quan hệ, giao dịch giữa con người và định hướng, thúc đẩy hành vi của các thành viên trong xã hội[1]. Tổ chức Hợp tác Phát triển quốc tế Thụy Điển (SIDA) phân biệt rõ giữa “thể chế” và “tổ chức”. Theo SIDA, thể chế là tập hợp các quy tắc về hành vi nhằm điều chỉnh mối quan hệ xã hội và ứng xử của các chủ thể trong quan hệ với nhau, tạo thành “luật chơi”, trong đó các chủ thể, cá nhân và tổ chức, được xem như những người tham gia[2]. Các nhà kinh tế học về thể chế cũng cho rằng thể chế là hệ thống các yếu tố xã hội liên kết thành quy tắc chung, gồm luật lệ, niềm tin, nguyên tắc và tổ chức những yếu tố phi vật thể do con người tạo ra và có ảnh hưởng từ bên ngoài đến từng cá nhân[3]. Có thể nói đây là những quy tắc do con người đặt ra đối với các quan hệ giữa người và người, bao gồm các quy tắc chính thức (quy định, luật, điều lệ) và không chính thức (quy tắc ứng xử, quy tắc hành động bản thân tự áp dụng) và cơ chế thực thi các quy tắc này[4]. Ở Việt Nam, thập niên 1980, chịu ảnh hưởng của pháp luật từ các quốc gia thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa có cơ sở từ mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung đã hình thành quan niệm về ngành luật kinh tế độc lập với pháp luật dân sự và các ngành luật khác trong hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa, theo đó, các quan hệ kinh tế được hình thành trên cơ sở mệnh lệnh hành chính, bảo đảm sự thống trị của khu vực kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, hạn chế tự do khế ước.

Pháp luật kinh tế là hệ thống các quy phạm điều chỉnh quá trình hình thành, tồn tại và hoạt động của doanh nghiệp, bao gồm việc thành lập doanh nghiệp, gia nhập thị trường, tiến hành hoạt động kinh doanh và rút khỏi thị trường. Trong phạm vi này, những nội dung chính của pháp luật kinh tế chủ yếu bao gồm pháp luật về doanh nghiệp, pháp luật hợp đồng thương mại, pháp luật giải quyết tranh chấp trong kinh doanh và pháp luật về phá sản doanh nghiệp.

Ngoài ra, pháp luật kinh tế bao gồm các thể chế về đến quản lý kinh tế công cộng như quản lý thị trường, kiểm soát chất lượng, quy hoạch phát triển, các chính sách hỗ trợ, giám sát và chống phá giá. Pháp luật kinh tế còn điều chỉnh các lĩnh vực kinh tế cụ thể như thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán, cùng với các hợp đồng đặc thù như mua bán hàng hoá, gia công, trung gian, tiêu thụ, vận tải và hậu cần, thuê mua, quảng cáo. Bên cạnh đó, pháp luật còn liên quan đến các lĩnh vực như cạnh tranh và kiểm soát độc quyền, bảo vệ người tiêu dùng, kinh tế quốc tế, giải quyết trọng tài và các lĩnh vực pháp luật khác.

Có thể nhận thấy rằng, pháp luật kinh tế của các quốc gia gồm những quy định điều chỉnh các quan hệ kinh tế liên quan đến hoạt động sản xuất – kinh doanh của các chủ thể kinh doanh, cũng như các quy định về chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước với vai trò là chủ thể của quyền lực công cộng. Song, đối với mỗi quốc gia khác nhau, cách thức tiếp cận lại khác nhau, ví dụ như những quốc gia theo hệ thống Châu Âu lục địa, pháp luật ở đây sẽ chịu ảnh hưởng theo tư tưởng về chế định hợp động theo pháp luật La Mã lấy gốc là Bộ Luậ dân sự và từ đó hình thành các ngành luật khác nhau. Ngược lại, các quốc gia theo hệ thống luật Anglo sắc xông thì tiếp cận pháp luật từ án lệ xuyên suốt từ cấp tiểu bang đến liên bang.

Thể chế pháp luật kinh tế là hệ thống các quy định, chính sách, cơ cấu tổ chức, và các thiết chế pháp lý nhằm điều chỉnh hoạt động kinh tế, tạo ra môi trường pháp lý ổn định, thúc đẩy sự phát triển bền vững của nền kinh tế và đảm bảo quyền lợi hợp pháp của các chủ thể kinh tế[5]. Có thể nhận thấy rằng, thể chế pháp luật kinh tế không phải là một phần riêng lẻ mà là một hệ thống phép lý đa dạng và phối hợp chặt chẽ, bao gồm cả luật lệ, chính sách hành pháp, tổ chức bộ máy quản lý, và các tổ chức pháp lý. Mục tiêu chính của thể chế là kiểm soát, hướng dẫn các hoạt động kinh tế để đảm bảo hoạt động này diễn ra trong khuôn khổ pháp lý và theo quy luật.  Thể chế pháp luật kinh tế nhằm điều chỉnh hoạt động kinh tế với mục tiêu chính là kiểm soát, hướng dẫn các hoạt động kinh tế để đảm bảo hoạt động này diễn ra trong khuôn khổ pháp lý và theo quy luật. Bên cạnh đó, thể chế pháp luật kinh tế tạo ra môi trường pháp lý ổn định, có thể nói ổn định pháp luật là yếu tố then chốt giúp các chủ thể tin tưởng và đầu tư lâu dài, tránh sai lệch hoặc thay đổi đột ngột của các quy định. Thể chế không chỉ đáp ứng nhu cầu ngắn hạn mà còn hướng tới phát triển lâu dài, bền vững, bảo vệ lợi ích của các thế hệ tương lai, đặc biệt chú trọng tới quyền và lợi ích của các doanh nghiệp, người tiêu dùng, nhà đầu tư những chủ thể hoạt động trong nền kinh tế.

2. Vai trò của thể chế pháp luật kinh tế trong phát triển kinh tế

Dựa trên các lý luận về mối quan hệ giữa thể chế pháp luật và phát triển kinh tế, nhiều nhà nghiên cứu kinh tế hiện đại đã dành thời gian thực hiện các nghiên cứu thực chứng về mối liên hệ này. Đặc biệt là sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, khi hoạt động viện trợ từ các quốc gia phát triển hoặc tổ chức quốc tế như WB hoặc IMF tăng mạnh nhằm hỗ trợ các quốc gia bị chiến tranh tàn phá và các nước chậm phát triển trong thời gian gần đây.

Song, thực tế cho thấy, khó có khung quy chuẩn nhằm đánh giá thực tế về sự tác động của hoàn thiện chính sách với sự phát triển của từng đất nước vì mỗi quốc gia phát triển còn gắn với nhiều yếu tố khác mang tính chủ quan cũng như khách quan như về văn hóa, nhân lực, vị trí địa lý, đặc thù riêng của mỗi quốc gia. Hơn nữa, khái niệm về mức độ hoàn thiện của một hệ thống pháp luật mang tính trừu tượng và khó định lượng để biến thành một chỉ số cụ thể trong nghiên cứu thực chứng. Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, hệ thống pháp luật thường được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm không chỉ các quy phạm pháp luật mà còn các thiết chế thực thi, hệ thống thông tin pháp luật, và hoạt động đào tạo pháp luật. Vì lý do đó, các nghiên cứu thực nghiệm về mối liên hệ giữa pháp luật và mức độ phát triển chủ yếu tập trung vào những khía cạnh cụ thể có thể so sánh được của hệ thống pháp luật như: mức độ dân chủ, quyền tự do kinh doanh, hoặc tính độc lập của hệ thống tư pháp[6]

Dựa trên các nghiên cứu về mối quan hệ giữa dân chủ và phát triển kinh tế, các nhà nghiên cứu đều sử dụng các thước đo để đánh giá mức độ dân chủ của các quốc gia và so sánh sự phát triển kinh tế giữa chúng. Trong quá trình này, họ nhận thấy việc xác định rõ ràng các khái niệm như “phát triển” và “mức độ dân chủ” gặp nhiều khó khăn, phức tạp và mang tính chủ quan, đặc biệt khi xét đến các nền văn hóa khác nhau. Tuy nhiên, từ thực tế các quốc gia phát triển gần đây, có thể rút ra rằng phương hướng ưu tiên phát triển kinh tế trước, sau đó mới thực hiện quá trình dân chủ hóa, dường như mang lại nhiều thành công hơn. Ví dụ, các quốc gia như Hàn Quốc, Đài Loan, Chile, Mexico là các quốc gia đã tiến hành cải cách kinh tế trước dân chủ đều đạt mức độ phát triển ổn định hơn so với Argentina, Brazil, Philippines và Bangladesh, là những quốc gia đã bắt đầu dân chủ hóa trước.[7].

Ở đây giải thích cho lập luận trên thứ nhất bước đầu tiên đặt nền móng cho phát triển kinh tế thì một chính quyền chuyên chế hoạt động hiệu quả hơn và bản thân dân chủ được thực hiện trong một đất nước có điều kiện kinh tế xã hội mang tính thị trường sẽ hiệu quả hơn.

Một số nhà nghiên cứu cho rằng, việc các chính quyền mang tính chuyên chế thực hiện các chính sách tháo gỡ ràng buộc cho nền kinh tế thường mang lại kết quả khả quan hơn, bởi họ ít phải đối mặt với các phản đối từ các nhóm lợi ích khi chạm vào lợi ích của họ như trong xã hội dân chủ. Trong khi đó, nếu một nền kinh tế đã phát triển rồi mới tiến hành dân chủ hóa, nền dân chủ đó sẽ có nền tảng vững chắc hơn so với trường hợp ngược lại, vì lúc đó kinh tế đã sẵn sàng cho hoạt động thương mại, cạnh tranh, và có đủ nguồn lực để phân phối cho người dân những yếu tố được xem là thiết yếu trong các nền dân chủ. Thậm chí, với nền kinh tế còn khép kín, dân chủ hóa sớm có thể khiến nền kinh tế bị đình trệ do các lực lượng dân chủ mới đòi phân chia lại thu nhập hoặc thực hiện các chính sách quá mức làm hài lòng quần chúng, dẫn đến lãng phí lớn. Một số nhà lý luận còn cho rằng, khi phát triển kinh tế trước, quá trình dân chủ hóa thường diễn ra theo kế hoạch rõ ràng, có trật tự. Ngược lại, dân chủ hóa xảy ra trước có xu hướng là kết quả của các cuộc cách mạng đột ngột, gây rối loạn và dễ dẫn đến các bất ổn về mặt kinh tế. Tuy nhiên, theo hai nhà nghiên cứu này, cách tiếp cận hiệu quả nhất vẫn là thực hiện đồng thời các bước cải cách nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế và tiến tới dân chủ.[8].

Mặt khác, có một số nghiên cứu cho rằng nền kinh tế tự do ảnh hưởng tích cực tới sự phát triển kinh tế ở một quốc gia. Trên thực tế, nhiều yếu tố như mức độ bảo đảm quyền sở hữu tài sản, sự tự do trong các hợp đồng và khả năng thực hiện các giao dịch kinh tế đã được xác định là những tiêu chí quan trọng để đo lường tự do kinh tế [9]. Quyền sở hữu được xem là yếu tố rất quan trọng trong tự do kinh tế. Thậm chí, nhiều nghiên cứu còn khẳng định rằng việc bảo đảm quyền tư hữu chính là yếu tố thúc đẩy sự phát triển của các quốc gia[10]. Các tổ chức như Quỹ Di sản Heritage, Tạp chí Phố Wall đã bắt đầu xây dựng chỉ số tự do kinh tế từ năm 1995, dựa trên 50 biến số độc lập liên quan đến các khía cạnh khác nhau của nền kinh tế. Những biến số này được phân nhóm thành 10 yếu tố lớn, bao gồm chính sách thương mại, gánh nặng ngân sách và can thiệp của Chính phủ, chính sách tiền tệ, luồng vốn và đầu tư nước ngoài, hệ thống ngân hàng và tài chính, mức lương và giá cả, quyền sở hữu tài sản, các luật lệ và hoạt động của thị trường phi chính thức. Các yếu tố này đều đóng vai trò quan trọng như nhau trong việc xác định mức độ tự do kinh tế của một quốc gia.

Thông qua cuộc khảo sát trên diện rộng ở nhiều quốc gia khác nhau, Ngân hàng Thế giới đã xác định được rằng các yếu tố như ổn định chính trị, an ninh cho con người và tài sản, tính dự đoán của các quyết định tư pháp, cùng mức độ tham nhũng đều đóng vai trò quan trọng trong mức độ phát triển của Nhà nước pháp quyền. Các nghiên cứu này cho thấy rằng sự tin cậy của người dân vào Nhà nước, đặc biệt là vào hệ thống tư pháp, là yếu tố then chốt ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế. Hệ thống tư pháp giữ vai trò trung tâm trong việc hòa giải các tranh chấp giữa các bên, từ đó tạo nền tảng cho hoạt động của cá nhân và tổ chức bên ngoài khuôn khổ chính thức, góp phần thúc đẩy xã hội phát triển và hình thành các chuẩn mực xã hội. Những yếu tố này giúp củng cố luật pháp và trật tự, từ đó thúc đẩy sự phát triển của các thị trường, tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo đói.[11].

Một hướng đi khác trong việc nghiên cứu thực chứng về mối quan hệ giữa pháp luật và phát triển là đánh giá tác động của những chế định pháp luật cụ thể đối với quá trình phát triển kinh tế. Đây là cách thức tiếp cận theo lý thuyết của Ronal Coase về chi phí kinh tế của pháp luật. Như đề cập ở phần trên, trước đây nhiều nghiên cứu đã cho thấy để tạo điều kiện cho kinh tế phát triển thì vai trò của Nhà nước chỉ nên dừng lại ở mức độ bảo đảm quyền sở hữu tài sản và bảo đảm việc thực thi các hợp đồng, còn sau đó không nên can thiệp vào quá trình vận hành của thị trường tự do. Tuy nhiên, theo học thuyết Coase thì sự can thiệp của Nhà nước là cần thiết nếu nó làm giảm chi phí giao dịch hơn so với khi chưa có sự can thiệp của Nhà nước. Các nghiên cứu thực chứng cũng hỗ trợ cho kết luận này đặc biệt là trong lĩnh vực pháp luật về thị trường chứng khoán hoặc ngân hàng. Qua khảo sát ở nhiều quốc gia khác nhau cho thấy ở những quốc gia có các quy định pháp luật về chứng khoán có hiệu quả, nhất là trong việc ngăn chặn các vụ mua bán nội gián và pháp luật về giám sát hoạt động của ngân hàng thì sự phát triển của thị trường chứng khoán và ngân hàng ở nước đó trở nên mạnh mẽ hơn, có tác dụng thúc đẩy sự phát triển kinh tế[12].

3. Cấu trúc và đặc điểm của thể chế pháp luật kinh tế

Thể chế pháp luật kinh tế có phạm vi điều chỉnh rộng liên quan đến các hoạt động của doanh nghiệp, tổ chức tài chính, thị trường, lao động và các hoạt động thương mại toàn cầu. Các quy định, luật lệ mang tính bắt buộc thực thi và có chế tài xử lý vi phạm rõ ràng; các quy tắc được thể hiện rõ ràng, công khai, dễ hiểu nhằm tạo sự tin cậy, ổn định cho hoạt động kinh tế phù hợp với sự biến đổi của nền kinh tế, có khả năng cập nhật, điều chỉnh phù hợp với thực tiễn phát triển. Ở đây phần lớn các quy định pháp luật có mối liên hệ với nhau, tạo thành hệ thống thống nhất, có sự phối hợp chặt chẽ trong quản lý và điều chỉnh hoạt động kinh tế.

Nguyên tắc hoạt động của thể chế pháp luật kinh tế bao gồm những nguyên tắc chung, định hướng cho hoạt động pháp luật kinh tế, như nguyên tắc tự do kinh doanh, bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh, bảo vệ quyền sở hữu, bảo đảm minh bạch và công bằng trong hoạt động kinh tế. Thể chế pháp luật kinh tế hoạt động dựa trên các quy định, điều khoản cụ thể thể hiện trong luật, pháp lệnh, nghị định, thông tư… quy định chi tiết về quyền hạn, nghĩa vụ của các chủ thể kinh tế, chế tài xử lý vi phạm, các quy tắc ứng xử trong hoạt động kinh tế. Theo đó, chủ thể bao gồm các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp, nhà đầu tư, cơ quan nhà nước, các tổ chức bảo vệ quyền lợi của các chủ thể này. Họ là những người, tổ chức chịu trách nhiệm thực thi và tuân thủ các quy định pháp luật. Thể chế pháp luật kinh tế hoạt động dựa trên hệ thống các biện pháp, hoạt động để đảm bảo các quy phạm pháp luật được thực hiện đúng, như hoạt động của các cơ quan thi hành pháp luật, hệ thống tư pháp, kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm, chế tài xử lý các hành vi vi phạm pháp luật. Ở đây, cơ chế giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực kinh tế được giải quyết, như trọng tài thương mại, giải quyết tranh chấp tại tòa án, hòa giải, thương lượng phù hợp với quy định pháp luật.

Dựa trên lý thuyết của Ronald Coase về chi phí kinh tế của pháp luật, nhiều nghiên cứu thực chứng đã xác nhận rằng vai trò của Nhà nước trong phát triển kinh tế không chỉ dừng lại ở việc bảo đảm quyền sở hữu và thực thi hợp đồng, mà còn cần thiết khi các chế định pháp luật giảm chi phí giao dịch. Các nghiên cứu này cho thấy ở các quốc gia có quy định pháp luật về chứng khoán và ngân hàng hiệu quả, thị trường chứng khoán và ngân hàng phát triển mạnh mẽ hơn, từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,

4. Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và hệ thống chính sách pháp luật

Dưới góc độ lý thuyết của Karl Marx và Max Weber, mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và pháp luật thể hiện rõ trong việc pháp luật là thành phần của kiến trúc thượng tầng, hình thành dựa trên và bị ảnh hưởng bởi cơ sở hạ tầng kinh tế. Các học giả này cho rằng, các yếu tố kinh tế không chỉ dẫn dắt sự hình thành của pháp luật mà còn quyết định nội dung, tính chất và cơ chế điều chỉnh của pháp luật đó. Do đó, phát triển kinh tế đặt nền móng cho sự xây dựng và biến đổi của hệ thống pháp luật.

Pháp luật tồn tại trong khuôn khổ của cơ chế kinh tế, có nhiệm vụ điều chỉnh các mối quan hệ xã hội và kinh tế đặc thù phát sinh từ cơ cấu kinh tế đó. Vì vậy, trong mỗi hệ thống kinh tế, các quan hệ này cần được điều chỉnh bằng pháp luật phù hợp để đảm bảo sự tồn tại bền vững của cơ cấu kinh tế. Ví dụ, trong cơ chế kinh tế kế hoạch tập trung, pháp luật về các nội dung liên quan đến dân sự và thương mại ít được phát triển, do ít cần thiết trong hệ thống này. Ngược lại, trong cơ chế kinh tế thị trường, các nội dung liên quan đến dân sự, thương mại lại được chú trọng phát triển nhiều hơn, phản ánh nhu cầu điều chỉnh của các quan hệ trong nền kinh tế này.

Mặt khác, các cơ chế kinh tế khác nhau đòi hỏi các phương pháp điều chỉnh các mối quan hệ kinh tế phù hợp với đặc điểm và tính chất của từng hệ thống. Những phương pháp này ảnh hưởng trực tiếp đến đặc điểm của từng kiểu quan hệ pháp luật tương ứng. Chẳng hạn, trong cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, các quan hệ hợp đồng giữa các đơn vị kinh tế, gọi là hợp đồng kế hoạch, được điều chỉnh bởi các nghĩa vụ đặc biệt như bắt buộc ký kết hợp đồng trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngược lại, trong cơ chế kinh tế thị trường, các quan hệ hợp đồng được điều chỉnh theo phương pháp tự do, dân chủ, thỏa thuận và bình đẳng, phù hợp với tính chất linh hoạt của hệ thống này.

Sự biến đổi của các cơ chế kinh tế khác nhau đã dẫn đến những thay đổi rõ rệt trong hệ thống pháp luật, thủ tục pháp lý, cũng như tổ chức và phương thức hoạt động của bộ máy Nhà nước. Điều này thể hiện rõ qua ví dụ của Việt Nam, nơi quá trình chuyển đổi nền kinh tế đã loại bỏ một số cơ quan quản lý kinh tế quan trọng của hệ thống cũ như tổ chức trọng tài kinh tế nhà nước thúc đẩy sự ra đời của các cơ quan mới phù hợp với nền kinh tế thị trường, như Tòa kinh tế và Tòa lao động. Như vậy, sự thay đổi trong cơ chế kinh tế thúc đẩy quá trình đổi mới toàn diện của hệ thống pháp luật và bộ máy quản lý, làm nổi bật mối liên hệ chặt chẽ giữa phát triển kinh tế và cải cách pháp luật.

Các nhà lý luận Marx - Lenin đã tổng hợp rằng, pháp luật có nguồn gốc từ các điều kiện, tiền đề kinh tế, nhưng không phải chỉ phản ánh một cách thụ động các mối quan hệ này. Trái lại, pháp luật còn có tác động ngược trở lại, góp phần hình thành và điều chỉnh các quan hệ xã hội, đặc biệt là các quan hệ kinh tế, qua đó đóng vai trò thiết yếu trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế của nhà nước. Pháp luật mô hình hóa các mối quan hệ xã hội, quy định, bảo vệ, đồng thời cho phép, cấm đoán hoặc khuyến khích các hoạt động kinh tế phù hợp với mục tiêu và giai đoạn phát triển của đất nước trong từng thời kỳ lịch sử.

Phân tích sự tác động trở lại của pháp luật đối với kinh tế cho thấy có thể diễn ra theo nhiều hướng khác nhau, theo đó, khi các quy phạm pháp luật được xây dựng phù hợp với bản chất, tính chất của cơ chế kinh tế, cũng như mục tiêu kinh tế của Nhà nước và xã hội, thì pháp luật sẽ thúc đẩy sự phát triển kinh tế, góp phần hoàn thiện hệ thống và cơ chế kinh tế hiện có. Mặt khác, pháp luật không chỉ điều chỉnh những quan hệ kinh tế đã hình thành, mà còn có khả năng dự đoán, đón bắt và điều chỉnh những quan hệ mới sẽ xuất hiện trong hệ thống kinh tế, qua đó giúp thích ứng với sự biến đổi của nền kinh tế. Và, nếu pháp luật mâu thuẫn, không phù hợp với nội dung, tính chất và quy luật của các quan hệ kinh tế, thì sẽ gây ra tác động tiêu cực, cản trở sự phát triển của toàn bộ hệ thống kinh tế hoặc từng yếu tố cấu thành. Điều này có thể dẫn đến rối loạn các quá trình kinh tế, làm cho hoạt động và sự phát triển kinh tế vượt khỏi quỹ đạo tự nhiên của nó[13].

Max Weber, nhà xã hội học nổi tiếng người Đức (1864 -1920) khi nghiên cứu  cụ thể hơn về mối quan hệ giữa pháp luật và phát triển, ông đã căn bản nhấn mạnh đến vai trò của pháp luật đối với quá trình phát triển xã hội qua việc xem xét vai trò của pháp luật trong việc góp phần hình thành chủ nghĩa tư bản ở châu Âu. Theo đó, một trong những đặc trưng cơ bản của pháp luật đó là tính khái quát cao, tính áp dụng chung, bắt buộc phải tuân thủ đi với mọi đối tượng là một trong những căn nguyên cơ bản để sự can thiệp của Nhà nước vào kinh tế mang tính thống nhất và có dự báo. Chính nhờ tính dự báo này của pháp luật mà quan hệ kinh tế trở nên ổn định hơn từ đó góp phầm giảm bớt các chi phí trong các hoạt động kinh tế.

Mặt khác, xuất phát từ thực tiễn phát triển của các quốc gia phương Tây, có thể rút ra rằng, pháp luật ở các nước này đã xây dựng dựa trên ba yếu tố chính phù hợp với nền kinh tế thị trường đó là sự ghi nhận về tự do cá nhân, tự do sở hữu, và khuyến khích các mối quan hệ hợp đồng. Chính nhờ vào ba nền tảng này sở hữu tư nhân, tự do thỏa thuận và tự do lập hội mà pháp luật đã trở thành nền tảng cho sự phát triển xã hội tiền chủ nghĩa tư bản trong những nền văn minh này[14].

Thêm vào đó, các nhà kinh tế học hiện đại đã bắt đầu khảo sát mối quan hệ giữa pháp luật và kinh tế theo hướng xem pháp luật như một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến chi phí giao dịch trong hoạt động kinh doanh. Học thuyết này, bắt đầu được phát triển từ đầu thế kỷ 20 và liên kết với tên tuổi của Ronald H. Coase, phân tích các hành vi cụ thể của người kinh doanh, trong đó coi pháp luật như một phần của chi phí giao dịch. Theo Coase, khi pháp luật minh bạch, ổn định, có thể dự báo trước và đáng tin cậy, sẽ giảm rủi ro kinh doanh và làm giảm chi phí giao dịch, từ đó thúc đẩy tăng cường các hoạt động giao lưu kinh tế. Như vậy, tùy thuộc vào thực trạng pháp luật của từng môi trường, các nhà kinh doanh sẽ phản ứng khác nhau. Nếu môi trường pháp lý rõ ràng và minh bạch, các chi phí để tìm hiểu, ra quyết định, thương thảo và thực hiện các giao dịch sẽ giảm bớt, dẫn đến việc các hoạt động kinh doanh tăng cường hơn.

Tiếp theo đó, các nhà nghiên cứu kinh tế đã đưa ra những nghiên cứu chuyên sâu về tiến trình phát triển của kinh tế, theo đó, sự phát triển kinh tế phụ thuộc trước hết vào tính đầy đủ, dung hợp (inclusiveness) của các thể chế kinh tế và chính trị. Từ đó, rút ra kết luận rằng, sự thành công về kinh tế của các quốc gia khác nhau được quyết định bởi sự khác nhau về thể chế, về các quy tắc nền tảng ảnh hưởng đến nền kinh tế và các cơ chế khuyến khích thúc đẩy người dân[15].

Trong quá trình nghiên cứu và tổng kết các quan điểm về vai trò của pháp luật đối với phát triển kinh tế, nhiều nhà kinh tế học cuối thế kỷ 20 đã rút ra kết luận dựa trên các thực tiễn và lý luận đã được phân tích. Họ cho rằng, mặc dù pháp luật là yếu tố cần thiết để thúc đẩy sự phát triển kinh tế, nhưng không phải là yếu tố quan trọng nhất tạo động lực cho quá trình này. Cụ thể, họ nhận thấy rằng, thứ nhất, pháp luật thành văn do Nhà nước ban hành sẽ không bao giờ có thể điều chỉnh được tất cả các tình huống trong thực tế vì tính “không đầy đủ” của pháp luật. Thứ hai, quá trình soạn thảo, ban hành và thực thi pháp luật gây ra nhiều chi phí, tổn thất về mặt ngân sách và nguồn lực. Do đó, trong bối cảnh toàn cầu hóa và thay đổi nhanh chóng của các điều kiện kinh tế - xã hội, vai trò của pháp luật, dù quan trọng, vẫn đứng sau các yếu tố khác trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế.

Hơn thế nữa, việc xây dựng pháp luật, cũng như vận hành bộ máy thi hành luật là những hoạt động cần rất nhiều chi phí và nguồn lực. Nếu không cần quá nhiều nguồn lực cho việc soạn luật và thi hành luật thì một phần nhân lực (như luật sư, công an, thẩm phán...) hoặc vật lực (như các kinh phí cho hoạt động của những người này...) có thể được sử dụng vào việc hữu ích và cấp thiết khác của quốc gia. Ngoài ra, ở một số quốc gia khi các nhà xây dựng chính sách gặp khó khăn trong giải quyết vấn đề thì thông thường phải ra luật cấm và các nhà quản trị hành pháp sẽ triệt để thi hành luật đó. Tuy nhiên, dưới góc độ dân sự kinh tế điều này có những hệ lụy nhất định dẫn đến những thiệt hại không đáng có đối với các doanh nghiệp.

Tuy nhiên, mục tiêu hướng đến của các nhà kinh tế học là xác định và xây dựng các chế định có thể hạn chế được sự không phủ rộng của pháp luật như những quy định không mang tính chính thức như tập quán, chuẩn mực văn hóa, đạo đức xã hội… một trong những yếu tố cơ bản đó là niềm tin trong xã hội. Lý giải cho lý thuyết này được coi là uy tín trong kinh doanh, uy tín đạo đức nghề nghiệp… Trên thực tế khi các đối tác kinh doanh có niềm tin với nhau thì chi phí cho hoạt động kinh doanh sẽ được giảm bớt, thời gian đàm phán cũng được rút ngắn hơn. Tuy nhiên, trên thực tế các đối tác kinh doanh tin cậy nhau là không phổ biến và hoạt động kinh doanh đa dạng hơn cùng với kinh doanh số thì một chủ thể kinh doanh cũng sẽ mở rộng nhiều đối tác kinh doanh khác nhau và mức độ niềm tin cũng không thể xác lập phủ rộng và bao quát.

Ngoài ra, một trong những yếu tố nhằm giảm chi phí kinh doanh đó là tính đạo đức. Ở đây được hiểu là những giá trị mang tính văn hóa, tôn giáo tương đồng cũng có thể đủ tin cậy để giảm chi phí kinh doanh ví dụ khi các đối tác có cùng tôn giáo thì yếu tố đạo đức, tôn giáo tương đồng dẫn tới thời gian đàm phán có thể rút gọn do đó chi phí kinh doanh có thể theo đó mà được giảm bớt.

Ngoài ra, còn phải tính tới sự tin tưởng của của dân chúng đối với hiệu quả trong hoạt động của Nhà nước. Theo đó, sự tham gia của người dân đối với quản lý xã hội cũng tăng lên và hiệu quả hoạt động quản lý của nhà nước cũng tăng cao. Sự tương đồng qua lại giữa dân chúng và nhà nước hiệu quả sẽ làm cho nền kinh tế- xã hội hoạt động hiệu quả hơn.

Như vậy, có thể thấy rằng, thể chế kinh tế có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc kiểm soát lạm phát, ổn định tiền tệ, làm tiền đề ổn định nền kinh tế. Có thể nói, chính sách tiền tệ và tài chính được quy định bởi thể chế kinh tế là nền tảng cơ bản nhằm ổn định giá cả, ổn định giá trị tiền tệ của một quốc gia. Đây có thể xem là một trong những tiền tố quan trọng để đảm bảo sự ổn định của môi trường kinh doanh tạo nền tảng cơ bản và quan trọng nhằm phát triển kinh tế, giữ vững ổn định xã hội.


[1] Shahid Javed Burki and Guillermo Perry, eds, Beyond the Washington Consensus: Institutions Matter, Washington DC, World Bank. 1998

[2] Sida, Supporting the Development of Institutions Formal and Informal Rules: An Evaluation Theme Basic Concepts, 2005.

[3] Aner Grief festitutions and the Path to the Modern Economy: Lessons from Medieval Trade, New York Cambridge, 2006

[4] Dunglate C. Nork, Economic Performance Through Time, American Economic Review, 1994.

[5] North, D. C. (1990). Institutions, Institutional Change and Economic Performance. Cambridge University Press

[6] Frank B. Cross, Law and Economic Growth, wwwatexas.edu/law/academics/couters/skim lusice/Crom.pdf

[7] Trần Hữu Dũng, Dân chủ và phát triển. Lý thuyết và chứng cử. Thời đại mới, Số 10, tháng 3/2007

[8] Giavazzi và Tabellini, Economic and Political Liberalizations có tại www.zgerzenscc.ch/fileadmin/Dateien Anwender/Dokumente/Conferences/papers_conferences/Giavazzi Tabellini pdf 2018.

[9] Frank B. Cross, Law and Economic Growth, wwwatexas.edu/law/academics/couters/skim lusice/Crom.pdf

[10] Forstensson, Johan, Property Rights and Economic Growth: An Empirical Study, Kyklos, Blackwell Pub-lishing, vol. 47(2), 1994, tr. 231-47.

[11] Ngân hàng Thế giới, Xây dựng thế chế hô trợ thị trường, Báo cáo phát triển thế giới 2002, NXB Chính trị quốc gì, tr. 154-173.

[12] Ross Levine & Sara Zevros, Stock Markets, Banks, and Economic Growth. World Bank Policy Research Working Paper No. 1690, A1.213 Working Paper No. 297

[13] Đào Trí Úc, Nhà nước và pháp luật của chúng ta trong sự nghiệp đối mới, (NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1997.

[14] Lan Cao, Law and Economic Development: A New Beginning?, Texas International Law Joumal, Viel 32:545. 2007.

[15] Dario Acemoglu, James A. Robinson, Why nations fail), Crown Business, 2012

Đăng ký nhận email

Đăng ký email để có thể có được những cập nhật mới nhất về tải liệu được đăng tải trên website

Tập san đã phát hành