Thứ sáu, 22 Tháng 10 2021 09:35

Giới thiệu khái quát về chức năng của nhà nước và chức năng của thị trường

1. Nhà nước và chức năng của nhà nước

1.1. Khái niệm nhà nước

Nhà nước nói chung là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị do giai cấp thống trị lập ra, là một bộ máy cưỡng chế đặc biệt, là công cụ duy trì, bảo vệ địa vị và lợi ích của giai cấp thống trị. Ngoài phục vụ giai cấp thống trị, nhà nước còn giải quyết những vấn đề nảy sinh trong đời sống xã hội, bảo đảm trật tự chung ổn định giá trị chung của xã hội để xã hội tồn tại và phát triển. Nhà nước bảo vệ lợi ích của giai cấp cầm quyền và các giai cấp khác khi lợi ích đó không mâu thuẫn với nhau. Tuy nhiên, biểu hiện cụ thể và mức độ thực hiện vai trò xã hội là khác nhau ở những kiểu nhà nước khác nhau, và ngay trong một kiểu nhà nước cũng khác nhau ở từng giai đoạn phát triển và tuỳ thuộc điều kiện kinh tế - xã hội.

Đến nay, trên thế giới đã xuất hiện bốn kiểu nhà nước nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến, nhà nước từ sản, nhà nước vô san (nhà nước xã hội chủ nghĩa). Bản chất nhà nước có hai thuộc tính (tính xã hội và tính giai cấp) cùng tồn tại trong một thể thống nhất không thể tách rời, có quan hệ biện chứng với nhau; trong đó, tính giai cấp là thuộc tính cơ bản, vốn có của bất kỳ nhà nước nào; còn tính xã hội thể hiện ở chỗ nhà nước là đại diện chính thức của toàn xã hội, thực hiện bảo vệ lợi ích cơ bản, lâu dài của quốc gia – dân tộc và công dân của mình.

Theo chủ nghĩa Mác - Lênin, nhà nước có 5 đặc trưng cơ bản là:

- Nhà nước có quyền lực chính trị công cộng đặc biệt; có bộ máy cưỡng chế, quan lý những công việc chung của xã hội;

- Nhà nước có quyền quản lý dân cư, phân chia lãnh thổ thành các đơn vị hành chính;

- Nhà nước có chủ quyền quốc gia;

- Nhà nước có quyền xây dựng, sáng tạo pháp luật và có quyền điều chỉnh các quan hệ xã hội bằng pháp luật và;

- Nhà nước có quyền ban hành các sắc thuế và thu thuế.

Ngay từ năm 1847, Ph. Ăngghen đã nêu 12 nhiệm vụ mà giai cấp công nhân phải thực hiện sau khi giành được chính quyền, tất cả các nhiệm vụ đó đều trực tiếp liên quan tới tổ chức, xây dựng xã hội mới. C. Mác và Ph. Ăngghen cũng xem việc giai cấp công nhân giành lấy quyền lực nhà nước mới chỉ là bước đầu tiên. Sau đó phải sử dụng quyền lực nhà nước để tăng thật nhanh số lượng những lực lượng sản xuất.

Lãnh đạo giai cấp công nhân và nhân dân lao động Nga làm cách mạng, sau khi thiết lập chuyên chính vô sản, VI Lênin đã trực tiếp lãnh đạo, xây dựng xã hội mới. Đó là thời kỳ chủ nghĩa cộng sản không còn chỉ là cương lĩnh hay học thuyết, mà đã trở thành công việc xây dựng hằng ngày. Bởi vậy. V.L Lênin đã có sự phát triển mới về mặt lý luận liên quan tới chức năng tổ chức và xây dựng của chuyên chính vô sản. VI. Lênin xem việc tích cực xây dựng chủ nghĩa cộng sản, sáng tạo ra những quan hệ kinh tế mới, sáng tạo ra một xã hội mới là nhiệm vụ cấp bách, quan trọng hơn là đập tan sự phản kháng của tư sản. Không dừng lại ở việc khẳng định nhiệm vụ hàng đầu là tổ chức, xây dựng so với nhiệm vụ trấn áp, V.I. Lênin còn làm rõ nội dung, biện pháp của nhiệm vụ đó trên nhiều bình diện khác nhau.

Trong lĩnh vực kinh tế, để thực hiện nhiệm vụ xây dựng, nhà nước vô sản phải hoàn thành việc tước đoạt giai cấp tư sản, phát triển mạnh các lực lượng sản xuất, củng cố kỷ luật lao động mới. Trong lĩnh vực xã hội, phải tạo ra quan hệ xã hội mới, tạo ra những tổ chức lao động mới có khả năng phối hợp những thành tựu mới nhất của khoa học và kỹ thuật với sự tập hợp đồng đảo những người lao động, cải tạo dần tầng lớp tiểu sản uất hàng hoá thông qua một công tác tổ chức lâu dài.

Đề cập đến chức năng tổ chức xây dựng của nhà nước chuyên chính vô sản, VI.Lênin dành sự chú ý đặc biệt cho nhiệm vụ quản lý. Sau khi giành được chính quyền, theo VI. Lênin, vũ khí duy nhất mà nhờ đó giai cấp vô sản có thể chiến thắng giai cấp tư sản là quản lý. Trong nhiệm vụ quản lý toàn diện đời sống xã hội, V.I. Lênin xem quản lý nhà nước trong thời kỳ chuyên chính vô sản thực chất là quản lý kinh tế. Nhìn nhận nhiệm vụ này từ góc độ đấu tranh giai cấp, góc độ chính trị. V.L Lênin quan niệm: nhiệm vụ căn bản của mọi xã hội quá độ chuyển sang chế độ xã hội chủ nghĩa là ở chỗ giai cấp vô sản thống trị… phải chiến thắng giai cấp tư sản... tức là chúng ta phải đạt được chiến thắng đó trong lĩnh vực tổ chức kinh tế quốc dân, tổ chức sản xuất, trong lĩnh vực kiểm kê và kiểm soát có tính chất toàn dân. Như vậy sau khi giành chính quyền, nhà nước vô sản phải tập trung vào nhiệm vụ quản lý, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Lúc này nhà nước không chỉ quản lý mà còn là một chủ thể trong nền kinh tế, hoạt động theo quy luật chung.

Ngay trong các xã hội tư bản, vai trò của nhà nước trong thúc đẩy kinh tế cũng ngày càng được chú ý. Năm 1982, khi nghiên cứu về sự phát triển thần kỳ của Nhật Bản, Giáo sư người Mỹ Chalmers Ashby Johnson (1931-2010) đã đưa ra thuật ngữ chính phủ kiến tạo phát triển (developmental government), nhà nước kiến tạo phát triển (developmental state)[1]. Sở dĩ có khái niệm mới là do Giáo sư C. Johnson nhận thấy vai trò hết sức quan trọng của nhà nước đối với sự phát triển nhảy vọt của Nhật Bản trong giai đoạn 1951-1978. C. Johnson cho rằng, Nhà nước Nhật Bản không chỉ tạo ra khuôn khổ cho sự phát triển, mà còn định hướng và thúc đẩy sự phát triển đó. Về sau, một số nước Đông Á và nhiều nước khác cũng đi theo xu hướng của Nhật Bản, đều được coi là nhà nước kiến tạo phát triển.

Các nhà nghiên cứu về sau cho rằng, nhà nước kiến tạo phát triển là mô hình nhà nước nằm ở giữa mô hình nhâ nước điều chỉnh (theo chủ thuyết thị trường tự do) và mô hình nhà nước kế hoạch hóa tập trung quan liêu (theo mô hình xã hội chủ nghĩa). Nhà nước kiến tạo phát triển không đứng ngoài thị trường, nhưng cũng không làm thay thị trường. Nhà nước kiến tạo coi trọng vai trò của thị trường nhưng không tuyệt đối hóa nó mà chủ động, tích cực can thiệp vào thị trường để thúc đẩy phát triển và hiện thực hóa các mục tiêu phát triển đã được đề ra. Đây là mô hình nhà nước kết hợp được ưu điểm, đồng thời khắc phục được nhược điểm của cả hai mô hình nhà nước điều chỉnh và nhà nước kế hoạch hóa tập trung quan liêu.

Như vậy nhà nước là thực thể thuộc về kiến trúc thượng tầng, tuy nhiên trong hoạt động xây dựng xã hội mới, nhà nước không chỉ với vai trò của yếu tố thượng tầng tác động, quản lý sự phát triển của cơ sở hạ tầng mà nhà nước còn hiện thần với tính cách là một chủ thể trên thị trường, hoạt động bình đẳng như các chủ thể khác.

1.2 Chức năng của nhà nước

Chức năng của nhà nước là những phương diện hoạt động chủ yếu của nhà nước nhằm thực hiện những nhiệm vụ đặt ra. Chức năng của nhà nước được xác định xuất phát từ bản chất của nhà nước do cơ sở kinh tế và cơ cấu giai cấp trong xã hội quyết định. Thông thường, căn cứ vào phạm vi hoạt động thì chức năng của nhà nước chia thành hai nhóm: chức năng đối nội và chức năng đối ngoại; hoặc phân chia theo lĩnh vực như: chức năng chính trị, chức năng xã hội, chức năng kinh tế. Chức năng đối nội là chức năng được thực hiện trong phạm vi nội bộ đất nước như bao đảm chế độ kinh tế, giữ vững an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội, trấn áp những phần tử chống chế độ. Còn chức năng đối ngoại là thể hiện vai trò của nhà nước với các nhà nước khác, dân tộc khác trong các nhiệm vụ như: phòng thủ đất nước chống giặc ngoại xâm, thiết lập mối bang giao với các nước khác, dân tộc khác. Chức năng đối nội và đối ngoại có quan hệ mật thiết với nhau. Việc xác định và thực hiện chức năng đối ngoại phải căn cứ vào tình hình thực hiện chức năng đối nội. Đồng thời kết quả của việc thực hiện chức năng đối ngoại sẽ tác động mạnh mẽ đến chức năng đối nội.

Để thực hiện các chức năng của mình nhà nước phải dựa vào pháp luật. Nhà nước phải tổ chức xây dựng pháp luật. Hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, phù hợp sẽ là cơ sở cho việc triển khai thực hiện các chức năng của nhà nước. Đồng thời với hoàn thiện hệ thống pháp luật là việc tổ chức thực hiện pháp luật và bảo vệ pháp luật. Một xã hội có kỷ cương pháp luật, mọi người tôn trọng luật pháp và bảo vệ luật pháp sẽ bảo đảm cho việc huy động các nguồn lực để hoàn thành các nhiệm vụ quốc gia đặt ra. Đương nhiên để có được điều đó, xã hội phải thực hiện giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật đi liền với tính bắt buộc trong tuân thủ luật pháp ở mọi quốc gia.

Khi thực hiện các chức năng của mình, nhà nước phải cụ thể hóa các nhiệm vụ trong từng giai đoạn phù hợp với điều kiện lịch sử kinh tế - xã hội cũng như nguồn lực quốc gia. Các nhiệm vụ thường gắn liền với các lĩnh vực của đời sống xã hội, như nhiệm vụ về kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, an ninh - quốc phòng…

Là một bộ phận hợp thành của đời sống xã hội có nhà nước, cũng như bất kỳ một hiện tượng xã hội nào, chức năng của nhà nước không đứng im mà luôn có sự vận động và phát triển. Trong đời sống, căn cứ vào nhiệm vụ, mục tiêu của nhà nước ở từng giai đoạn cụ thể mà tương ứng với nó, nhà nước có những chức năng khác nhau, ngay cả một chức năng cũng có sự thay đổi về nội dung để phù hợp với đời sống xã hội. Mặc dù chức năng của nhà nước là những hoạt động riêng, nhưng giữa các chức năng có sự tác động qua lại, tương hỗ lẫn nhau cùng hướng tới việc thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ của nhà nước, vì thế chức năng của nhà nước hợp thành một hệ thống thống nhất có ảnh hưởng, tác động lẫn nhau, thể hiện sự nhất quán và đồng bộ.

Các chức năng và nhiệm vụ của nhà nước được thực hiện thông qua bộ máy nhà nước. Bộ máy nhà nước là hệ thống các cơ quan từ trung ương xuống địa phương, bao gồm nhiều loại cơ quan như cơ quan lập pháp, hành pháp, từ pháp.. Toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước nhằm thực hiện các chức năng của nhà nước, phục vụ cho lợi ích của giai cấp thống trị. Bộ máy nhà nước bao gồm nhiều cơ quan, mỗi cơ quan cũng có những chức năng, nhiệm vụ riêng phù hợp với phạm vi, quyền hạn được giao. Vì vậy, cần phân biệt chức năng của nhà nước với chức năng của mỗi cơ quan nhà nước cụ thể. Chức năng của nhà nước là phương diện hoạt động chủ yếu của toàn thể bộ máy nhà nước, trong đó mỗi cơ quan khác nhau của nhà nước đều tham gia thực hiện ở những mức độ khác nhau. Chức năng của một cơ quan chỉ là những mặt hoạt động chủ yếu của riêng cơ quan đó nhằm góp phần thực hiện những chức năng và nhiệm vụ chung của nhà nước. Mỗi kiểu nhà nước có bản chất riêng nên chức năng của các nhà nước thuộc mỗi kiểu nhà nước cũng khác nhau và việc tổ chức bộ máy để thực hiện các chức năng đó cũng có những đặc điểm riêng.

Chẳng hạn, với nhà nước xã hội chủ nghĩa trong hoạt động đối nội của mình đều phải tiến hành những hoạt động nhằm bảo đảm vị trí thống trị của giai cấp công nhân và nhân dân lao động là giai cấp đang lãnh đạo xã hội; bảo vệ cơ sở kinh tế nền tảng cho sự tồn tại của nhà nước; bảo vệ vai trò thống trị về tư tưởng của nhân dân lao động trong xã hội.

a) Khi xem xét các chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa theo lĩnh vực cụ thể, trong hoạt động đối nội, nhà nước phai thực hiện các chức năng sau: Chức năng kinh tế

Chức năng kinh tế là chức năn cơ bản, đặc thù của nhà nước xã hội chủ nghĩa, chức năng này xuất phát từ bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa không chỉ là một bộ máy hành chính – cưỡng chế mà còn là một tổ chức quản lý kinh tế – xã hội của nhân dân.

Trong từng giai đoạn phát triển của nhà nước xã hội chủ nghĩa, chức năng kinh tế có những biểu hiện cụ thể tùy thuộc vào nhiệm vụ, mục tiêu của nhà nước trong từng giai đoạn phát triển cụ thể. Trước đây, trong nền kinh tế tập trung, để thực hiện chức năng kinh tế, nhà nước xã hội chủ nghĩa tự biến mình thành một tổ chức siêu kinh tế, không chỉ dừng lại ở hoạt động quản lý, nhà nước còn tham gia trực tiếp vào hoạt động sản xuất và phân phối sản phẩm. Hiện nay trong nền kinh tế thị trường, đa thành phần kinh tế, định hướng xã hội chủ nghĩa, chức năng kinh tế của nhà nước xã hội chủ nghĩa hướng tới các nhiệm vụ sau:

+ Tạo lập, bảo đảm môi trường lành mạnh để giải phóng các tiềm năng phát triển kinh tế, xây dựng và bảo đảm các điều kiện chính trị, pháp luật, xã hội, tổ chức ổn định cho sự phát triển của tất cả các thành phần kinh tế.

+ Cung cố, phát triển các hình thức sở hữu trên cơ sở bảo đảm vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước.

+ Tạo các tiền đề cần thiết cho sự hội nhập của các thành phần kinh tế trong nước vào thị trường khu vực và toàn cầu.

Để thực hiện được các nhiệm vụ trên, chức năng kinh tế của nhà nước hướng tới các nội dung sau:

+ Xây dựng chiến lược, chương trình, chính sách phát triển kinh tế định hướng cho nền kinh tế quốc dân phát triển trong nền kinh tế thị trường.

+ Xây dựng, thực hiện chính sách tài chính, tiền tệ hợp lý, bảo đảm sự lành mạnh của nền tài chính quốc gia.

+ Phát huy những mặt tích cực, ngăn ngừa và hạn chế những mặt tiêu cực của nền kinh tế thị trường.

+ Điều tiết những lợi ích giữa các thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững, bảo đảm công bằng xã hội.

+ Phương pháp quản lý kinh tế chủ yếu là các biện pháp kinh tế và pháp luật; trong đó pháp luật phải trở thành chuẩn mực cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh, làm cơ sở cho các tổ chức kinh tế và các cơ quan quản lý kinh tế của nhà nước hoạt động.

- Chức năng xã hội

Nhà nước xã hội chủ nghĩa có nhiệm vụ quan trọng là giải quyết tốt những dòi hỏi, nhu cầu xuất phát từ đời sống. hướng tới việc xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, tất cả vì giá trị con người. Nền kinh tế thị trường được thiết lập trong các nhà nước xã hội chủ nghĩa đã mang lại nhiều thành tựu nhưng cũng đặt ra nhiều vấn đề như văn hoa, giáo dục, chăm sóc sức khỏe, việc làm... đòi hỏi phải giải quyết. Chính vì vậy, một trong những chức năng quan trọng của nhà nước xã hội chủ nghĩa là giai quyết các nhiệm vụ mà xã hội đặt ra, hướng tới sự phát triển bền vững, trong đó con người là trung tâm.

Nội dung cơ bản của chức năng xã hội của nhà nước xã hội chủ nghĩa có thể khái quát ở các hướng chính sau:

+ Nhà nước coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu.

+ Nhà nước xác định khoa học và công nghệ giữ vai trò then chốt trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. + Nhà nước xây dựng và thực hiện chính sách bảo tồn văn hoá dân tộc, tiếp thu có chọn lọc những tỉnh hoa văn hoá của nhân loại.

+ Nhà nước xây dựng, thực hiện chính sách chăm sóc sức khỏe nhân dân.

+ Nhà nước tạo điều kiện để mỗi công dân đều có việc làm, khuyến khích mở rộng sản xuất, thu hút sức lao động tích cực trong việc giải quyết vấn đề thất nghiệp

+ Nhà nước xây dựng chính sách thu nhập hợp lý, điều tiết mức thu nhập giữa những người có thu nhập cao sang những người có thu nhập thấp qua các chính sách về thuế.

+ Nhà nước xây dựng và thực hiện các chính sách nhằm chăm lo đời sống vật chất và tinh thần đối với những người có công, người về hưu, người già yếu cô đơn.

+ Nhà nước chủ động tìm các biện pháp để giải quyết các tệ nạn xã hội như ma tuý, mại dâm..

- Chức năng giữ vững an ninh - chính trị, bảo vệ trật tự an toàn xã hội, bảo vệ các quyền tự do, dân chủ của công dân. Đây là một trong những chức năng quan trọng của nhà nước xã hội chủ nghĩa trong tất cả các giai đoạn phát triển. Nội dung của chức năng này thể hiện ở những mặt cơ bản sau:

+ Nhà nước phải tăng cường sức mạnh về mọi mặt, sử dụng các hình thức và phương pháp để giữ vững sự ổn định chính trị, kiên quyết chống lại những ý đồ, hành vi nhằm gây mất ổn định an ninh – chính trị của đất nước.

+ Bảo vệ và bảo đảm các quyền tự do, dân chủ của công dân. Không ngừng mở rộng việc ghi nhận các quyền con người thành các quyền công dân xác lập cơ chế pháp lý hữu hiệu nhằm bảo đảm cho các quyền tự do, dân chủ của công dân được thực hiện trên thực tế; phát hiện nhanh chóng, xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi xâm phạm đến các quyền tự do, dân chủ của công dân.

+ Bảo vệ trật tự, an toàn xã hội, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, thiết lập trật tự pháp luật. Để thực hiện điều này đòi hỏi các cơ quan nhà nước phải tích cực, chủ động trong hoạt động của mình, nâng cao hiệu quả động xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật, bảo vệ pháp luật, kết hợp sức mạnh của nhà nước với sức mạnh của xã hội để ngăn ngừa các hành vi vi phạm pháp luật, đặc biệt là tội phạm.

b) Trong hoạt động đối ngoại, nhà nước xã hội chủ nghĩa tập trung vào các chức năng sau:

- Chức năng bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa

Đây là một trong những chức năng cơ bản của nhà nước xã hội chủ nghĩa nhằm giữ vững độc lập, chủ quyền của quốc gia, bảo đảm sự ổn định cho quốc gia. Để thực hiện chức năng này các nhà nước xã hội chủ nghĩa đều tập trung xây dựng một quân đội chính quy, hiện đại có đủ khả năng đối phó với các mưu đồ can thiệp bằng vũ trang từ bên ngoài vào các nhà nước.

Để thực hiện tốt chức năng bảo vệ Tổ quốc, bên cạnh việc xây dựng quân đội chính quy, từng bước hiện đại, có khả năng chiến đấu cao Nhà nước Việt Nam còn xây dựng một nền quốc phòng toàn dân, thực hiện chính sách giáo dục quốc phòng và an ninh cho toàn dân, thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự, thực hiện chính sách hậu phương - quân đội.

- Chức năng cũng cố, mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước theo nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.

Mục đích của chức năng này nhằm mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, đồng thời góp phần vào việc thiết lập một thế giới dân chu và tiến bộ.

Trong bởi cảnh thế giới có nhiều biến động phức tạp hiện nay, với sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất và xu hướng quốc tế hoá nền kinh tế thế giới, hoạt động đối ngoại của nhà nước ngày càng trở nên đa dạng về hình thức, phong phú về nội dung. Hiện nay, Nhà nước ta thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, da phương hóa, đa dạng hóa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng trên nhiều cấp độ, đa dạng hóa về hình thức, từng bước thích ứng với nguyên tắc và chuẩn mực thị trường toàn cầu.

2. Thị trường và chức năng của thị trường

2.1. Thị trường

Kinh tế hàng hoá là một hình thái tổ chức kinh tế, trong đó diễn ra quá trình sản xuất và trao đổi hàng hoá. Mỗi trường hoạt động, phát triển và trao đổi hàng hoá là thị trường, đây là nơi diễn ra sự tác động lẫn nhau giữa người tiêu dùng và người sản xuất, mỗi bên theo đuổi những mục đích riêng của mình. Thị trường giống như người môi giới đóng vai trò trung gian, thu xếp, điều hoà sở thích của người tiêu dùng và những hạn chế về kỹ thuật có trong tuy người sản xuất. Thị trường là trung tâm, là nơi liên hệ, tiếp xúc, so sánh giữa người bán với người mua, giữa những người sản xuất (người bán) với nhau, giữa những người tiêu dùng với nhau.

Về mặt lý luận cũng như thực tiễn, khái niệm thị trường được hiểu với những nội dung và phạm vi khác nhau. Theo cách hiểu thông thường, thị trường là một địa điểm cụ thể diễn ra việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, v.v., chẳng hạn: một trụ sở, một cái chợ, một trung tâm thương mại…. Theo hướng này khái niệm thị trường còn được mở rộng thêm về mặt không gian địa lý. Ví dụ: thị trường của một địa phương, một vùng lãnh thổ, một quốc gia hay một khu vực quốc tế.

Thị trường là một phạm trù riêng của sản xuất hàng hoá. Thị trường ra đời gắn liền với sản xuất hàng hóa. Cùng với sự phát triển của sản xuất hàng hóa, khái niệm thị trường ngày càng trở nên phong phú, đa dạng. Khái niệm thị trường không thể tách rời phân công lao động. Theo C. Mác, hễ ở đâu và khi nào có phân công lao động xã hội và có sản xuất hàng hóa thì ở đó và khi ấy có thị trường. Thị trường chẳng qua là sự biểu hiện của phân công lao động xã hội và do đó có thể phát triển vô cùng tận.

Hoạt động cơ bản của thị trường được thể hiện qua ba nhân tố cung - cầu - giá cả. Qua thị trường có thể hiểu được mối tương quan giữa cung và cầu tức là mức độ thoả mãn nhu cầu thị trường về hàng hoá và dịch vụ, phạm vi quy mô của việc thực hiện cung - cầu dưới hình thức mua bán hàng hoá, dịch vụ trên thị trường. Thị trường là nơi kiểm nghiệm giá trị của hàng hoá, dịch vụ và ngược lại hàng hoá, dịch vụ phải đáp ứng được nhu cầu của thị trường, do đó mọi yếu tố liên quan đến sản xuất kinh doanh, dịch vụ đều phải tham gia vào thị trường.

Cũng có thể hiểu thị trường là một nhóm người tiêu dùng đang có nhu cầu, mức mua chưa được đáp ứng và mong đợi thoả mãn. Cách hiểu này thiên về góc độ của người mua, dung lượng thị trường lớn hay nhỏ là do người mua quyết định.

Còn có một cách hiểu nữa về thị trường, coi đó là khái niệm để chỉ lĩnh vực lưu thông hàng hoá nói chung, ở đó người bán và người mua gặp nhau để trao đổi, mua bán hàng hoá. Theo hướng này, để nêu rõ sự vận động của thị trường. có thể coi thị trường là một quá trình trong đó người mua và người bán từng loại hàng hoá tác động qua lại lẫn nhau để xác định giá cả và số lượng hàng hoá cần trao đổi.

Như vậy, trên góc độ tổng quát, thị trường là tổng thể các điều kiện chủ quan và khách quan có liên quan đến sản xuất và tiêu thụ hàng hoá, cung ứng dịch vụ... Quá trình sản xuất và tiêu thụ hàng hoá, cung ứng dịch vụ... gắn liền với nhau, xâm nhập vào nhau. Việc tiêu thụ được tính toán ngay từ khi bắt đầu sản xuất nên ở đây không tách rơi điều kiện sản xuất và tiêu thụ.

Có nhiều loại thị trường khác nhau. Hiện nay trong kinh doanh người ta dựa vào nhiều tiêu thức khác nhau để chia thị trường. Mỗi cách phân loại có một ý nghĩa quan trọng riêng đối với quá trình kinh doanh. Sau đây là một số cách phân loại chủ yếu:

- Căn cứ vào quan hệ mua bán giữa các nước, chia ra thị trường dân tộc và thị trường thế giới.

- Căn cứ vào mức độ xã hội hoá của thị trường, chia ra thị trường thống nhất toàn quốc và thị trường khu vực.

- Căn cứ vào tính chất hàng hoá lưu thông trên thị trường, chia ra thị trường tư liệu sản xuất và thị trường tư liệu tiêu dùng.

- Căn cứ vào vai trò của người mua, người bán trên thị trường, chia ra thị trường người bán và thị trường người mua.

- Căn cứ vào vai trò của từng khu vực thị trường, chia ra thị trường chính (hoặc thị trường trung tâm).

- Căn cứ vào số lượng người mua và người bán trên thị trường, chia ra thị trường độc quyền và thị trường cạnh tranh.

- Căn cứ vào lĩnh vực kinh doanh, chia ra thị trường hàng hóa, thị trường dịch vụ, thị trường sức lao động.

Cơ chế thị trường là quá trình tương tác lẫn nhau giữa các chủ thể kinh tế trong việc hình thành giá cả, phân bố tài nguyên, xác định khối lượng và cơ cấu sản xuất. Sự tương tác của các chủ thể tạo nên những điều kiện nhất định để nhà sản xuất, với hành vi tối đa hóa lợi nhuận, sẽ căn cứ vào gia cả thị trường để quyết định ba vấn đề: Sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? Sản xuất cho ai?

Theo lý thuyết kinh tế học phúc lợi, cơ chế thị trường là cách thức tự động phân bổ tối ưu các nguồn lực của nền kinh tế. Đó là vì, mỗi nhà sản xuất đều căn cứ vào giá cả thị trường để quyết định sản xuất bao nhiêu, sẽ không có sản xuất thừa, cũng sẽ không có san xuất thiếu. Phúc lợi kinh tế được bảo đảm do không có tổn thất xã hội.

Tuy nhiên, để cơ chế thị trường thực hiện tốt được chức năng của mình, thì các điều kiện sau đây phải được thỏa mãn: thị trường phải có cạnh tranh hoàn hảo, thông tin đến xứng, không có các ảnh hưởng ngoại lai (ngoại ứng), vv.. Nếu không, cơ chế thị trường sẽ không thể phân bố tối ưu các nguồn lực kinh tế. Khi đó có thất bại thị trường.

Trong nền kinh tế thị trường, mọi hoạt động sản xuất và trao đổi hàng hóa giữa người sản xuất và người tiêu dùng được vận hành do sự điều tiết của quan hệ cung - cầu. Đặc trưng cơ bản nhất của cơ chế thị trường là động lực lợi nhuận, nó chỉ huy hoạt động của các chủ thể. Trong kinh tế thị trường, đặc điểm tự do lựa chọn hình thức sản xuất kinh doanh, tự chịu trách nhiệm: “lãi hưởng lỗ chịu", chấp nhận cạnh tranh, là những điều kiện hoạt động của cơ chế thị trường. Sự tuân theo cơ chế thị trường là điều không thể tránh khỏi đối với các doanh nghiệp, nếu không sẽ bị đào thải.

Thị trường vận hành theo các quy luật như: quy luật giá trị, quy luật cung - cầu, quy luật giá trị thặng dư quy luật cạnh tranh... Trong các quy luật trên, quy luật giá trị là quy luật cơ bản của sản xuất hàng hoã. Quy luật giá trị được biểu hiện thông qua giá cả thị trường. Quy luật giá trị muốn biểu hiện yêu cầu của mình bằng giá cả thị trường phải thông qua sự vận động của quy luật cung - cầu.

2.2. Các chức năng của thị trường

Chức năng của thị trường là những tác động khách quan vốn có bất nguồn từ bản chất của thị trường tới quá trình tái sản xuất và tới đời sống kinh tế - xã hội. Trong quá trình vận động sản phẩm xã hội từ nơi sản xuất tới nơi tiêu dùng, thị trường đã thực hiện các chức năng quan trọng sau:

- Chức năng thừa nhận: Trong nền kinh tế thị trường, hầu hết các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ sản xuất ra đều được đem trao đổi buôn bán trên thị trường. Việc hàng hoá bán ra được là nhờ chức năng thừa nhận của thị trường. Thị trường thừa nhận chính là người mua chấp nhận mua hàng và do đó hàng hoá bản được và như vậy có thể nói về cơ bản quá trình tái sản xuất xã hội của hàng hoá đã hoàn thành. Do đó, thị trường là nơi để các chủ thể kinh doanh thể hiện khả năng cạnh tranh của mình và qua sự cạnh tranh đó các chủ thể kinh doanh thấy rõ mình có thể đứng vững hay thất bại. Và cũng nhìn vào đó các chủ thể sẽ quyết định được loại hàng hoa mà mình sẽ kinh doanh. Nói cho cùng đây cũng là thể hiện chức năng thừa nhận của thị trường thông qua tác động của các chủ thể kinh doanh.

Chức năng thực hiện: Thị trường chính là nơi diễn ra các hoạt động mua bán hàng hoá và cung ứng dịch vụ. Nói cách khác, thị trường thực hiện hành vi trao đổi hàng hoá, thực hiện cân bằng cung - cầu của từng hàng hoá, thực hiện giá trị hàng hóa thông qua giá cả, thực hiện việc trao đổi thông qua giá trị. Người bán cần giá trị hàng hoá, người mua cần giá trị sử dụng của hàng hoá. Nhưng sự thực hiện về giá trị chỉ xảy ra khi nào thực hiện được giá trị sử dụng, bởi vì hàng hoá hoặc dịch vụ nào dù là được tạo ra với chi phí thấp nhưng không phù hợp với nhu cầu thị trường và xã hội thì cũng không thể tiêu thụ hoặc bán được. Như vậy, thông qua chức năng thực hiện của thị trường, các hàng hoá, dịch vụ hình thành nên các gía trị trao đổi của mình để làm cơ sở cho việc phân phối các nguồn lực.

- Chức năng điều tiết: Nhu cầu thị trường là động lực thúc đẩy quá trình sản xuất. Thị trường là tập hợp các hoạt động của quy luật kinh tế của thị trường. Nói cách khác, thị trường có chức năng diều tiết kích thích sản xuất xã hội chức năng này của thị trường được thể hiện ở chỗ: Thông qua nhu cầu thị trường, các doanh nghiệp, các nhà sản xuất bằng nghệ thuật của mình lựa chọn được sản phẩm thích hợp để sản xuất, tìm được nơi tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ nhằm đạt được lợi nhuận cao, đồng thời cung cố được địa vị của mình và tăng cường sức cạnh tranh. Hơn nữa sự điều tiết kích thích của thị trường còn được thể hiện ở chỗ: Thị trường chỉ thừa nhận những sản phẩm có chi phí sản xuất thấp, chi phí lưu thông thấp hoặc ở mức trung bình do vậy khuyến khích các doanh nghiệp cải tiến sản xuất, giảm chi phí tới mức thấp nhất.

Thông qua thị trường, người tiêu dùng hay người mua có thể lựa chọn hàng hoá, dịch vụ đáp ứng được nhiều nhất nhu cấu của mình và giá cả thấp nhất. Nói cách khác, thị trường cho phép người tiêu dùng mua được những hàng hoá, dịch vụ có lợi nhất cho mình. Như vậy, thị trường vừa kích thích người sản xuất sử dụng hợp lý các nguồn lực của mình, vừa kích thích người tiêu dùng sử dụng có hiệu quả ngân sách của mình.

- Chức năng thông tin: Thị trường thực hiện chức năng cung cấp thông tin về nhu cầu thị trường, về thị trường, về tổng số cung - cấu, thị hiếu khách hàng, quan hệ cung - cầu của từng loại hàng hoá, dịch vụ, chất lượng sản phẩm, các điều kiện tìm kiếm nguồn đầu vào, các đơn vị sản xuất và phân phối cho người mua và người bán. Thông qua đó các doanh nghiệp có thể trả lời các câu hỏi về thị trường mục tiêu, về dụng lượng thị trường, thị trường cạnh tranh.

Tóm lại thị trường cung cấp những thông tin hết sức cần thiết đối với người sản xuất, người tiêu dùng để họ có thể đưa ra những quyết định thích hợp đem lại lợi ích hay hiệu qủa cho mình.

Tài liệu tham khảo

Johnson C.: MITI and the Japanese miracle: The growth of industrial policy, 1925-1975, Stanford, Stanford University Press, 1982.

 


[1] Johnson C.: MITI and the Japanese miracle: The growth of industrial policy, 1925-1975, Stanford, Stanford University Press, 1982.

Đăng ký nhận email

Đăng ký email để có thể có được những cập nhật mới nhất về tải liệu được đăng tải trên website

Tập san đã phát hành