In trang này
Thứ năm, 23 Tháng 9 2021 09:25

KHÁI QUÁT MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ TIÊU CHÍ NƯỚC CÔNG NGHIỆP TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Các kỳ Đại hội Đảng đã đặt ra mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành đất nước theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tuy nhiên, đến nay Việt Nam vẫn chưa có bộ tiêu chí nào được xem là chính thống làm cơ sở cho việc đánh giá mức độ hoàn thành mục tiêu phấn đấu trở thành nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Ở mỗi gia đoạn phát triển khác nhau, do bối cảnh trong nước và tình hình quốc tế có nhiều thay đổi vì dịch bệnh nên yêu cầu phát triển kinh tế xã hội đặt ra cũng có những thay đổi nhất định, chính vì vậy nhận thức về nội hàm và tiêu chí đánh giá nước công nghiệp cũng có những thay đổi nhất định trong thời đại công nghệ phát triển. Chúng tôi xin giới thiệu khái quát về tiêu chí nước công nghiệp giúp các đại biểu tham khảo để có thêm thông tin, kiến thức khi tham gia thảo luận báo cáo kinh tế xã hội hàng năm cũng như tham gia góp ý các chương trình mục tiêu quốc gia, các vấn đề quan trọng của đất nước trong thời gian tới.

1. Khái quát quan niệm về nước công nghiệp trên thế giới

Có rất nhiều thuật ngữ được sử dụng để phân biệt nhóm quốc gia này với nhóm các quốc gia khác, trong đó một số thuật ngữ có thể sử dụng thay thế cho nhau. Các nhà kinh tế học thường dựa trên tình trạng phát triển của mỗi nước để nhóm các nước thành các nước giàu và các nước nghèo hoặc các nước phát triển và các nước chưa phát triển hay các nước phát triển hơn và các nước kém phát triển hơn. Các nước giàu cũng thường được gọi là các quốc gia công nghiệp hoặc nước hậu công nghiệp. Trên cơ sở ghi nhận sự thay đổi có tính liên tục, Perkin (2013) trong cuốn Kinh tế học phát triển đã nhóm các nước trên thế giới thành hai nhóm chính là nhóm các nước phát triển và nhóm các nước đang phát triển. Đây là cách phân loại phổ biến nhất hiện nay đã được các nhà kinh tế học phát triển thường dùng và được nhiều tổ chức quốc tế áp dụng. Bên cạnh đó, còn xuất hiện các nhóm nước như nước công nghiệp mới (NICs), các nhóm nước G7, G8, G20. Để hiểu rõ hơn quan niệm về thuật ngữ nước công nghiệp, chúng ta sẽ làm rõ khái niệm, đặc điểm và tên gọi của các thuật ngữ trên.

Nước phát triển là thuật ngữ thường được dùng để chỉ các nước có nền kinh tế tiên tiến (advanced ecomomies), các nước phát triển hơn (more developed countries), các nước thế giới thứ nhất (first world country), các nền kinh tế đã công nghiệp hóa (industrialized economies). Những quốc gia có thu nhập cao nhất còn được gọi là nước hậu công nghiệp vì giá trị tạo ra từ lĩnh vực dịch vụ (như tài chính, nghiên cứu và phát triển, y tế,...) cao hơn các lĩnh vực khác, chữ không phải lĩnh vực chế tạo máy như trước đây. Những nước này thường có chỉ số phát triển con người (HDI) và tổng thu nhập quốc gia bình quân đầu người (GNI/người) ở mức rất cao.

Các nước phát triển cũng còn được gọi là nước công nghiệp hoặc các nước thuộc thế giới thứ nhất. Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế, thế giới có 29 nước công nghiệp (hay nước tiên tiến) bao gồm 7 nước thuộc nhóm G7 và 22 quốc gia và vùng lãnh thổ khác còn lại, bao gồm: Hàn Quốc, Australia, Síp, Đan Mạch, Hongkong, Iceland, Israel, New Zealand, Na Uy, Singapore, Thụy Điển, Thụy Sĩ, Đài Loan, Áo, Bỉ, Phần Lan, Hy Lạp. Ireland, Luxembourg, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha. Ngoại trừ Hongkong và Đài Loan, các nước này cũng là thành viên của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), Cả 29 nước và vùng lãnh thổ đều được Ngân hàng Thế giới xếp vào nhóm các quốc gia có thu nhập cao. Ngoài 29 nước và vùng lãnh thổ trên, trong danh sách của Cục Tình bảo Trung ương Hoa Kỳ (CIA) còn có Andorra, Bermuda, Quân đảo Faroe, Liechtenstein, Malta, Monaco, San Marino, Vatican được xếp vào nhóm nước tiên tiến.

Nhóm các nước 07 (Group of Seven) là tập hợp bảy cường quốc kinh tế lớn có nên công nghiệp và công nghệ tiên tiến nhất thế giới. Nhóm này gồm các nước Pháp, Đức, Italy, Nhật Bản, Anh, Hoa Kỳ và Canada. Nhóm các nước G8 là tập hợp 8 quốc gia có nền công nghiệp hàng đầu của thế giới bao gồm Pháp. Đức, Italy, Nhật Bản, Anh, Hoa Kỳ, Canada và Nga (gia nhập từ năm 1998 nhưng đến năm 2014 thì bị loại khỏi G8). Nhóm G7 khác với nhóm G8 bởi nhóm G8 là tập hợp cấp thượng đỉnh của 8 quốc gia và do nguyên thủ quốc gia tham dự thưởng thảo luận về những vấn đề chính trị trong khi G7 là do bộ trưởng tài chính đảm nhiệm và chủ đề thảo luận chỉ hạn chế trong phạm vi các vấn đề kinh tế. Nga không được tham dự hội nghị dành cho các bộ trưởng tài chính vì Nga không phải là cường quốc kinh tế. Do tầm quan trọng trong nền kinh tế toàn cầu, hàng năm, năm quốc gia gồm Ấn Độ, Brazil, Hàn Quốc, Mexico và Trung Quốc gặp mặt nhóm G8 để bàn bạc các vấn đề tài chính, nhóm này được biết đến dưới cái tên G8+5. Điểm nhấn của G8 là hội nghị thượng đỉnh về kinh tế và chính trị được tổ chức hàng năm với sự tham dự của những người đứng đầu nhà nước với các quan chức quốc tế, đồng thời cũng có nhiều hội nghị bên lễ về khảo sát chính sách. Việc tước tư cách thành viên G8 của Nga là đòn đáp trả từ các nước phương Tây, sau khi Nga sáp nhập bán đảo Krym ở miền Nam của Ukraina; từ đó G8 chỉ có 7 nguyên thủ quốc gia họp mặt. G8 không được hỗ trợ bởi một tổ chức xuyên quốc gia như Liên hợp quốc hay Ngân hàng Thế giới. Ghế chủ tịch của nhóm được luân phiên giữa các nước thành viên, với trách nhiệm chủ tịch tính từ ngày 01/01 hàng năm. Nước giữ ghế chủ tịch tổ chức một loạt các hội nghị cấp bộ trưởng, từ đó dẫn đến hội nghị thượng đỉnh giữa các nguyên thủ trong 3 ngày vào giữa năm.

G20 là diễn dàn của 20 nền kinh tế lớn bao gồm 19 quốc gia có nền kinh tế lớn nhất trên thế giới (tính theo GDP PPP) và Liên minh châu Âu (EU). Được chính thức thành lập từ năm 1999 và hiện nhóm G20 đang chiếm hơn 85% quy mô nền kinh tế thế giới. G20 bao gồm các nước công nghiệp phát triển (G7), Liên minh châu Âu (EU) và các quốc gia khác như: Hàn Quốc, Argentina, Australia, Brazil, Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia, Mexico, Nga, Saudi Arabia, Nam Phi và Thổ Nhĩ Kỳ.

Nước công nghiệp mới (Newly Industrialized Country - NIC) là thuật ngữ được sử dụng để chỉ các quốc gia mới công nghiệp hóa. Thuật ngữ nước công nghiệp mới" bắt đầu được sử dụng ở thập niên 1970 khi “Bốn con hổ châu Á" là Hongkong (khi đó còn là thuộc địa của Anh). Hàn Quốc, Singapore và Đài Loan nổi lên với sự tăng trưởng ngoạn mục từ thập niên 1960. Ngày nay, các quốc gia và vùng lãnh thổ này đã vượt qua giai đoạn công nghiệp hóa, và “NICs" được dùng chỉ các nước tiếp bước con đường thành công của họ. Bốn con hổ châu Á giờ đây đã đạt trình độ tương đương các nước phát triển với tiến trình cởi mở chính trị. GDP bình quân đầu người cao nhờ áp dụng chính sách kinh tế hướng về xuất khẩu. Các quốc gia và vùng lãnh thổ này có chỉ số phát triển con người (HDI) ở mức cao. "Bốn con hổ châu Á" được gọi là các nước và vùng lãnh thổ công nghiệp mới thế hệ thứ nhất để phân biệt với các nước công nghiệp hóa đi sau. Đây là các quốc gia chưa đạt được trình độ tiến bộ về kinh tế - xã hội như các nước thuộc thế giới thứ nhất nhưng có sự phát triển vượt trội so với các nước đang phát triển thuộc thế giới thứ ba. Quá trình công nghiệp hóa nhanh là một chỉ số quan trọng để trở thành một nước công nghiệp mới. Các nước và vùng lãnh thổ công nghiệp mới có đặc điểm chung là:

- Quyền dân sự và tự do xã hội được cải thiện;

- Kinh tế chuyển đổi từ nông nghiệp sang công nghiệp, đặc biệt là lĩnh vực chế tạo;

- Nền kinh tế thị trường ngày càng mở, cho phép tự do thương mại với các nước trên toàn thế giới;

- Các tập đoàn quốc gia lớn bành trướng hoạt động ra toàn cầu;

- Hấp thu luồng đầu tư tư bản dồi dào từ nước ngoài;

- Lãnh đạo chính trị mang lại ảnh hưởng lớn đến sự thúc đẩy kinh tế.

Ngày nay, các nước công nghiệp mới “NICs” được dùng chỉ các nước tiếp bước con đường thành công của bốn con hổ châu Á bao gồm Nam Phi, Mexico, Brazil, Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia, Malaysia, Philipinnes, Thái Lan, Thổ Nhĩ Kỳ.

Các nước công nghiệp mới thường thu được lợi ích trong thương mại quốc tế nhờ chi phí lao động cạnh tranh đưa đến giả sản phẩm thấp. Kết quả là chi phí sản xuất hàng hóa và dịch vụ ở các nước này rẻ hơn rất nhiều so với ở các nước phát triển, gây áp lực giảm tiền lương ở các nước này, nơi mà chi phí sinh hoạt cao hơn và công đoàn cũng như các tổ chức khác của người lao động có tiếng nói chính trị. Trung Quốc và Ấn Độ là những nước có quy mô dân số khổng lồ (tổng cộng hơn 2 tỷ người), do đó mặc dù thu nhập bình quân đầu người còn thấp, quy mô kinh tế của họ vẫn có thể cao hơn nhiều nước phát triển khác. Một điều đáng lưu ý là với chỉ số sức mua tương dương (PPP), ở Trung Quốc và Ấn Độ, người dân hưởng mức giá cả các mặt hàng cơ bản thấp hơn rất nhiều so với ở các nước phát triển.

Các nước đang phát triển là những quốc gia có mức sống còn khiêm tốn, có nền tảng công nghiệp kém phát triển và có chỉ số phát triển con người (HDD) không cao. Ở các nước này, thu nhập bình quân đầu người thấp, nghèo nàn phổ biến và cơ cấu tư bản thấp. Khái niệm "Nước đang phát triển" gần nghĩa với thế giới thứ ba, thường dùng trong Chiến tranh lạnh. Các nước đang phát triển có mức độ phát triển của xã hội bao hàm kết cấu hạ tầng ở mức độ khiêm tổn cả về mặt vật chất và thể chế.

Các nước đang phát triển thường có trình độ công nghiệp hóa chưa cao như các nước công nghiệp mới. Nhìn chung, đây là các quốc gia có mức sống thấp, chưa đạt được mức độ công nghiệp hóa tương xứng với quy mô dân số. Có một sự tương quan chặt chẽ giữa mức thu nhập bình quân đầu người thấp với sự gia tăng dân số nhanh chóng, kể cả giữa các quốc gia và giữa các nhóm dân cư trong một quốc gia. Năm 2016, Ngân hàng Thế giới (WB) quyết định không dùng thuật ngữ các nước phát triển hay các nước đang công nghiệp hóa vì bản thân các thuật ngữ này chỉ một quá trình “ĐANG" rất mơ hồ và không chỉ rõ được hình ảnh của quốc gia tại một thời điểm nhất định, nước có thu nhập thấp cũng đang phát triển/đang công nghiệp hóa và nước có thu nhập trung bình cao cũng đang phát triển/đang công nghiệp hóa.

Nước kém phát triển hay còn gọi là các nước chậm phát triển, thậm chí "nước kém phát triển nhất - LDC". Khái niệm LDC được nêu lên đầu tiên năm 1964 tại Hội nghị của Liên hợp quốc về thương mại và phát triển (UNCTAD), nhưng đến UNCTAD II tại New Delhi năm 1968, các nước mới có đồng thuận về phạm trà LDC để chỉ một nhóm nước có những yếu kém, tụt hậu, kém cạnh tranh trong số các nước đang phát triển. Đến năm 1971, Liên hợp quốc lần đầu tiên thỏa thuận về danh sách 25 nước trong danh sách LDC. Các nước này không chỉ có mức thu nhập bình quân đầu người thấp, mà còn phải đối mặt với các vấn đề cơ cấu kinh tế mang tính thủ công yếu kém. Cứ ba năm một lần, Ủy ban Kinh tế - Xã hội (ECOSOC) của Liên hợp quốc cập nhật lại danh sách này. Các nước kém phát triển nhất là những quốc gia được Liên hợp quốc xếp vào nhóm có các chỉ tiêu thấp nhất về phát triển kinh tế - xã hội, chỉ số phát triển con người (HDD) thấp nhất thế giới, đặc biệt là ba tiêu chỉ: (i) GNI/người thấp; (ii) nguồn nhân lực yếu kém (dựa trên các tiêu chí về dinh dưỡng, sức khỏe, giáo dục và nạn mù chữ); (iii) kinh tế dễ bị tổn thương (dựa trên nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu, xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ mang đặc tính thủ công, nhỏ lẻ và số đông dân cư sống trong tình trạng nghèo đói bởi các thảm họa tự nhiên). WTO và nhiều tổ chức quốc tế khác cũng đồng ý với các tiêu chí này để xác định các nước trong nhóm LDC. Năm 2018, có 10 quốc gia nghèo nhất thế giới tính theo GDP bình quân đầu người trung bình (theo sức mua tương đương) là 1.275 USD. Trong đó, 3 quốc gia nghèo nhất là Burundi với mức GDP bình quân đầu người chỉ có 727 USD, Cộng hòa Trung Phi và Cộng hòa dân chủ Congo cũng chỉ có mức GDP bình quân đầu người tương ứng 746 và 791 USD/người/năm.

Nước công nghiệp và công nghiệp hóa là hai khái niệm không đồng nhất. Theo nghĩa hẹp, công nghiệp hóa được hiểu là một quá trình, cách thức phát triển của xã hội trong một giai đoạn nhất định. Đó là quá trình biến nền sản xuất xã hội chủ yếu dựa trên phương thức sản xuất nông nghiệp sang phương thức sản xuất công nghiệp, trên cơ sở thay thế lao động thủ công bằng máy mốc. Công nghiệp hóa lúc này đơn giản chỉ là quá trình nâng cao tỷ trọng của công nghiệp trong toàn bộ các ngành kinh tế của nền kinh tế. Đó có thể là gia tăng tỷ trọng về lao động, nhất là về giá trị gia tăng, v.v... Đây cũng là quá trình chuyển biến kinh tế - xã hội từ nền kinh tế với mức độ tập trung tư bản nhỏ bé (xã hội tiền công nghiệp) sang nền kinh tế có công nghiệp chiếm vị trí áp đảo không chỉ về tỷ trọng trong các ngành kinh tế mà còn là phong cách công nghiệp trong toàn xã hội.

Theo cách hiểu rộng hơn, người ta nhận thấy công nghiệp hóa không chỉ là phát triển công nghiệp mà là việc đưa "công nghiệp" vào các thành tố của nền kinh tế, trước hết là giảm tỷ trọng của nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, ứng dụng các phong cách làm việc của nền đại công nghiệp và công nghệ hiện đại trong toàn bộ nền kinh tế. Lúc này, sự chuyển biến kinh tế - xã hội đi đôi với tiến bộ công nghệ. Theo xu hướng này, công nghiệp hóa chính là sự tiếp tục phổ biến cách thức tổ chức sản xuất theo lỗi công nghiệp ra tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân. Theo cách hiểu này công nghiệp hóa được hiểu gần giống với khái niệm “hiện đại hóa" nền kinh tế, và vì thế, đó là quá trình phát triển liên tục ngày càng tiên tiến hơn, ngay cả với một nền kinh tế có công nghiệp đã khá phát triển. Do bản chất của phương thức sản xuất công nghiệp gắn liền với kỹ thuật sản xuất tiên tiến, với sự phát triển của khoa học - công nghệ hiện đại, nên trình độ công nghệ của lỗi sản xuất công nghiệp thời kỳ sau bao giờ cũng cao hơn thời kỳ trước. Vì vậy, để nhấn mạnh yêu cầu về mức độ “hiện đại" của công nghệ sản xuất theo lối công nghiệp, khái niệm hiện đại hóa được sử dụng cặp đối với khái niệm công nghiệp hóa và đôi khi được dùng chỉ như một khái niệm: “công nghiệp hóa, hiện đại hóa".

Tuy có hai cách hiểu về công nghiệp hóa như trên, nhưng khi bàn tới các chính sách, mô hình công nghiệp hóa, hầu hết các nhà nghiên cứu đều dựa trên cách hiểu công nghiệp hóa theo nghĩa hẹp, bởi tính thực tế và thiết thực của cách tiếp cận.

Lịch sử công nghiệp hóa của những nền kinh tế đã hoàn thành quá trình công nghiệp hóa cho thấy, so với lịch sử phát triển kinh tế của đất nước, thời kỳ công nghiệp hóa thường diễn ra trong một giai đoạn lịch sử nhất định; nghĩa là có khởi đầu và có kết thúc. Nội dung của giai đoạn lịch sử ấy là quá trình biến nền sản xuất dựa trên phương thức sản xuất nông nghiệp sang phương thức sản xuất công nghiệp, chuyển từ kỹ thuật sản xuất thủ công sang sản xuất chủ yếu bằng máy móc. Mức độ dài ngắn của quá trình công nghiệp hóa ở các nước không giống nhau. Với những nước đi tiên phong trong quá trình công nghiệp hóa, quá trình công nghiệp hóa về cơ ban kéo dài hàng trăm năm. Lý do chủ yếu mang tính khách quan nhiều hơn, do phải trả giá cho sự "dò đường", xét về mọi phương diện. Những nước công nghiệp hóa đi sau có nhiều loại khác nhau, một số thành công với thời gian chỉ vài ba thập kỷ, nhiều nước khác mãi đến nay vẫn còn dang trong giai đoạn đầu của công nghiệp hóa. Điều này đã khiến cho nhiều người đồng nhất hai thuật ngữ nước công nghiệp và công nghiệp hóa, coi phát triển ngành công nghiệp, trong đó ngành chế biến, chế tạo là quan trọng nhất theo nghĩa hẹp, là con đường để trở thành nước công nghiệp.

Tuy nhiên, thực tế một số nước đã tiến hành công nghiệp hóa trong nhiều năm nhưng chưa thành công như Malaysia, Việt Nam, v.v... Bên cạnh đó, với sự xuất hiện của nền kinh tế tri thức và quá trình toàn cầu hóa, một số nước không nhất thiết phải đi qua con đường công nghiệp hóa vẫn có thể trở thành nước phát triển hay nước công nghiệp như Singapore, Thụy Sĩ, Canada, New Zealand, Australia, Israel vì họ có GNI/người rất cao, có nước đạt trên 50.000 USD. Hơn nữa, ngành công nghiệp theo nghĩa rộng không đơn giản chỉ là ngành công nghiệp chế biến, chế tạo mà được hiểu theo nghĩa rộng hơn bao gồm cả các ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao như công nghiệp ngân hàng, hay du lịch (công nghiệp không khói)... Chính vì vậy, có ý kiến cho rằng, ngày nay, cùng với sự hình thành và phát triển của kinh tế tri thức, nhiều nước dường như không đặt vấn để phải tiến hành công nghiệp hóa nữa. Thay vào đó, họ nhấn mạnh nhiều hơn đến quá trình hiện đại hóa nền kinh tế, tức là tạo ra sự tăng trưởng kinh tế hiện đại. Nhà kinh tế học Simon Kuznets (người được giải Nobel về kinh tế đã dùng thuật ngữ tăng trưởng kinh tế hiện đại để phân biệt giai đoạn kinh tế hiện tại khác với những giai đoạn kinh tế truyền thống trước đây. Theo ông, mặc dù tăng trưởng kinh tế hiện đại còn nhiều đặc điểm chưa được thể hiện rõ nét nhưng nhân tố chủ chốt và tính hiện đại của nền kinh tế được thể hiện ở việc ứng dụng khoa học vào giải quyết các vấn đề phát triển kinh tế. Vậy nên, các nhà khoa học cũng tranh luận rất nhiều về việc xác định các tiêu chí để đánh giá khi nào thì một nước được coi là hoàn tất thời kỳ công nghiệp hóa, hay trở thành nước công nghiệp.

Theo cách hiểu như vậy, trong phạm vi của cuốn sách này sử dụng cách tiếp cận nước công nghiệp là thuật ngữ để chỉ thành quả phát triển của một nước khi đạt được các mức độ của nước phát triển với các đặc điểm cơ bản như có thu nhập cao, có chỉ số phát triển con người cao.

Trong lịch sử phân loại các nền kinh tế trên thế giới, không có nhóm nước nào được gọi với thuật ngữ nước công nghiệp theo hưởng hiện đại. Thuật ngữ này là một thuật ngữ riêng có của Việt Nam, thể hiện tính độc đáo duy nhất. Một số quan niệm cho ràng, thuật ngữ "hướng hiện đại" dùng để chỉ hướng đích, tiếp cận với mục tiêu. Một số quan niệm khác lại cho rằng, đó là cách thức phát triển, vì thế nước công nghiệp theo hướng hiện đại là nước phát triển theo kiểu hiện đại, khác với kiểu truyền thống trước đây.

Kết hợp quan niệm về nước công nghiệp và tăng trưởng hiện đại, có thể tiếp cận nước công nghiệp theo hướng hiện đại" mà Việt Nam sử dụng là thuật ngữ để chỉ nước công nghiệp có GNI/ người ở mức cao bằng cách ứng dụng tốt những thành quả khoa học - công nghệ để phát triển. Mục tiêu trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại mà Việt Nam lựa chọn là sẽ được khai thác và nhìn nhận trong bối cảnh mới, hiện đại với sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng công nghiệp 4.0 ngày nay chứ không phải theo hướng phát triển các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo như theo cách hiểu về công nghiệp hóa trước đây.

2. Khái niệm về tiêu chí nước công nghiệp

Mục tiêu (goal) phát triển đất nước thể hiện kết quả đầu ra của nền kinh tế mà mỗi quốc gia cần đạt được tại một giai đoạn cụ thể nào đó trong quá trình phát triển đất nước. Có những loại mục tiêu dài hạn như mục tiêu chiến lược (từ 10 năm trở lên), có những mục tiêu trung hạn (mục tiêu của kế hoạch 5 năm) và có những mục tiêu ngắn hạn hàng năm, hằng tháng. Theo nguyên tắc SMAT, mục tiêu cần đạt được yêu cầu là phải cụ thể (Specific), đo lường được (Measurable), có tính hiện thực (Achievement) và có thời hạn cụ thể (Time bound).

Tiêu chí (criterion), theo Đại từ điển Tiếng Việt, là các chuẩn mực, dấu hiệu làm cơ sở, căn cứ để nhận biết các đặc điểm, các tính chất được dùng làm căn cứ nhận biết và phân biệt một sự vật, một hiện tượng này với các sự vật, hiện tượng khác. Theo UNESCO, tiêu chỉ dùng để đo lường, đánh giá việc đạt các mục tiêu đặt ra trong một thời kỳ nhất định. Các tiêu chí phản ánh yêu cầu, tiêu chuẩn, điều kiện cần đáp ứng để đạt mục tiêu đã đặt ra của một chủ thể trong một khoảng thời gian nhất định. Theo đó, tiêu chí phân loại các quốc gia, các nền kinh tế chính là những căn cứ, những chuẩn mực để xếp loại và phân biệt nhóm quốc gia này khác với nhóm các quốc gia khác theo một mục tiêu nhất định của người phân loại. Các tiêu chỉ dùng để nhận diện và phân biệt các nền kinh tế khác nhau được sắp xếp theo một hệ thống có lôgic gọi là hệ tiêu chí phân loại các nền kinh tế. Hệ tiêu chí có thể bao gồm một tiêu chí cũng có thể bao gồm nhiều tiêu chí khác nhau, mỗi tiêu chỉ có thể được cụ thể hóa bằng các chỉ tiêu khác nhau. Chỉ tiêu là sự cụ thể hóa của các tiêu chí phản ảnh các khía cạnh khác nhau cấu thành nên tiêu chí đó. Với ý nghĩa đó, hệ tiêu chí là tập hợp các tiêu chí, các chỉ tiêu cụ thể đo lường sự phát triển và các mối quan hệ cơ bản của các nền kinh tế. Hệ tiêu chí phản ánh trình độ phát triển của một quốc gia và thể hiện những đặc điểm hay tính chất để nhân diện và phân biệt trình độ phát triển của quốc gia này so với quốc gia khác, do đó phải cụ thể, lượng hóa được, có khả năng tính toán và so sánh được giữa các quốc gia khác nhau trong từng kỳ.

Mục tiêu – Tiêu chí - Chỉ tiêu có mối quan hệ mật thiết với nhau. Mối quan hệ giữa mục tiêu, tiêu chí và chỉ tiêu được thể hiện theo trật tự sau:

Mục tiêu (Goal)

Tiêu chí (Criterion)/Mục tiêu cụ thể (Target)

Chỉ tiêu (Indicator)

Mục tiêu có vai trò quan trọng trong việc làm rõ hướng đích của sự phát triển trong khi tiêu chỉ có vai trò cụ thể hóa các mục tiêu đó. Nếu không có các tiêu chí phát triển đất nước thì không thể xác định là nước đó đã đạt được mục tiêu phát triển của mình ở mức độ nào.

Hệ tiêu chí phát triển đất nước thể hiện các tiêu chí đo lường trình độ phát triển của các quốc gia trong một thời kỳ nhất định. Hệ tiêu chí phải bảo đảm được tính cụ thể, tính định lượng của các mục tiêu trong từng thời kỳ nhất định và được dùng để nhận diện đánh giá mức độ phát triển của đất nước tại thời kỳ đó. Một tiêu chỉ có thể có nhiều hơn một chỉ tiêu để làm rõ chuẩn mực và thể hiện rõ mức độ phát triển của các quốc gia trong từng thời kỳ trong sự so sánh với các quốc gia khác.

Hệ tiêu chí nước công nghiệp là tập hợp các tiêu chí phân ánh thành quả phát triển và đặc điểm, tính chất của một đất nước khi đạt trình độ của nước công nghiệp hay nước phát triển. Hệ tiêu chí nước công nghiệp vừa phản ánh mặt chất, vừa phản ánh mặt lượng của thành quả phát triển đất nước tại thời điểm đạt được nước công nghiệp nước phát triển. Đây là công cụ vĩ mô quan trọng để đánh giá và xác định mức độ đạt được mục tiêu phát triển trong từng thời kỳ của mỗi quốc gia. Theo đó, có thể hiểu, hệ tiêu chí nước công nghiệp theo hướng hiện đại là tổng hợp các tiêu chỉ định tính và định lượng để đo lường thành quả phát triển của một quốc gia khi đạt mục tiêu này. Để đo lường sự tăng trưởng và phát triển kinh tế, người ta thường sử dụng một số tiêu chí sau:

Tổng sản phẩm trong nước (GDP) phản ánh giá trị mới của hàng hóa và dịch vụ được tạo ra của toàn bộ nền kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định. GDP được tính theo giá hiện hành và giả so sánh. GDP có thể được tính bằng 3 phương pháp:

Thứ nhất, theo phương pháp sản xuất, GDP bằng tổng giá trị tăng thêm theo giá cơ bản của tất cả các ngành kinh tế cộng với thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm;

Thứ hai, theo phương pháp thu nhập. GDP được tính bằng cách tính tổng thu nhập tạo nên từ các yếu tổ tham gia vào quá trình sản xuất như lao động, vốn, đất đai, máy móc. Theo phương pháp này, GDP gồm 4 yếu tố là thu nhập của người lao động từ sản xuất (bằng tiền hoặc bằng hiện vật), thuế sản xuất, khấu hao tại sản cố định dùng trong sản xuất và thặng dư sản xuất;

Thứ ba, theo phương pháp sử dụng cuối cùng. GDP được tính bằng tổng tiêu dùng cuối cùng của hộ dân cư và Nhà nước, tích lũy tài sản (tài sản cố định, lưu động và quý hiếm) và chênh lệch xuất - nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ.

Với tư cách là một chỉ tiêu phản ánh quy mô của nền kinh tế, GDP có những nhược điểm nhất định. Simon Kuznets, nguyên Chủ tịch Ủy ban Cố vấn kinh tế của Hoa Kỳ, người được nhận giải thưởng Nobel về kinh tế năm 1971, đã cảnh báo rằng, phúc lợi của một dân tộc không nên được suy luận từ một tiêu chí về thu nhập quốc dân và rằng trên thực tế các thước đo hạch toán quốc gia không có ý định đo lường phúc lợi. GDP không bao gồm yếu tố vốn con người và phát triển xã hội, bảo vệ sinh thái, do vậy không thể bao hàm chất lượng cuộc sống và cũng không phản ảnh được sự phân bố bình quân đầu người một cách trung thực ở những quốc gia có mức chênh lệch giàu, nghèo cao. Vì thế, chiến lược phát triển của một nước nếu chỉ dựa trên việc theo đuổi GDP sẽ dễ bị đi theo mặt trái của áp lực tăng trưởng kinh tế, kết quả là suy thoái môi trường, giá trị tinh thần, văn hóa truyền thống trong xã hội bị chi phối bởi sức mạnh đồng tiền, tiêu dùng và cạnh tranh. Nhiều nhà kinh tế đã nhấn mạnh rằng, một quan niệm phù hợp hơn về phát triển phải vượt lên khái niệm về tích lũy của cải và tăng trưởng GDP.

Tổng sản phẩm quốc gia (GNP) là một chỉ tiêu kinh tế được tính như tổng giá trị bằng tiền của các sản phẩm cuối cùng và dịch vụ mà công dân của một nước làm ra trong một khoảng thời gian nào đó, thông thường là một năm tài chính, không kể làm ra ở dấu (trong hay ngoài nước). Theo Stiglitz và Boadway (1994), thực chất đó là số đo giá trị gia tăng (tạm gọi là thu nhập) của người dân một nước, bao gồm cả thu nhập nhận được do làm việc ở nước ngoài, trừ đi những khoan chi tương tự trả cho người nước ngoài. Như vậy, GNP phản ánh sát hơn mức thu nhập thực tế của người dân mỗi nước.

Tổng thu nhập quốc gia (GNI) là chỉ tiêu phản ánh tổng thu nhập lần đầu được tạo ra từ các yếu tố thuộc sở hữu của quốc gia tham gia vào hoạt động sản xuất trên phạm vi lãnh thổ quốc gia hoặc ở trên lãnh thổ nước ngoài tại một thời kỳ nhất định. Tổng thu nhập quốc gia bằng tổng sản phẩm trong nước (GDP) cộng thêm chênh lệch giữa thu nhập của người lao động ở nước ngoài gửi về và thu nhập của người nước ngoài tại nước đó gửi ra nước ngoài cộng với chênh lệch giữa thu nhập sở hữu nhận được từ nước ngoài với thu nhập sở hữu tra nước ngoài. Theo phương pháp WB Atlas, GNI được tính theo đồng tiền quốc gia, sau đó chuyển đổi ra đồng đôla Mỹ theo tỷ giá chính thức. Khi tính chuyển tỷ giá, người ta phải lấy trung bình gia quyền của năm đó và 2 năm trước, có điều chỉnh theo tình hình lạm phát của 5 nước là Pháp, Đức, Nhật Bản, Anh và Hoa Kỳ. Các số liệu được xử lý từ các số liệu tài khoản quốc gia của WB và số liệu tài khoản quốc gia của OECD. GNI bình quân đầu người là chi tiêu được tính bằng tổng thu nhập quốc gia chia cho dân số trung bình năm (thường được WB tỉnh theo đôla Mỹ và tỉnh theo phương pháp WB Atlas).

Giá trị của GNI và giá trị GNP được tính toán dựa trên các cơ sở khác nhau. GNP dựa trên cơ sở sản xuất ra các giá trị gia tăng mới, còn GNI dựa trên cơ sở thu nhập của người dân từng nước. Như vậy, GNI, GNP phản ánh thu nhập “thực", chúng khác biệt với GDP là quy mô đầu ra, nhưng có thể lại thuộc sở hữu của nước ngoài và phần chuyến đi làm hao hụt khá nhiều GDP Theo tiêu chuẩn quốc tế của WB Atlas, năm 2008, mức GDP bình quân Việt Nam tuy đã là 1.047 USD, nhưng GNI/người chỉ còn 890 USD. tức là chỉ khoảng 90% GDP/người. Năm 2018, theo phương pháp WB Atlas, GNI/người của Việt Nam đạt 2.400 USD, bằng 95% GDP/người (GDP/người đạt 2.540 USD, thấp hơn 4,5 lần so với GDP/người chung của thế giới theo giá so sánh năm 2011). Đó là mức thực tế thu nhập trong so sánh quốc tế của người dân làm ra, thể hiện thực lực của nền kinh tế, không tính đến các khoản thu nhập của người nước ngoài làm tại Việt Nam.

Khi so sánh và đánh giá sự tăng trưởng của các quốc gia, nhiều tổ chức có thể dùng các tiêu chí như GDP, GNP hay GNI hay GNI/người, GDP/người tính theo sức mua tương đương. Tuy nhiên, các tiêu chí này chỉ phản ánh sự tăng trưởng kinh tế về lượng đơn thuần mà chưa phản ánh được sự phát triển về chất của một quốc gia, vì những tiêu chí này không phản ánh được sự thay đổi về chất của mỗi quốc gia khi đạt được sự tăng trưởng kinh tế. Chính vì vậy, UNDP đã lượng hóa tác động của sự tăng trưởng đến sự phát triển con người thể hiện ở cuộc sống khỏe mạnh và trường thọ, có tri thức và những nguồn lực để bảo đảm một cuộc sống tốt hơn qua chỉ số phát triển con người (HDI).

HDI là chỉ số được phát triển bởi nhà kinh tế người Pakistan - Manbub ul-Haq và nhà kinh tế Ấn Độ - Amartya Sen để xem xét sự phát triển của một quốc gia ở nhiều khía cạnh UNDP đề xuất sử dụng HDI là tiêu chí tổng hợp của ba chỉ số bao gồm tuổi thọ, giáo dục và thu nhập. Đây là chỉ số tổng hợp phản ảnh chất lượng cuộc sống, đặc biệt còn được sử dụng để xác định sự ảnh hưởng của các chính sách kinh tế đến chất lượng cuộc sống.

HDI còn thể hiện tính công bằng, dân chủ của xã hội ngay trong nội hàm của các yếu tố cấu thành nên chỉ số này. HDI có giá trị nằm trong khoảng từ 0 đến 1. HDI đạt tối đa bằng 1 thể hiện trinh độ phát triển con người ở mức cao nhất, xã hội công bằng, dân chủ, HDI tối thiểu bằng 0 thể hiện xã hội không có sự phát triển mang tính nhân văn.

Một số người lo ngại HDI bỏ hẹp sự phát triển con người trong ba khía cạnh là giáo dục, tuổi thọ và thu nhập. Để khắc phục các nhược điểm của chỉ số này, UNDP đã liên tục hoàn thiện và thay đổi cách tính toàn cho phù hợp hơn. Tuy nhiên, dù hoàn thiện thể nào thì kết quả cũng cho thấy HDI có mối quan hệ thuận chiều với sự tăng trưởng kinh tế.

Bên cạnh các tiêu chí trên, GDP xanh gần đây cũng được xem xét để đo lượng sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của các quốc gia. Đây là chỉ số do tiến sĩ Pan Yue (Cục phó Cục Môi trường quốc gia của Trung Quốc) khởi xướng, được gọi là “Tổng thu nhập quốc nội xanh” hay Green GDP Đây là một chỉ tiêu đánh giá không chỉ các giá trị gia tăng trong nền kinh tế, mà đã trừ đi những chi phí do ô nhiễm môi trường. “GDP xanh" sẽ không chỉ bao gồm GDP về kinh tế, mà còn cần phải loại trừ hai khoản chính: (1) sự thiệt hại do môi trường (do con người gây ra); (2) các chi phí để bảo vệ và cải thiện môi trường trong một thời kỳ nhất định.

Ngoài ra, hiện nay trên thế giới còn dùng các mục tiêu thiên niên kỷ (MDGs) với rất nhiều mục tiêu và chỉ tiêu để đo lường sự phát triển của mỗi quốc gia. Để đạt được mục tiêu thiên niên kỷ cần có sự tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế không phải là liều thuốc vạn năng để đạt được sự phát triển, vì nó còn phụ thuộc vào sự phân phối thu nhập và chiến lược ưu tiền đối với từng chỉ tiêu cụ thể trong mục tiêu thiên niên kỷ, đặc biệt khi người dân ngày càng quan tâm nhiều hơn đến cảm nhận về hạnh phúc và quyền tự do trong các quốc gia.