Căn cứ quan điểm, định hướng, mục tiêu của Chính phủ trong quản lý nhập khẩu hàng nông sản và kết quả thực trạng áp dụng biện pháp phi thuế quan cũng như kết quả tác động tích cực và tiêu cực của các biện pháp phi thuế quan đến hàng nông sản nhập khẩu, có thể có 3 nhóm giải pháp, trong đó: 1) Nhóm giải pháp thứ nhất là tận dụng tác động tích cực của các biện pháp phi thuế quan đối với hàng nông sản nhập khẩu; 2) Nhóm giải pháp thứ hai là hạn chế tác động tiêu cực của các biện pháp phi thuế quan đối với hàng nông sản nhập khẩu; 3) Nhóm giải pháp thứ ba là cụ thể theo các nhóm hàng nông sản nhằm quản lý nhập khẩu hiệu quả hơn.
Về sản xuất nông nghiệp, sản xuất các mặt hàng nông sản toàn cầu được dự báo tăng lên và nhanh hơn so với tốc độ tăng dân số. Trên cơ sở đó, các giải pháp đưa ra đối với biện pháp phi thuế quan trong quản lý hàng nông sản nhập khẩu cần bảo đảm các nguyên tắc:
Nguyên tắc thứ nhất, việc xây dựng hệ thống biện pháp phi thuế quan cần bảo đảm các nguyên tắc căn bản trong WTO như nguyên tắc tối huệ quốc và đối xử quốc gia của WTO, trong đó không tạo ra sự phân biệt đối xử hoặc ưu đại hơn đối với nhà sản xuất trong nước với cùng một sản phẩm hoặc chủ ý điều chỉnh cơ hội cạnh tranh trên thị trường nội địa.
Nguyên tắc thứ hai, việc thiết kế xây dựng biện pháp phi thuế quan cần đặt trong cơ chế nền kinh tế thị trường, nhưng bảo đảm phù hợp với quan điểm, định hướng và mục tiêu trong chiến lược phát triển hoạt động xuất - nhập khẩu của Việt Nam. Cụ thể, Chính phủ không can thiệp hoặc chủ ý can thiệp vào thị trường hàng nông sản thông qua các biện pháp hỗ trợ trực tiếp cho nhà sản xuất trong nước, hay các biện pháp hỗ trợ không phù hợp với cam kết WTO hoặc các biện pháp gây cản trở đến khả năng tiếp cận thị trưởng của các nước đối tác.
Nguyên tắc thứ ba, quá trình điều chỉnh, bổ sung các văn bản pháp luật liên quan đến biện pháp phi thuế cần dựa trên cơ sở các quy định quốc tế, hướng đến việc quan giảm thiểu chi phí cho doanh nghiệp bằng việc thống nhất giữa các quy định tiêu chuẩn quốc gia và các tiêu chuẩn quốc tế. Bên cạnh đó, căn cứ điều chỉnh bổ sung cần dựa trên những chứng cứ khoa học rõ ràng và thời gian điều chính cũng như áp dụng hợp lý, hoặc các cam kết quốc tế mới trong điều kiện Việt Nam ký kết các hiệp định thương mại khu vực mới.
Nguyên tắc thứ tư, các biện pháp phi thuế quan duge xây dựng và điều chỉnh theo nguyên tắc giảm thiểu các chỉ phí dựa trên những đánh giá tiền tác động về lợi ích, chỉ phí của các biện pháp phi thuế quan mới được đưa ra và tác động sau quá trình thực thi để làm căn cứ điều chỉnh.
Dựa trên những nguyên tắc nêu trên, một số giải pháp cụ thể liên quan đến quá trình quản lý hàng nông sản nhập khẩu bằng biện pháp phi thuế quan như sau:
1. Tận dụng tác động tích cực của các biện pháp phi thuế quan Việt Nam đối với hàng nông sản nhập khẩu
Tiếp tục hoàn thiện văn bản pháp luật quy định về các biện pháp phi thuế quan theo hướng đơn giản hoá, minh bạch hoá, tạo thuận lợi cho khả năng tiếp cận thị trường và thúc đẩy lượng cầu nhập khẩu nông sản hợp lý.
Nhà nước cần rà soát, sửa đổi, bổ sung hằng năm các nghị định, quy định về các biện pháp phi thuế quan đang áp dụng và các thủ tục hành chính trong lĩnh vực quản lý chuyên ngành, đặc biệt đối với hàng nông sản nhập khẩu theo định hướng: i) Rà soát theo chiều dọc từ văn bản luật đến các văn bản dưới luật theo các cấp từ Trung ương địa phương và theo cấp bộ, ngành; ii) Rà soát trên cơ sở den cập nhật những nhu cầu thực tế cuộc sống và những vấn để biến động trong nước và thế giới nhằm bảo đảm các mục đích phi thương mại; iii) Ra soát trên cơ sở lấy ý kiếncộng đồng doanh nghiệp, hiệp hội cơ quan liên quan về trên khai thực hiện các văn ban pháp luật trong quan lý nhập khẩu và quản lý chuyên ngành dễ báo cáo kiến nghị. với bộ, ngành và Chính phu. Từ đó, hợp nhất các văn ban có tính trùng lập ở các cấp bộ, ngành và các cấp từ Trung ương đến địa phương, cắt giam các thủ tục hành chính không cần thiết, đơn gian hoá quy trình thực hiện, đơn giãn hoá hồ sơ và chứng từ cần phải xuất trình. Thực hiện các thủ tục xây dựng nghị định về kết nối và chia se thông tin giữa các cơ quan chính phủ với các bên liên quan nhằm phục vụ công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực quản lý nhập khẩu và quản lý kiểm tra chuyên ngành.
Triển khai phương thức cắt giam quy trình trong kiểm tra chuyên ngành nhằm giải quyết tình trạng các bộ quản lý chuyên ngành chậm cung cấp lộ hàng cho các doanh nghiệp nhập khẩu. Bên cạnh đó. Nhà nước cần phân cấp quản lý chuyên ngành cho một bộ chủ quản, loại bỏ tình trạng một sản phẩm do nhiều bộ, ngành quản lý chuyên ngành khác nhau dẫn đến chậm trễ và phức tạp trong quá trình kiểm định, lý chuyên ngành. Đồng thời, đơn gian hoá hồ sơ trên nguyên tắc doanh nghiệp áp dụng phương thức tự khai, tự chịu trách nhiệm về nội dung khai báo.
Điều chỉnh và bổ sung kịp thời các quy định kiểm mất hàng nông sản nhập khẩu tiệm cận gần với các quy đình chung của quốc tế, trên cơ sở do lường mức độ hai hoà hoá giữa quy định trong nước và quốc tế cũng như các căn tử minh chứng khoa học về việc áp dụng. Tuy nhiên, quátrình điều chỉnh cũng cần thực hiện theo lộ trình phù hợp với trình độ phát triển kinh tế của Việt Nam, đặc điểm phát triển của ngành nông nghiệp nổi riêng cũng như định hướng xuất - nhập khẩu theo từng giai đoạn.
Việc điều chỉnh, bổ sung các văn ban pháp luật quy định liên quan đến biện pháp phi thuế quan cần điều chính về trách nhiệm xử phạt và các trường hợp vi phạm, trong đó gắn liền trách nhiệm dân sự và hình sự theo mức độ nghiêm trọng của trường hợp vi phạm. Tăng trách nhiệm của các nhà sản xuất và doanh nghiệp nhập khẩu đối với việc thực hiện các nguyên tắc quản lý hàng nông sản nhập khẩu liên quan đến các mục tiêu an toàn thực phẩm, an ninh lương thực, an ninh quốc gia và sức khỏe cộng đồng động thực vật, môi trường.
Tăng mức độ hài hoà hoá giữa các tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc gia và quy định quốc tế
Tăng mức độ hài hoà hoá của các biện pháp phi thuế quan, điển hình là biện pháp SPS (kiểm dịch vệ sinh động thực vật), TBT (rào cản kỹ thuật thương mại) so với khu vực và quốc tế thông qua việc tăng cường ký kết các thỏa thuận hay hiệp định hài hoà hoá các biện pháp nêu trên trong khu vực và quốc tế. Cụ thể, Việt Nam cần đẩy nhanh quá trình thực thi hiệp định tạo thuận lợi hoá thương mại của WTO, thúc đẩy cơ chế hải quan một cửa quốc gia và ASEAN để hỗ trợ cho việc hợp nhất các quy định, tiêu chuẩn khu vực và quốc tế. Ngoài ra, Chính phủ và các cơ quan bộ, ngành cần tăng cường triển khai kết nối trao đổithông tin với một số đối tác ngoài ASEAN như Liên minh kinh tế Á Âu (EAEU), Hàn Quốc, các đối tác trong CPTPP (Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên hái Bình Dương) về các vấn đề chứng nhận xuất xứ, tờ khai hải quan. Bên cạnh đó, xét riêng về lĩnh vực kiểm dịch vệ sinh động thực vật, đến nay Tổng cục Hải quan đã tiếp nhận một số để nghị của đối tác New Zealand về trao đổi chứng nhận kiểm dịch, do đó cần tranh thủ cơ hội để tiến hành đàm phán nhằm đạt được thỏa thuận công nhận lẫn nhau trong vấn để kiểm dịch, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp tiếp cận thị trường. Đồng thời, các bộ, ngành khác, đặc biệt là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, cần tăng cường đàm phán trao đổi công nhận lẫn nhau về chứng nhận kiểm dịch điện tử với các đối tác nhập khẩu chính của Việt Nam.
Xây dựng và triển khai hệ thống công nghệ thông tin; hoàn thiện cổng thông tin thương mại quốc gia, cổng thông tin một cửa quốc gia. Tiếp tục xây dựng và phát triển hệ thống công nghệ thông tin phục vụ triển khai cơ chế một cửa quốc gia, cơ chế một cửa ASEAN trên nền tảng công nghệ tiên tiến phù hợp với xu thế phát triển của cách mạng công nghiệp lần thứ tư, bảo đảm đầu tư hiệu quả.
Tiếp tục triển khai và xây dựng cổng thông tin thương mại quốc gia, trong đó cần cập nhật nhanh chóng việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành, bổ sung, hết hiệu lực cho doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài; thủ tục hành chính đối với quản lý hàng hoáxuất - nhập khẩu, quy trình kiểm tra chuyên ngành (cụ thể là kiểm tra kiểm dịch và các tiêu chuẩn kỹ thuật. Đồng thời, cơ sở dữ liệu cần thuận tiện cho việc tra cứu đến từng mã mặt hàng mã HS 6 chữ số và cập nhật các vấn đề quan ngại trong thương mại do các thành viên WTO thông báo. Đặc biệt, cơ sở dữ liệu liên quan đến đánh giá mức độ tin cậy, lịch sử hoạt động của các doanh nghiệp nhập khẩu, công khai các xử phạt và danh sách các doanh nghiệp nhập khẩu vi phạm các quy định liên quan đến an toàn thực phẩm cũng như các hình thức vi phạm khác tuỳ theo mức độ nghiêm trọng.
Tăng cường công tác thông tin, truyền thông về chất lượng và an toàn thực phẩm của hàng nông sản nhập khẩu và trong nước. Chính phủ cần tăng cường tuyên truyền phổ biến các quy định, tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật về nhập khẩu, phân phối hàng nông san nhập khẩu và sản xuất nông sản trong nước về an toàn thực phẩm, kèm với đó là các xử phạt hành chính, hình sự khi có các hành vi vi phạm theo quy định của pháp luật.
Chính phủ, các cơ quan bộ ngành, các hiệp hội ngành cần chủ động phối hợp với đơn vị tổ chức truyền thông nhằm cung cấp thông tin thị trường một cách đầy dủ. chính xác, kịp thời về vấn đề an toàn thực phẩm trên thị trưởng, dự báo các nguy cơ dịch bệnh hoặc các chất nguy hại trên ca số căn cứ khoa học nhậm nhận nhười tiêu dùngcó sự lựa chọn phù hợp. Bên cạnh đó, về công tác quản lý vật tư nông nghiệp trong sản xuất, cần tăng cường quảng bá cho các cơ sở sản xuất, cơ sở phân phối sản phẩm chất lượng cao, hàng nông sản an toàn, công khai các cơ sở kinh doanh hoặc tham gia phân phối hàng nông sản nhập khẩu vi phạm quy định về an toàn thực phẩm.
2. Hạn chế tác động tiêu cực của các biện pháp phi thuế quan Việt Nam đối với hàng nông sản nhập khẩu
Kiểm soát, phỏng ngửa rủi ro liên quan đếnSPS và TBT
Cần xây dựng hệ thống canh báo sớm các vấn đề gây nguy hại đến sức khỏe cộng đồng, môi trường và sức khỏe động thực vật dựa trên các chứng cứ khoa học, các căn cứ pháp lý và các thông tin biến động thị trường. Hệ thống thông tin trên sẽ cho phép Chính phủ, nhà sản xuất trong nước và nước ngoài, người tiêu dùng chủ động phản ứng nhanh khi phát hiện rủi ro đối với sức khỏe cộng đồng trong chuỗi thực phẩm và hàng hoá nông sản nhập khẩu. Trên hệ thống cảnh báo sớm cấp quốc gia cần xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin các độc tố, vi chất gây hại cho sức khỏe con người, giống loài và môi trường, cập nhật các thông tin liên quan đến dịch bệnh mới trong khu vực và trên thế giới. Bên cạnh đó, cơ sở dữ liệu cần cung cấp thông tin về kết quả từ chối hoặc kết quả kiểm dịch, thông tin các lô hàng từ các đối tác nhập khẩu không đủ điều kiện nhập khẩu hoặc bị thu hổi trên thị trường. Từ đó, đánh giá mức độ tin cậy của các đối tác nhập khẩu và phân loại đối tác.
Chủ động phân loại rủi ro và đánh giá năng lực cácdoanh nghiệp nhập khẩu căn cứ trên mức độ rui ro, mức độ vi phạm. Quá trình phân loại rủi ro và đánh giá doanh nghiệp cần thực hiện từ việc rà soát các lịch sử giao dịch sang chủ động dự báo các khả năng phát sinh rủi ro trong tương lai. Phân loại rủi ro cần xem xét nguy cơ phát sinh trong chuỗi sản xuất của doanh nghiệp từ nguồn nguyên liệu và công đoạn sơ chế đến sản xuất sản phẩm cuối cùng. Phương pháp này phù hợp với không chỉ các đối tượng doanh nghiệp nhập khẩu mà hoàn toàn cần thiết đối với các doanh nghiệp trong nước nhập khẩu vật tư nông nghiệp để sản xuất hàng xuất khẩu.
Cần tăng cường nghiên cứu đánh giá mức độ tác động của các biện pháp phi thuế quan đối với toàn ngành, trong đó đánh giá tác động riêng lẻ đối với các nhóm hàng hoá quan trọng. Đồng thời, đánh giả tác động về lợi ích và chi phí đối với các chủ thể kinh tế bao gồm doanh nghiệp trong nước, doanh nghiệp xuất khẩu và người tiêu dùng.
Thực hiện thí điểm hình thức bảo lãnh thông quan trọng quản lý nhập khẩu
Cần chấm dứt tình trạng mất cân đối cung – cầu. Ấp dụng các biện pháp quản lý rủi ro theo cơ chế thị trường như bảo hiểm, xây dựng hệ thống kho tàng, áp dụng đa dạng các hình thức giao dịch hiện đại (đấu giá, giao sau,thương mại điện tử,...) hạn chế đến mức thấp nhất để tránh các rủi ro về biển động thị trường.
Chính phủ cần từng bước dưa hình thức bảo lãnh thông quan vào triển khai. Đây là hình thức đã được áp dụng tại nhiều quốc gia phát triển trên thế giới như Mỹ. Trong đó, bảo lãnh thông quan là hình thức cam kết bảo lãnh (bảo đảm về mặt tài chính) mà Tổng cục Hải quan yêu cầu từ các pháp nhân (doanh nghiệp nhập khẩu) mong muốn tham gia vào quá trình thương mại hải quan. Cam kết bảo lãnh là hợp đồng ba bên, trong đó một bên được bảo lãnh (doanh nghiệp nhập khẩu) cam kết với bên thứ hai (Tổng cục Hải quan) hay bên nhận bảo lãnh để thanh toán tiền và thực hiện nhập khẩu theo một cách thức nhất định. Bên thứ ba (bên bảo lãnh hay công ty bảo hiểm) đứng ra cam kết thanh toán cho bên nhận bảo lãnh nếu doanh nghiệp nhập khẩu không thanh toán hoặc không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ bắt buộc. Thực tế, hình thức bao lãnh thông quan không chỉ giúp bảo vệ nguồn thu ngân sách của Nhà nước mà còn bảo đảm tính tuân thu với mọi pháp luật và quy định áp dụng đối với hàng hoá nhập khẩu. Hệ thống bảo lãnh thông quan giúp giảm đáng kể các trì trệ trong quá trình nhập khẩu bằng cách cho phép chuyển các yêu cầu về kiểm tra chuyên ngành sang cơ chế sau nhập khẩu, thay vì phải hoàn thành các yêu cầu này mới thông quan như hiện nay. Đây là công cụ hữu ích trong việc gia tăng tạo thuận lợi thương mại cũng như kiểm soát các hoạt động thương mại nhiều rủi ro có thểdẫn đến xung đột thương mại với các quốc gia xuất khẩu và Việt Nam. Về phía doanh nghiệp, các doanh nghiệp nhập khẩu Việt Nam sẽ tiết kiệm được chi phí nhập khẩu nhờ bảo lãnh thông quan mà không cần các chi phí từ chứng thư bảo lãnh của ngân hàng.
Thực thi hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát thực hiện các biện pháp phi thuế quan đối với hàng nông sản nhập khẩu
Quá trình xây dựng các tiêu chuẩn kỹ thuật mới cần thực hiện theo cơ chế hợp tác giữa Nhà nước và từ nhân nhằm bảo đảm đánh giá mức độ phù hợp với thực tiễn áp dụng đồng thời tăng tính trách nhiệm và tự nguyện của doanh nghiệp trong việc thực hiện các tiêu chuẩn, quy chuẩn sau khi có chế tài cụ thể. Mô hình hợp tác Chính phủ và tư nhân giúp khắc phục tình trạng doanh nghiệp tham gia quá ít hoặc quá muộn hoặc thờ ở vào quá trình chuẩn hoá trong hoạt động sản xuất. Khuyến khích các tổ chức hiệp hội sản xuất kinh doanh chủ động ban hành và kiểm soát tiêu chuẩn chất lượng vật tư hàng hóa của tổ chức mình.
Quá trình ban hành và hướng dẫn thực thi các quy định. văn bản pháp luật cần được thông tin rộng rãi, đơn giàn hoá và dễ hiểu, nhưng nhất quán trong việc áp dụng để tạo thuận lợi cho các cơ quan thực thi và các doanh nghiệp dễ dàng thực hiện. Tăng cường phối hợp với cá quan truyền thông tuyên truyền phổ biến thông tin vănbản pháp luật quy định về các biện pháp phi thuế quan nhằm bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm cho người tiêu dùng trong nước, thay đổi hành vi tiêu dùng; đồng thời nâng cao nhận thức về chất lượng và trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong nước và nước ngoài đối với hàng nông sản sạch, chất lượng cao. Tổ chức tuyên truyền rộng rãi và tích cực hỗ trợ kỹ thuật cho người sản xuất kinh doanh theo sát lộ trình thực hiện cam kết quốc tế. Chủ động chuẩn bị việc áp dụng cam kết cho phép các nhà đầu tư nước ngoài tham gia hệ thống phân phổi hàng hóa, tham gia cung cấp dịch vụ cho nông nghiệp, nông thôn.
Củng cố hệ thống tổ chức và cơ chế phối hợp giữa các cơ quan thực thi như hải quan, quản lý thị trường, kiểm dịch động thực vật, kiếm dịch dịch bệnh gây hại để tránh sự chồng chéo trong chức năng, nhiệm vụ. Riêng đối với hàng nông sản nhập khẩu, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đóng vai trò chủ chốt trong việc quản lý chuyên ngành kiểm soát dịch bệnh, tuy nhiên cần cung cố và đẩy mạnh hoạt động của các cơ quan trực thuộc bộ là đầu mối trực tiếp thực thi các hoạt động kiểm dịch, phân tích nguy hai, quản lý chất lượng. Tránh tình trạng quản lý hình thức, vai trò, chức năng không rõ ràng dẫn đến hoạt động thiếu hiệu quả, chặt chẽ tại cửa khẩu nhưng buông lỏng trong công tác hậu kiểm hay kiểm soát khi phân phối trong thị trường nội địa.
Tổ chức giám sát an toàn thực phẩm đối với hàng nông sản có rủi ro cao, nhu cầu tiêu thụ nhiều; trong đóphát triển hệ thống truy xuất nguồn gốc và các kiểm tra liên ngành, thanh tra các cơ sở sản xuất của các doanh nghiệp nhập khẩu mới xác lập quan hệ. Các cơ quan chức năng và các bộ, ngành liên quan cần phối hợp điều tra triệt phá các đường dây nhập lậu, cơ sở phân phối trong nước có liên thông với doanh nghiệp nước ngoài trong việc lưu thông buồn bản các chất cấm/hạn chế trong sản xuất thực phẩm, hàng hoá trong danh mục nhóm 2 (có khả năng gây mất an toàn).
Ứng dụng công nghệ trong truy xuất nguồn gốc và đầu tư cơ sở vật chất, nguồn lực trong hoạt động kiểm tra chuyên ngành đối với hàng nông sản nhập khẩu
Đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ blockchain (cơ sở dữ liệu phân cấp lưu trữ thông tin trông khối thông tin được mã hóa và liên kết với nhau, được mở rộng theo thời gian) vào kiểm soát truy xuất nguồn gốc trong chuỗi sản xuất hàng nông sản. So với các các phương pháp truy xuất nguồn gốc hiện nay như sử dụng mã QR công nghệ blockchain thể hiện tính ưu việt hơn hẳn và đặc biệt là sự minh bạch, độ tin cậy của thông tin. Cụ thể, mỗi công đoạn trong chuỗi sản xuất từ thu hoạch, chế biến, xuất khẩu, làm sạch. đóng gói, phân phối đều được mã hoá thành mã QR cho cùng một tài khoản (ID) duy nhất được thiết lập và mỗi dữ liệu ủa từng công đoạn được lưu trữ thành một khối (block) và theo trình tự thời gian thành một chuỗi. Bất kỳ thông tin nào được đưa lên phải được sự phê duyệt và đồng thuận của tất cả các bên liên quan (người nông dân thuhoạch, đơn vị chế biến, đóng gói, phân phối...) và khi thông tin đã được xác thực thì không thể gả xuống cũng như thay đãi được chỉ có thể được thêm các thông tin giao dịch). Nhờ vậy, các thông tin bảo đảm tính minh bạch tối đa.
Việc ứng dụng công nghệ blockchain giúp quá trình kiểm soát truy xuất nguồn gốc từ khâu sản xuất đến phân phổi nhập khẩu mang tính tự động cao, giảm các chi phí trong vận hành thủ công. Đồng thời, ứng dụng công nghệ blockchain có thể giải quyết được các vấn đề trở ngại trong giao dịch như thủ tục phức tạp, chi phí trung gian cho doanh nghiệp, cũng như chi phí quản lý cho các cơ quan nhà nước. Việt Nam đã triển khai thành công công nghệ blockchain trong xuất khẩu quả thanh long sang thị trường Australia. Điều này minh chứng khả năng thích ứng và hiệu quả của công nghệ blockchain không chỉ thúc đầy xuất khẩu mà còn quản lý nhập khẩu hàng nông sản tại Việt Nam theo định hướng đơn giản hoá thủ tục hành chính, tạo thuận lợi thương mại và quản lý hiệu quả hơn.
Đối với việc tăng cường cơ sở vật chất và nguồn lực trong kiểm tra chuyên ngành, Chính phủ cần đẩy mạnh đầu tư kết hợp xã hội hoá nhằm nâng cấp các phòng kiểm nghiệm, kiểm chứng tiêu chuẩn chất lượng trong ngành nông nghiệp cũng như các điểm kiểm tra chuyên ngành tại chỗ, nhằm bảo đảm việc cung cấp kết quả chính xác, xác thực, nhanh chóng và có những phát hiện nhạy bén với các chất nguy hại trong sản phẩm nhập khẩu. Các phòng thí nghiêm, kiểm nghiệm cần xây dựng đạt tiêu chuẩn quốc tế đồng thời rà soát và thu hồi các tổ chức dịch vụ đánh giá sự phù hợp có những sai phạm trong kết quả kiểm nghiệm an toàn thực phẩm. Hơn nữa, Chính phủ cần đầu tư đào tạo phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là cán bộ quản lý thanh tra tại địa phương nhằm bao đảm chất lượng nhân lực đồng bộ tại các tỉnh.
3. Một số giải pháp khác
Đối với nhóm hàng thực vật và các sản phẩm có nguồn gốc thực vật
Đối với nhóm hàng thực vật và các sản phẩm có nguồn gốc thực vật, sản phẩm nhập khẩu chủ yếu là ngô và đậu tương nhằm phục vụ cho sản xuất thức ăn chăn nuôi. Đây cũng là hai mặt hàng nằm trong danh mục vật thể thuộc điện kiểm dịch thực vật. Danh mục vật thể thuộc diện kiếm dịch thực vật phải phân tích nguy cơ dịch hại trước khi nhập khẩu vào Việt Nam (theo Thông tư số 30/2014/TT-BNNPTNT) và kiểm tra chất lượng trước khi thông quan (theo Thông tư số 50/2009/TT-BNNPTNT) và bổ sung vào danh mục hàng hoá nhóm 2. Như vậy, đây là hai mặt hàng thuộc diện kiểm tra chuyên ngành rất nghiêm ngặt.
Tuynhiên, bên cạnh việc kiểm soát chặt chẽ mặt hàng nhập khẩu, giải pháp bền vững trong thời gian tới là tăng cường quy hoạch phát triển vùng trồng ngô và đậu tương làm vật tư nông nghiệp cho chuỗi sản xuất thức ăn chăn nuôi. Cây ngô và đậu tương trồng trong nước đều có thể cạnh tranh với sản phẩm nhập khẩu, do to Chính phủ cần triển khai để án chiến lược chuyển đổi trống cây ngô và đậu tương tại một số vùng có điều kiện tự nhiên phù hợp. Đặc biệt, Chính phủ cần tăng cường đầu tư cho các cơ sở nghiên cứu phát triển các giống cây ngô và đậu tương đem lại năng suất cao hơn giống cây trống hiện nay - Việt Nam có thể nghiên cứu các loại giống cây có biến đổi gen, để đưa năng suất cao hơn, giảm thiểu sâu bệnh, bởi thực tế, ngô chuyển gen cũng đang được Việt Nam chấp nhận nhập khẩu làm nguyên liệu thức ăn chăn nuôi, hơn nữa giúp giảm đầu tư vào thuốc bảo vệ thực vật. Bên cạnh đó, Chính phủ cần chú trọng đầu tư cơ giới hoá, phát triển hệ thống tưới nước tập trung, hệ thống thiết bị sau sản xuất như thu hoạch, sấy khô, chế biến cho người nông dân. Với giải pháp tập trung phát triển vùng sản xuất ngô và đậu tưởng sẽ giúp bảo đảm cân bằng và ổn định trong hoạt động nhập khẩu ngô và dậu tương, cũng như phát triển bền vững ngành chăn nuôi do bảo đảm nguồn cung ứng thức ăn chăn nuôi trong dài hạn.
Đối với nhóm hàng động vật và các sản phẩm có nguồn gốc động vật
Trong nhóm hàng động vật và các sản phẩm có nguồn gốc động vật, sản phẩm nhập khẩu có mức tăng trưởng đều và ổn định vào Việt Nam là sữa. Đây cũng là ngành bất lợi thế của Việt Nam trong quá trình hộinhập, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đã ký kết Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), trong đó có hai đối tác nhập khẩu sữa chính của Việt Nam là New Zealand và Australia. Tuy nhiên, mặt hàng sữa nhập khẩu chỉ đáp ứng được 60% nhu cầu trong nước, đặc biệt là trong sản phẩm sữa bột, Đối với sản phẩm sữa tươi, các doanh nghiệp nhập khẩu nước ngoài thường khó tiếp cận được thị trường tiêu dùng tại Việt Nam do yêu cầu để thông quan các sản phẩm sữa thường kéo dài 2 – 3 tháng trong khi sữa tươi chỉ có thể bảo quản từ khâu sản xuất đến tiêu dùng trong khoảng 7 ngày. Chính vì vậy, bên cạnh việc kiểm soát nhập khẩu sữa bột từ doanh nghiệp nước ngoài, Việt Nam cũng cần chú trọng khai thác phát triển các sản phẩm ngách như sữa tươi, các loại sữa hữu cơ và sữa hạt đáp ứng thị hiếu tiêu dùng của thị trường nội địa. Trong đó, cần phát triển chuỗi liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp, nâng cao năng suất và công nghệ xử lý để hạ giá thành sản phẩm sữa tươi bán trên thị trường nội địa. Đồng thời, da dạng hoá sản phẩm cũng là chiến lược cạnh tranh tốt của ngành sữa Việt Nam với các sản phẩm sữa nhập khẩu. Với xu hướng hiện nay, người tiêu dùng ngày càng quan tâm đến sức khỏe, do đó hành vi tiêu dùng dang chuyển dịch theo hướng tiêu dùng các sản phẩm hữu cơ và sản phẩm dinh dưỡng. Việc chuyển dịch đầu từ sang các trang trại sữa hữu cơ là cần thiết trong chiến lược cạnh tranh hiện nay.
Đối với nhóm hàng nông sản chế biến
Sự phụ thuộc vào nguồn cung nông sản từ nước ngoài kéo theo hai vấn đề lớn: vấn đề thứ nhất liên quan đến kiểm soát chất lượng và lượng cùng hàng nông sản từ nước ngoài, vấn đề thứ hai về sức ép cạnh tranh đối với nền sản xuất trong nước và trong bối cảnh Việt Nam hội nhập sâu hơn với nền kinh tế thế giới. Hai vấn đề trên ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích người tiêu dùng và lợi ích nhà sản xuất trong nước. Bởi vậy, việc quản lý hàng nông sản nhập khẩu, đặc biệt là vật tư nông nghiệp cần đặt trong chuỗi sản xuất và không thể tách rời.
Tăng cường quản lý chất lượng vật tư nông nghiệp phục vụ sản xuất và xuất khẩu, từ đó kiểm soát chuỗi sản xuất trong nông nghiệp và các ngành công nghiệp chế biển. Tăng cường sử dụng vật tư nông nghiệp theo hướng hữu cơ, đẩy mạnh phát triển sản phẩm hữu cơ và các sản phẩm đạt tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP và tương đương.
Tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm; giảm thiểu ô nhiễm sinh học và tồn dư hóa chất, kháng sinh trong sản xuất kinh doanh nông sản thực phẩm, đáp ứng yêu cầu về an toàn thực phẩm cho tiêu dùng trong nước và mở rộng thị trường xuất khẩu.
Tăng cường các đơn vị tư vấn kiến thức liên quan đến SPS và TBT. Hiện nay Việt Nam đã thành lập văn phòng EPS và TBT nhằm hỗ trợ trực tiếp trong việc thông báo các quan ngại thương mại từ phía Việt Nam hoặc tiếp nhậncác quan ngại từ phía nước ngoài đối với các biện pháp đang thực thì tại Việt Nam; giải quyết các xung đột và hai hoà hoa các biện pháp SPS, TBT Việt Nam và quốc tế Ngoài ra, Chính phủ đã hình thành các điểm hỏi đáp TBT SPS tại các địa phương. Tuy nhiên, cần củng cố nguồn lực, đặc biệt là đào tạo các chuyên gia tư vấn về việc áp dụng các biện pháp phi thuế quan cho doanh nghiệp trong nước và nước ngoài.
Một số kiến nghị thực hiện tốt biện pháp phi thuế quan đối với hàng nhập khẩu, bảo vệ hợp lý ngành nông nghiệp trong nước
1. Từ phía hiệp hội ngành hàng
Hiệp hội ngành hàng cần đóng vai trò cầu nối giữa cơ quan ban hành quy định văn bản pháp luật liên quan đến biện pháp phi thuế quan, cơ quan thực thi thuộc các cấp bộ, ngành và doanh nghiệp. Với vai trò cầu nối, các hiệp hội ngành hàng cần hỗ trợ doanh nghiệp trên các phương diễn như sau:
Phối hợp cùng các điểm hỏi đáp về SPS, TBT quốc gia và tại các tỉnh để cung cấp các thông tin hai chiều như cập nhật các quy định, văn bản pháp luật liên quan nhanh nhất đến các doanh nghiệp, hướng dẫn thực thi và tư vấn hỗ trợ giải đáp khó khăn cho các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, hiệp hội ngành hàng cần nắm bắt thông tin vướng mặc trong việc triển khai thực thi và đáp ứng các biện pháp phi thuế quan của doanh nghiệp đến các cơ quan ban hành. thực thi các biện pháp phi thuế quan.
Hỗ trợ tiếp cận thị trường cho các doanh nghiệp nước ngoài: Trước hết, hiệp hội ngành hàng cần rà soát và cung cấp thông tin về doanh nghiệp nước ngoài có nhu cầu tiếp còn thị trường nông sản của Việt Nam thông qua mạng lưới hiệp hội ngành của các nước, đại sứ quán Việt Nam tại các quốc gia. Quá trình rà soát và cung cấp thông tin về các doanh nghiệp xuất khẩu nước ngoài sẽ hỗ trợ cho các doanh nghiệp phân phối trong nước ra quyết định phù hợp, đồng thời định hưởng doanh nghiệp trong nước thiết lập các mối quan hệ thương mại phù hợp với mục tiêu, định hướng và chủ trương quản lý hàng nông sản nhập khẩu theo ngành. Hỗ trợ về phía doanh nghiệp nước ngoài, các hiệp hội ngành cũng cần tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp nước ngoài tìm hiểu về môi trường pháp lý, môi trường kinh doanh và hệ thống các biện pháp phi thuế quan hiện hành, các chủ trương, chính sách của ngành trong hoạt động nhập khẩu.
Hỗ trợ giải quyết tranh chấp và xung đột Trong quá trình thực thi các biện pháp SPS hay TBT cũng như các biện pháp phi thuế quan khác, các hiệp hội ngành với tư cách bên thứ ba có thể tiếp nhận các phản hồi từ phía đối tác nước ngoài, cũng như từ phía doanh nghiệp trong nước đệ trình lên các cơ quan nhà nước để xem xét điều chỉnh kịp thời. Các trường hợp tranh chấp liên quan đến những phát hiện về đổi xử không bình đẳng, việc thực thi không đúng quy định luật pháp, hay sức ép cạnh tranh từ lượng nhập khẩu gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triểncủa toàn ngành, cũng như các biểu hiện tiêu cực về chi phí ngầm trong thực thi cần phải được xử lý sớm giúp giảm thiểu trường hợp các nước thành viên/đối tác đưa ra những thông bảo về quan ngại thương mại đối với Việt Nam hoặc khởi kiện Việt Nam trên toà án quốc tế.
Từ phía doanh nghiệp nhập khẩu
Đối với các doanh nghiệp nhập khẩu, trước khi tiếp cận thị trường nông sản Việt Nam cần tìm hiểu kỹ các thông tin về môi trường pháp lý, môi trường kinh doanh, môi trường phát triển ngành nông nghiệp của Việt Nam thông qua hệ thống các điểm hỏi đáp SPS, TBT, các đơn vị xúc tiến thương mại. Một số thông tin mà doanh nghiệp nhập khẩu cần nắm rõ bao gồm:
Tiếp cận thông tin: Đây là cơ sở quan trọng giúp các doanh nghiệp nhập khẩu có thể tiếp cận được với thị trường Việt Nam. Trong đó, doanh nghiệp cần xác định rõ chủ trương, chính sách, luật pháp quy định về các biện pháp thuế quan và phi thuế quan áp dụng đối với hàng hoá cụ thể, danh mục các hàng hoá Việt Nam cho phép nhập khẩu, doanh nghiệp các đối tác nước ngoài được phép xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam. Trên thực tế, các thông tin này đều được thông báo tới các thành viên của WTO tại công thông tin diện tử về SPS và TBT của WTO. Tuy nhiên, doanh nghiệp nhập khẩu cần tìm hiểu rõ điểm khác biệt trong những quy định của Việt Nam với đặc điểm thị trưởng và đặc điểm ngành nông nghiệp hiện nay.
Gia tăng khả năng tiếp cận thị trưởng và lợi ích mở rộng: Doanh nghiệp nhập khẩu cần thiết lập mối quan hệ chiến lược, bền vững và tham gia chuỗi sản xuất ngành hàng nông sản của Việt Nam nhằm hỗ trợ cung cấp vật tư nông nghiệp quan trọng phục vụ hoạt động sản xuất xuất khẩu lâu dài. Ngoài ra, đối với các doanh nghiệp nhập khẩu hàng nông sản tiêu dùng cuối cùng, các doanh nghiệp cần bảo đảm các yêu cầu chất lượng phục vụ thị trường trong nước và tăng cường liên kết với các doanh nghiệp phân phối trong nước.
Ngoài ra, khuyến nghị của doanh nghiệp đối với Nhà nước cụ thể như: i) Giảm các yêu cầu không cần thiết bằng cách công nhận giấy chứng nhận kiểm dịch thực vật của quốc gia đối tác; ii) Cung cấp hỗ trợ kỹ thuật cho doanh nghiệp và nông dân để điều chỉnh quy trình sản xuất và phát triển theo tiêu chuẩn quốc tế: iii) Các sản phẩm nhập khẩu thường xuyên chỉ nên thực hiện kiểm tra một lần và cơ quan chức năng nền cấp giấy chứng nhận; iv) Giảm các quy trình thủ tục giấy tờ để đẩy nhanh hơn quá trình kiểm tra; và Giảm thời gian chậm trễ tại hải quan vì điều này tác động đến phí lưu trữ vàn các chi phí chung của doanh nghiệp, hơn nữa nên có quy trình riêng đối với các hàng hoá để lỏng như rau quả, động vật tươi sống; vì) Triển khai các thủ tục trực tuyến, quy trình minh bạch hơn và chuẩn hoá quy trình đối với nhân viên hải quan; vii) Hải quan cần có cách tiếp cận nhất quán, chính xác hơn để phân loại vẫn phẩm nhập khẩu và thống nhất cập nhật cơ số dữ liệu của họ theo bối cảnh toàn cầu.
Như vậy, có thể thấy rằng, xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế đã tác động rất mạnh đến thương mại các quốc gia, không ngoại trừ Việt Nam. Hơn nữa, việc lựa chọn chính sách tự do hoá thương mại với mô hình thúc đẩy xuất khẩu, Việt Nam phải cam kết cắt giảm biện pháp thuế quan truyền thống và áp dụng các biện pháp phi thuế quan phù hợp với luật lệ, cam kết quốc tế. Vai trò của các biện pháp phi thuế quan, cụ thể là biện pháp kỹ thuật trong thương mại như biện pháp kiểm dịch động thực vật (SPS) và hàng rao kỹ thuật trong thương mại (TBT) là then chốt trong quá trình điều tiết thị trường trong nước và thương mại quốc tế. Qua rà soát các biện pháp phi thuế quan được ban hành của Việt Nam, ưu điểm thấy rõ là quá trình hệ thống hoá các biện pháp phi thuế quan đã tuân theo chuẩn mực quốc tế, tạo sự tương thích khá cao với hệ thống biện pháp phi thuế quan trên thế giới. Tuy nhiên, so với các quốc gia trên thế giới, phạm vi áp dụng của biện pháp phi thuế quan đối với hàng nông sản nhập khẩu của Việt Nam bao phủ gần như tuyệt đối. Hàng nông sản nhập khẩu vào Việt Nam chịu mức độ kiểm soátbằng biện pháp phi thuế quan khả nặng và bảo hộ chặt chẽ tương đương với các quốc gia phát triển. Vì vậy, việc tiếp tục hoàn thiện, bổ sung thay thế theo hướng tương thích với tiêu chuẩn quốc tế là điều rất cần thiết trong thời kỳ hội nhập sâu rộng như hiện nay.
Các biện pháp phi thuế quan của Việt Nam được khẳng định là tác động rõ rệt hay mối tương quan chặt chẽ đến khả năng nhập khẩu hàng nông sản (lợi ích mở rộng) và lượng cầu nhập khẩu (lợi ích tiếp nối). Khung nghiên cứu tác động về biện pháp phi thuế quan được xây dựng dựa trên lý thuyết của Disdier (2010) và Melitz (2003), trong đó tác động thương mại của biện pháp phi thuế quan thông qua hai loại chi phí (chi phí gia nhập ngành và chỉ phí biến đổi trong quá trình nhập khẩu), từ đó tạo ra hai lợi ích bao gồm lợi ích mở rộng (tức khả năng tiếp cận thị trường) và lợi ích tiếp nối (mở rộng giá trị thương mại). Mô hình nghiên cứu thực nghiệm được áp dụng để đo lường tác động của biện pháp phi thuế quan theo khung nghiên cứu trên là mô hình trọng lực hấp dẫn cấu trúc ngành, trong đó sử dụng phương pháp đo lường Heckman hai bước (Heckman two stage) để giải quyết các dữ liệu trắng và kiểm soát thành tố đối kháng đa phương. Kết quả nghiên cứu chỉ ra 5 kết quả quan trọng như sau:
Thứ nhất, biện pháp phi thuế quan (cụ thể là biện pháp SPS và TBT) không chỉ có tác động đến lượng cầu nhập khẩu mà còn tác động đến khả năng nhập khẩu hàng nông sản vào thị trường Việt Nam. Điều này cho thấy,biện pháp phi thuế quan đồng thời là biện pháp kiểm soát tại biên giới và biện pháp kiểm soát sau biên giới, từ đó tác động đến cả lợi ích mở rộng và lợi ích tiếp nổi trong nhập khẩu hàng nông sản.
Thứ hai biện pháp SPS có tác động tích cực cho việc gia tăng khả năng nhập khẩu, nhưng biện pháp TBT trở thành cản trở cho doanh nghiệp nước ngoài muốn tiếp cận thị trường nông sản Việt Nam.
Thứ ba, biện pháp SPS tác động tích cực đến cầu nhập khẩu tất cả các nhóm hàng nông sản. Trong khi đó, biên pháp TBT tác động tiêu cực đến cầu nhập khẩu các nhóm hàng động vật tươi sống và nhóm hàng thực vật, nhưng tác động tích cực với nhóm hàng nông sản chế biến.
Thứ tư, mức tác động của các biện pháp SPS, TBT còn rất nhỏ so với biện pháp thuế quan và các yếu tố hấp dẫn khác như điểm chung giữa Việt Nam và nước đối tác về các mặt văn hóa, lịch sử, vị trí địa lý.
Nguyên nhân đằng sau những tác động tiêu cực trên xuất phát từ các vấn đề như sau: i) Mức độ hài hòa các biện pháp phi thuế quan của Việt Nam so với quốc tế chưa cao nên chi phí đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật của Việt Nam có thể sẽ cao hơn so với các nước khác; ii) Việc định hướng thị trường và định hướng nhóm hàng hóa nhập khẩu rất chặt chẽ thể hiện sự can thiệp mạnh tay của Chính phủ trong việc điều tiết hoạt động nhập khẩu trên thị trường nông sản; ini) Hệ thống kết cấu hạ tầng, trang thiết bị máy móc phục vụ cho công tác kiểm tra lấy mẫu.
Bên cạnh đó, tác động tích cực của các biện pháp phí thuế quan đối với hàng nông sản nhập khẩu là do việc đáp ứng các biện pháp SPS của nước nhập khẩu sẽ giúp giải quyết các vấn đề liên quan đến an toàn sức khỏe cho cộng đồng và người tiêu dùng, gia tăng độ tin cậy đối với chất lượng sản phẩm, từ đó tăng cầu nhập khẩu. Ngoài ra, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng đã giúp Việt Nam đa dạng hoá thị trưởng nhập khẩu và giảm sự phụ thuộc vào các thị trường truyền thống như Trung Quốc, ASEAN sang các thị trường xuất khẩu hàng nông sản thuộc khu vực châu Mỹ như Brazil, Argentina, Paraguay.
Trên cơ sở phân tích kết quả tác động của biện pháp phi thuế quan đối với hàng nông sản nhập khẩu và các bởi cảnh quốc tế, bởi cảnh trong nước liên quan trực tiếp đến thương mại nông sản, các dự báo về sản xuất, xu hướng tiêu dùng đối với hàng nông sản trong thời gian tới, có thể thấy có bốnquan điểm cơ bản trong quản lý hàng nông sản nhập khẩu bằng biện pháp phí thuế quan, các mục tiêu tổng quát và mục tiêu cơ bản, định hướng quản lý; từ đó đưa ra ba nhóm giải pháp quản lý hiệu quả hàng nông sản nhập khẩu dưới tác động của biện pháp phi thuế quan. Mặc dù còn có những điểm hạn chế nhất định về tinh bao quát phạm vi nghiên cứu, các giả định của nghiên cứu và việc kiểm định các yếu tố định tính liên quan đến quả trình thực thi các biện pháp phi thuế quan, nhưng nhữngphân tích thực trạng nhập khẩu hàng nông sản của Việt Nam; thực trạng áp dụng các biện pháp phi thuế quan của Việt Nam đối với hàng nông sản nhập khẩu và tác động của nó đã có những đóng góp quan trọng trong việc hệ thống hoá cơ sở lý luận về biện pháp phi thuế quan, các nhân tố tác động và phương pháp đo lường tác động của biện pháp phi thuế quan đến thương mại, cụ thể là hoạt động nhập khẩu hàng nông sản. Từ đó, rà soát các biện pháp phi thuế quan Việt Nam đang áp dụng và mức độ tương thích của các biện pháp này với các quy định cam kết quốc tế. Phân tích hướng tác động và mức tác động của biện pháp phi thuế quan áp dụng đối với hàng nông sản nhập khẩu đến giá trị nhập khẩu hàng nông san thông qua kênh chi phí thương mại. Căn cứ trên các phân tích tác động, đánh giá, từ đó đưa ra đề xuất các kiến nghị nhằm quản lý nhập khẩu hàng nông sản bằng biện pháp phí thuế quan hiệu quả.