Thứ sáu, 18 Tháng 2 2022 15:58

PHÂN TÍCH KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VỀ ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ VỀ ĐẤT ĐAI

1. Khái niệm về đất đai, vụ án hình sự về đất đai, điều tra vụ án hình sự về đất đai

1.1 Khái niệm về đất đai

Thông tư số 14/2012/TT BTNMT ngày 26/11/2012 của Bộ Tài nguyên và Môi trường khoản 2 Điều 4 quy định kỹ thuật điều tra thoái hóa đất ban hành kèm theo (thì đất là tầng mặt tơi xốp của lục địa có khả năng tạo ra sản phẩm cây trồng). Đất đai được định nghĩa là: “một vùng đất có ranh giới, vị trí, diện tích cụ thể và có các thuộc tính tương đối ổn định hoặc thay đổi nhưng có tính chu kỳ, có thể dự đoán được, có ảnh hưởng tới việc sử dụng đất trong hiện tại và tương lai của các yếu tố tự nhiên, kinh tế - xã hội như: thổ nhưỡng, khí hậu, địa hình, địa mạo, địa chất, thủy văn, thực vật, động vật cư trú và hoạt động sản xuất của con người”.

Có thể nói, đất đai được xem là tư liệu sản xuất đặc biệt, là một trong những thành phần quan trọng hàng đầu của xã hội, của môi trường sống, là nơi để phân bố các khu dân cư, để xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng.

Từ xa xưa, đất đai có nguồn gốc từ tự nhiên, song song với tiến trình phát triển của lịch sử thì con người xuất hiện và tác động, cải tạo đất đai và biến đất đai từ sản phẩm của tự nhiên lại trở thành một phần có sự tác động, công sức của con người, điều đó thể hiện đất đai cũng là sản phẩm của xã hội. Sự hạn chế về diện tích đất đai chứng minh rằng nó được coi là một tài nguyên thiên nhiên quý giá của mỗi quốc gia và nó cũng là yếu tố quan trọng mang tính quyết định sự tồn tại và phát triển của con người và các sinh vật khác trên trái đất. Do đó, nếu không có đất đai thì không có bất kỳ một ngành sản xuất nào, các ngành sản xuất không vận hành được, con người không thể tồn tại. Mặt khác, đất đai của một quốc gia còn thể hiện uy quyền sức mạnh của quốc gia đó, ranh giới quốc gia, thể hiện chủ quyền của một quốc gia. Các quốc gia bảo vệ đất đai bằng mọi cách dù phải hy sinh xương máu. Đất đai còn là nguồn của cải, quyền sử dụng đất đai là nguyên liệu của thị trường nhà đất, nó là tài sản bảo đảm sự an toàn về tài chính, có thể chuyển nhượng qua các thế hệ...

Bộ luật Dân sự hiện hành (Bộ luật Dân sự năm 2015)[1] xác định: đất đai là bất động sản. Như vậy, đất đai là bất động sản mà Luật Đất đai năm 2013, sửa đổi, bổ sung năm 2018 khẳng định thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý cho các tổ chức, hộ gia đình và các cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài. Như vậy, đất đai có tính cố định vị trí, không thể di chuyển được. Tính cố định vị trí quyết định tính giới hạn về quy mô theo không gian và chịu sự chi phối của các yếu tố môi trường nơi có đất. Chính vì vậy, khi điều kiện đất đai thay đổi từ chỗ kém thuận lợi trở nên tốt hơn thì đất đai đó có giá trị hơn. Vị trí đất đai hoặc điều kiện đất đai không chỉ tác động đến việc sản xuất, kinh doanh, tạo nên lợi thế thương mại cho một công ty, một doanh nghiệp mà còn có ý nghĩa đối với một quốc gia. Chẳng hạn, Việt Nam là cửa ngõ của khu vực Đông Nam Á, có biển, có các cảng nước sâu thuận lợi cho giao thông đường biển, cho buôn bán với các nước trong khu vực và trên thế giới.

Đất đai là một tài sản không hao mòn theo thời gian và giá trị đất đai luôn có xu hướng tăng lên theo thời gian. Đất đai có tính đa dạng, phong phú tuỳ thuộc vào mục đích sử dụng và phù hợp với từng vùng địa lý.

Đối với đất đai sử dụng vào mục đích nông nghiệp, và tính đa dạng, phong phú của đất đai do khả năng thích nghi của các loại cây trồng, vật nuôi quyết định và đất tốt hay xấu là xét trong từng mục đích sử dụng, đất tốt cho mục đích này nhưng lại có thể không tốt cho mục đích khác. Đất đai là một tư liệu sản xuất gắn liền với hoạt động của con người.

1.2 Khái niệm vụ án hình sự về đất đai

Theo Từ điển Luật học, vụ án hình sự được định nghĩa như sau: “Vụ án hình sự là vụ việc phạm pháp có dấu hiệu là tội phạm đã được quy định trong Bộ luật Hình sự, được Cơ quan điều tra ra lệnh khởi tố về hình sự để tiến hành điều tra, truy tố, xét xử theo các trình tự, thủ tục đã được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự”[2]. Theo đó, một hành vi phạm pháp phải có “dấu hiệu tội phạm” được quy định trong Bộ luật Hình sự hiện hành, khi xác định vụ phạm pháp có dấu hiệu tội phạm thì các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng sẽ ra quyết định khởi tố vụ án. Thời điểm đó vụ việc phạm pháp sẽ trở thành vụ án hình sự. Để xác định dấu hiệu tội phạm về đất đai là căn cứ cho các cơ quan và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng ra quyết định khởi tố vụ phải dựa trên cơ sở tố giác, tin báo về tội phạm về đất đai án và kiến nghị khởi tố; thông qua việc đối tượng thực hiện hành vi phạm pháp tự thú, đầu thú, khi tiến hành lấy lời khai xác định có dấu hiệu tội phạm về đất đai sẽ tiến hành khởi tố vụ án hình sự về đất đai; khi các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm thông qua các hoạt động tố tụng của mình, sẽ tiến hành khởi tố vụ án hình sự về đất đai.

Tại Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 thì tội phạm về đất đai được quy định tại chương XVI (chương Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế), với hai điều luật Điều 173 quy định về tội “Vi phạm các quy định về sử dụng đất đai” và Điều 174 quy định về tội “Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai". Trong Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, các tội phạm về đất đai được quy định tại chương XVIII (chương Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế), mục 3 (mục quy định về các tội phạm khác xâm phạm trật tự quản lý kinh tế), bao gồm 3 điều luật gồm các điều 228, 229 và 230. Tội phạm về đất đai là các hành vi phạm tội xâm phạm đến tính đúng đắn trong việc quản lý, sử dụng đất đai của Nhà nước, của các cơ quan, tổ chức xã hội, các pháp nhân và công dân. Cụ thể, trên phương diện lập pháp, ở những giai đoạn lịch sử khác nhau việc hình sự hóa (pháp điển hóa) những hành vi bị coi là tội phạm nói chung, tội phạm về đất đai nói riêng cũng khác nhau.

Khi xác định một hành vi phạm tội của một con người cụ thể đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm về đất đai, trước hết hành vi đó phải thỏa mãn đầy đủ các yếu tố của cấu thành tới phạm được quy định tại Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 2015. Theo đó, một hành vi bị coi là tội phạm nói chung. tội phạm về đất đai nói riêng đều phải thỏa mãn các yếu tố như: chủ thể của tội phạm; khách thể của tội phạm; mặt chủ quan và mặt khách quan của tội phạm. Chủ thể tội phạm khi thực hiện hành vi phạm tội nói chung, cũng như thực hiện hành vi phạm tội về đất đai nói riêng đều phải đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, có năng lực hành vi (được quy định tại Điều 12, Điều 21 Bộ luật Hình sự năm 2015); tội phạm về đất đai đòi hỏi chủ thể phải thỏa mãn một số yếu tố đặc thù thì mới thỏa mãn yếu tố liên quan đến chủ thể tội phạm đối với chủ thể là người thực hành (ví dụ: Điều 229, Điều 230 Bộ luật Hình sự năm 2015), còn những đối tượng đồng phạm khác trong cùng vụ án thì không cần thiết đòi hỏi về chủ thể đặc biệt này. Khách thể của tội phạm về đất đai chính là sự xâm hại đến tính đúng đắn trong việc quản lý, sử dụng đất đai của Nhà nước, của các cơ quan, tổ chức xã hội, các pháp nhân và công dân. Mặt khách quan của tội phạm về đất đai là những hành vi liên quan đến hoạt động vi phạm trong lĩnh vực sử dụng đất đai (Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 1999); vi phạm trong lĩnh vực quản lý đất đai (Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 1999). Hiện nay, Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định nội dung tương ứng tại các điều 228, 229 và 230.

So với Bộ luật Hình sự năm 1999, hành vi khách quan được quy định tại Bộ luật Hình sự năm 2015 bao quát hơn, toàn diện hơn, không chỉ thuộc lĩnh vực quản lý, sử dụng đất đai mà còn liên quan đến hành vi khách quan trong lĩnh vực bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Đây cũng là lĩnh vực bị khiếu kiện nhiều nhất trong những năm qua, việc xử lý hình sự về hành vi này phải vận dụng sang các điều luật khác để xử lý vì Bộ luật Hình sự năm 1999 chưa có quy định về tội danh này. Mặt chủ quan của tội phạm đất đai được thể hiện ở các yếu tố: Lỗi; Động cơ, mục đích phạm tội; Thủ đoạn phạm tội. Theo đó, tội phạm về đất đai luôn luôn được thực hiện với lỗi cố ý với động cơ, mục đích khá rõ ràng đó là vì vụ lợi hoặc tư lợi; Thủ đoạn phạm tội rất tinh vi, liên quan đến sổ sách, chứng từ, tài liệu qua nhiều cấp, nhiều ngành thu thập, lưu trữ. Như vậy, các yếu tố cấu thành tội phạm đất đai chính là căn cứ, là cơ sở để xem xét một hành vi vi phạm pháp luật xâm hại đến khách thể nhất định có phạm tội hay không phạm tội và nếu phạm tội thì phạm tội gì, theo quy định tại điều luật cụ thể nào.

Tuy nhiên, trên phương diện của hoạt động điều tra, thì đối tượng của hoạt động điều tra là vụ án hình sự. Trong khoa học hình sự, vụ án được xem xét dưới góc độ là một vụ việc có ý nghĩa hình sự (hay còn gọi là vụ việc nghi vấn phạm tội). Tức là khi và chỉ khi trong thực tiễn khách quan đã xảy ra một vụ việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật hình sự về đất đai, đã bị phát hiện và bị bắt quả tang hoặc bị giữ người trong trường hi khẩn cấp hoặc vụ việc bị tố giác, tin báo tới các cơ quan chức năng.. thì khi đó sẽ làm phát sinh yêu cầu ph tiến hành điều tra, xác minh, làm rõ và có kết luận chính thức về vụ việc đó để có các biện pháp xử lý biên theo đúng quy định của pháp luật, như khởi tố mặt (nếu xác định hành vi vi phạm pháp luật về đất đai là đúng là tội phạm hình sự xảy ra).

Một hành vi phạm tội, tuy đã xảy ra nhưng chưa bị phát hiện (còn đang bị che giấu) thì chưa thể coi là một vụ án mặc dù rõ ràng có tội phạm (trường hợp này gọi là tội phạm ẩn). Như vậy, để nhận thức đầy đủ vụ án hình sự về đất đai cần phải tiếp cận trên những phương diện chính sau đây:

Thứ nhất, phải có hành vi xâm hại đến khách thể được Luật Hình sự bảo vệ trong lĩnh vực đất đai, cụ thể là xâm hại đến tính đúng đắn trong việc quản lý đất đai và sử dụng đất đai, hành vi đó bị pháp luật hình sự cảm theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015, So với Bộ luật Hình sự năm 1999, Bộ luật Hình sự năm 2015 có quy định thêm về khách thể bị xâm hại là tính đúng đắn trong việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.

Thứ hai, hành vi xâm hại đến khách thể đất đai được Nhà nước bảo vệ thực tế đã xảy ra trong hiện thực khách quan, do con người cụ thể có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện, đạt độ tuổi theo luật. Hành vi đó diễn ra và tồn tại trong không gian, thời gian và trong mối quan hệ biện chứng với các sự vật, hiện tượng khác trong thế giới khách quan đó.

Thứ ba, hành vi xâm hại đến tính đúng đắn trong quản lý nhà nước về đất đai, trong quản lý nhà nước về sử dụng đất đai, trong quản lý nhà nước về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đã được phát hiện, tức là đã được ghi nhận bằng giác quan và đã được tố giác, báo tin đến các cơ quan nhà nước có thẩm quyền để tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm đất đai theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Thứ tư, hành vi xâm hại đến chế độ quản lý nhà nước về đất đai, chế độ quản lý nhà nước về sử dụng đất đai, chế độ quản lý nhà nước về việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư về đất đai phải có “dấu hiệu” của một tội phạm về đất đai cụ thể và được quy định tại các điều 228, 229, 230 Bộ luật Hình sự năm 2015. Do đó, sẽ làm phát sinh yêu cầu pháp lý đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền phải tiến hành khởi tố vụ án, tiến hành các hoạt động điều tra, có kết luận chính thức và xử lý theo quy định của pháp luật.

Từ những khía cạnh nêu trên, có thể đưa ra khái niệm vụ án hình sự về đất đai, đó là: Vụ án hình sự về đất đai là vụ việc có dấu hiệu của tội phạm về đất đai được quy định trong Bộ luật Hình sự đã được phát hiện, đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải điều tra, kết luận và xử lý theo quy định của pháp luật.

1.3 Khái niệm điều tra vụ án hình sự về đất đai

Khái niệm điều tra vụ án hình sự có thể được hiểu là: “Điều tra vụ án hình sự là hoạt động thu thập tài liệu, chứng cứ của những cơ quan điều tra và những cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra theo luật định, được tiến hành theo trình tự tố tụng hình sự, nhằm chứng minh sự thật của vụ án theo yêu cầu của pháp luật”[3]. Theo đó, điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn độc lập của quá trình tố tụng, phục vụ cho mục đích chung của quá trình tố tụng, đó là phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, thực hiện hoạt động điều tra theo quy định của pháp luật.

Theo Từ điển Bách khoa Công an nhân dân Việt Nam, thì điều tra được hiểu là: “Hoạt động thu thập tin, tài liệu, tình hình... phản ánh sự thật về một tổ chức, con người, sự việc, hiện tượng hoặc mục tiêu, địa bàn, lĩnh vực phục vụ nhiệm vụ bảo vệ an ninh trật tự. Điều tra được tiến hành dưới nhiều hình thức: trực tiếp hoặc gián tiếp; công khai hoặc bí mật; trên phạm vi rộng (diện) hay hẹp (điểm)”.

Như vậy, hiểu theo nghĩa này thì bản chất của điều tra là thu thập thông tin, tài liệu, chứng cứ phản ánh khách quan về một đối tượng cụ thể nào đó và có thể do nhiều chủ thể tiến hành. Điều tra được tiến hành bằng nhiều hình thức và có phạm vi rộng, hẹp khác nhau.

Việc nghiên cứu để đưa ra khái niệm về điều tra tội phạm hay điều tra vụ án hình sự cũng được tiếp cận nhiều góc độ khác nhau. Ví dụ, theo Từ điển Bách khoa Công an nhân dân Việt Nam, năm 2005, điều tra vụ án hình sự được hiểu: “Hoạt động điều tra theo pháp luật tố tụng hình sự của Cơ quan điều tra và cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra nhằm xác định sự thật của vụ án, lập hồ sơ đề nghị xử lý, tìm ra nguyên nhân và điều kiện phạm tội, yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và ngăn ngừa”.

Hiểu theo nghĩa này thì điều tra vụ án hình sự được tiến hành bởi hai nhóm chủ thể, đó là Cơ quan điều tra và cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Song thực tế cho thấy, nhiều chủ thể khác cũng tham gia hoạt động điều tra vụ án hình sự với vai trò giúp đỡ, phối hợp. Mặt khác, hoạt động điều tra vụ án hình sự không chỉ tiến hành bằng hình thức công khai theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự mà còn đồng thời tiến hành bằng hình thức bí mật thông qua các biện pháp nghiệp vụ trinh sát mang tính đặc thù riêng của chủ thể điều tra vụ án. Bên cạnh đó, theo khái niệm này thì điều tra vụ án bao hàm cả “yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và ngăn ngừa”. Đây là nội dung nằm ngoài hoạt động điều tra vụ án hình sự. Ở một góc độ khác, khoa học luật tố tụng hình sự cho rằng: Điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn của quá trình tố tụng hình sự, trong đó Cơ quan điều tra tiến hành các hoạt động điều tra do luật tố tụng hình sự quy định để xác định tội phạm, người thực hiện hành vi phạm tội và các tình tiết khác có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án, tìm ra những nguyên nhân, điều kiện phạm tội để yêu cầu các cơ quan, tổ chức và cá nhân hữu quan áp dụng các biện pháp ngăn ngừa.

Điều tra vụ án hình sự, dưới góc độ pháp luật tố tụng hình sự được xác định là một giai đoạn của quá trình tố tụng hình sự, được tiến hành trên cơ sở các quy định của pháp luật tố tụng hình sự và có quan hệ biện chứng với các giai đoạn khác của tố tụng hình sự trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Tuy nhiên, dưới góc độ của khoa học hình sự cũng như lý luận nghiệp vụ điều tra thì trong quá trình điều tra vụ án hình sự, các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng không chỉ sử dụng các biện pháp điều tra tố tụng hình sự mà còn sử dụng các biện pháp trinh sát, các biện pháp nghiệp vụ để tiến hành thu thập tài liệu, chứng cứ để nhanh chóng làm rõ sự thật vụ án và chứng minh hành vi phạm tội. Chính vì vậy, khi đưa ra khái niệm về điều tra vụ án hình sự, ngoài việc thừa nhận quan điểm cho rằng: “Điều tra vụ án hình là một giai đoạn của quá trình tố tụng, còn phải áp dụng biện sự pháp nghiệp vụ bí mật mang tính đặc thù của cơ quan có thẩm quyền. Như vậy, bản chất của hoạt động điều tra vụ án hình sự về đất đai của lực lượng cảnh sát điều tra là việc chủ thể này sử dụng các biện pháp điều tra theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự và phương pháp chiến thuật trinh sát, các phương tiện kỹ thuật được trang bị của cơ quan chuyên môn, để thu thập tài liệu, chứng cứ xác định tội phạm và người phạm tội; làm rõ các vấn đề phải chứng minh trong vụ án đất đai theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, phục vụ công tác xử lý tội phạm trước pháp luật”.

Từ cách tiếp cận vấn đề nêu trên, có thể hiểu hoạt động điều tra vụ án hình sự về đất đai như sau: Điều tra vụ án hình sự về đất đai là hoạt động thu thập tài liệu, chứng cứ của Cơ quan điều tra và những cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra theo luật định, được tiến hành theo trình tự tố tụng hình sự, nhằm chứng minh sự thật của vụ án theo yêu cầu của pháp luật. Bảo đảm cho công tác xử lý được đúng người, đúng tội và góp phần tích cực phòng ngừa tội phạm.

2. Đặc điểm hoạt động điều tra các vụ án hình sự về đất đai

Hoạt động điều tra vụ án hình sự về đất đai là hoạt động tố tụng phức tạp, nhiều chiều và đa dạng. Sự phức tạp, đa dạng của hoạt động điều tra vụ án hình sự về đất đai hàm chứa các đặc điểm nổi bật sau:

Quá trình tiến hành điều tra vụ án hình sự về đất đai là quá trình mà Cơ quan điều tra phải xây dựng các biện pháp và chiến thuật điều tra phù hợp, hiệu quả do vụ án hình sự về đất đai có một số dấu hiệu khá đặc thù như:

Đối tượng bị xâm hại (đối tượng bị tác động) trong các vụ án hình sự về đất đai có tính đặc thù, đó là liên quan trực tiếp đến đất đai - bất động sản. Thông thường, được hiểu là có thể xác định được luôn vị trí, phạm vi của đối tượng tác động, vì bất động sản là vật chất không thể di dời, không thể thay đổi, không thể dịch chuyển không thể tiêu thụ một cách thông thường như những vật chất khác là động sản như là đồ vật, hay hàng hóa. Tuy nhiên, liên quan đến đất đai là bất động sản, chủ thể tội phạm thường thực hiện hành vi thông qua đối tượng tác động là các loại tài liệu, giấy tờ liên quan đến việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; là hồ sơ về đất; là sổ sách ghi chép, lưu giữ thông tin về tình trạng đất, sự biến động về đất đai; sơ đồ thửa đất qua các thời kỳ giấy tờ liên quan đến cấp đất, cho thuê đất, chuyển nhượng quyền sử dụng đất, chuyển đổi mục đích sử dụng đất, thuế đất…; hoặc là các văn bản pháp lý chuyên ngành quy định về đất đai. Do đó, Cơ quan điều tra cần tiến hành điều tra thu thập tài liệu, chứng cứ chứng minh về tội phạm đất đai chính là thu thập được các tài liệu, giấy tờ, chứng cứ liên quan.

Hiện trường, dấu vết, vật chứng trong các vụ hình sự về đất đai thường có phạm vi rộng, thậm chí án khó xác định bởi đặc tính của đất đai không xác định về ranh giới, mốc giới do sự biến đổi về thời gian, tháng, năm sử dụng (có thể bị thu hẹp lại, cũng có thể được mở rộng ra), đó cũng là thực trạng tại sao diện tích ghi trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích đất thực tế không trùng nhau. Do hiện trường ít để lại dấu vết, vụ án thường kéo dài. Đối với hành vi vi phạm quy định trong sử dụng đất đai tại Điều 228 Bộ luật Hình sự năm 2015 liên quan trực tiếp đến hiện trường là đất đai nơi người đang có hành vi sử dụng đất trái phép (hành vi lấn chiếm đất công trái phép; hành vi tự ý chuyển đổi mục đích sử dụng đất trái phép; hành vi tự ý chuyển nhượng trái phép đất công; hành vi tự ý xây dựng trái phép; hành vi tự ý đào đất bán trái phép;...). Đối với hành vi vi phạm trong quản lý đất đai được quy định tại Điều 229 Bộ luật Hình sự năm 2015. Liên quan đến hiện trường vụ án đất đai này, đã xảy ra một số vụ việc trên thực tiễn như: cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã cấp giấy chứng nhận về quyền sử dụng đất cho các đối tượng khác nhau trên cùng một mảnh đất, việc này dẫn đến các bên tranh chấp và gây hậu quả nghiêm trọng; hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sai (đất không đủ điều kiện vẫn cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất)... những người thực hiện các hành vi sai trái nêu trên đều có động cơ vụ lợi hoặc tư lợi. Liên quan đến hành vi mới được quy định tại Điều 230 Bộ luật Hình sự năm 2015, hiện trường vụ án chính là nơi khu đất của doanh nghiệp làm dự án, hoặc khu đất của các hộ dân bị Nhà nước thu hồi nhưng những người có thẩm quyền trong lĩnh vực này đã lập hồ sơ, kế hoạch, phương án phê duyệt bồi thường, hỗ trợ, tái định cư có nhiều vi phạm, sai trái vì vụ lợi hoặc tư lợi.

Thủ đoạn phạm tội hết sức tinh vi, xảo quyệt, chủ thể phạm tội thường lợi dụng sự sơ hở, thiếu sót trong quy định tại các văn bản pháp luật về đất đai hoặc cơ chế quản lý đất đai lỏng lẻo, sơ hở để thực hiện hành vi phạm tội. Thay đổi sơ đồ, bản vẽ, bản thiết kế, lập “đường dây” cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từ xã, phường, thị trấn cho đến quận, huyện, thành phố để hợp thức hóa những lô đất không đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để ăn chia, kiếm lời; lấn chiếm đất công, chuyển nhượng quyền sử dụng đất bất hợp pháp; gây ra những hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.

Về đối tượng phạm tội (chủ thể phạm tội) trong các vụ án hình sự về đất đai: Đối với những tội phạm liên quan đến hành vi vi phạm trong quản lý đất đai theo quy định tại Điều 229 Bộ luật Hình sự năm 2015; hoặc đối với tội vi phạm trong lĩnh vực bồi thường, hỗ trợ, tái định cư thì chủ thể phạm tội thường là người có chức vụ, quyền hạn (đối với chủ thể là người thực hành) trong các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, doanh nghiệp, còn các đối tượng khác là đồng phạm thì không cần chủ thể là người phải có chức vụ, quyền hạn này. Đối với hành vi phạm tội vi phạm trong sử dụng đất đai được quy định tại Điều 229 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì chu thể của tội phạm là những người trực tiếp sử dụng đất, hoặc cố ý lấn chiếm đất công trái phép, những người này đã lợi dụng sự sơ hở trong công tác quản lý đất đai của Nhà nước và đã thực hiện những hành vi sai trái gây hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội. Tuy nhiên, đối với những người đồng phạm trong vụ án về đất đai thì không nhất thiết phải có đặc điểm về chủ thể đặc biệt này. Đối tượng phạm tội thường là những người có trình độ hiểu biết về lĩnh vực đất đai, nắm được các văn bản và những quy định chưa chặt chẽ trong văn bản, lợi dụng những điểm chưa chặt chẽ đó để lách luật thu lợi bất chính từ những hành vi sai trái gây ra hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.

Một đặc điểm khá đặc thù của vụ án hình sự về đất đai mà thực tiễn hoạt động điều tra thường gặp nhiều khó khăn, lúng túng khi giải quyết loại án này, đó là ranh giới phân biệt giữa vụ án hình sự về đất đai với các vụ án hành chính, vụ án dân sự, liên nhiều quan đến đời sống xã hội, đến dân cư và thường mang nhiều yếu tố lịch sử,... đòi hỏi Cơ quan điều tra cần phải phân biệt rõ khi nào là vụ án hình sự, khi nào giải quyết bằng con đường hành chính công và khi nào giải quyết bằng vụ án dân sự. Theo đó, điều tra viên cần điều tra chứng minh, làm rõ về diễn biến của sự việc, xác định được hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng đã xảy ra cũng như mối quan hệ nhân quả trực tiếp giữa hành vi và hậu quả. Xem xét về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi, cũng như động cơ, mục đích của đối tượng đặt ra trước khi thực hiện những hành vi sai trái đó. Đặc biệt, hành vi phạm tội đó đã xâm hại đến khách thể là tính đúng đắn trong hoạt động quản lý đất đai của Nhà nước, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội.

Quá trình điều tra vụ án hình sự về đất đai có những tính chất đặc thù như trên, do đó, các điều tra viên cần phải áp dụng các biện pháp điều tra công khai, hiệu quả, mang tính cưỡng chế nghiêm khắc, như: áp dụng các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam, phong tỏa tài sản để ngăn chặn đối tượng không thể tiêu hủy hết các chứng cứ, tài liệu nhằm xóa dấu vết, tẩu tán tài sản để không bị thu hồi. Cần nhanh chóng tiến hành các biện pháp như: khám xét, khám nghiệm hiện trường nơi cất giữ tài liệu là công cụ, phương tiện phạm tội; tiến hành giám định, định giá tài sản để xác định thiệt hại, chứng minh hậu quả xảy ra. Đồng thời tiến hành các biện pháp điều tra công khai khác theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành như: lấy lời khai, hỏi cung, đối chất. Khi tiến hành áp dụng các biện pháp điều tra theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự phải công khai, song kết quả điều tra thì phải giữ bí mật, có như vậy công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm về đất đai mới đạt hiệu quả cao.

Hoạt động điều tra các vụ án hình sự về đất đai đòi hỏi phải tuân thủ yêu cầu về pháp luật, chính trị, nghiệp vụ. Những yêu cầu này có mối quan hệ chặt chẽ, gắn bó với nhau, tạo nên một chỉnh thể hoàn chỉnh. Đặc biệt đối với loại án về đất đai thì đặc điểm này dường như là nổi bật. Cũng chính vì yếu tố nổi bật này mà tỷ lệ điều tra, khám phá án về đất đai rất thấp. Bởi lẽ, thông thường yêu cầu nghiệp vụ phải phục tùng yêu cầu chính trị, vì mục đích cao nhất trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung thì hoạt động điều tra là phải phục vụ đắc lực cho nhiệm vụ chính trị, không được làm phương hại hoặc ảnh hưởng xấu đến lợi ích quốc gia, dân tộc. Tuy nhiên, không được vì yêu cầu chính trị mà Cơ quan điều tra tiến hành các hoạt động điều tra khi cơ sở pháp luật chưa bảo đảm hoặc làm ảnh hưởng lớn đến công tác nghiệp vụ vì quá chú trọng, theo đuổi yêu cầu chính trị.

3. Những vấn đề phải chứng minh trong điều tra vụ án hình sự về đất đai

Việc xác định những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự về đất đai cần căn cứ vào các điều 228, 229, 230 Bộ luật Hình sự năm 2015 (quy định về các dấu hiệu của tội phạm đất đai) và Điều 85 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định về những vấn đề phải chứng minh. Theo đó, những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự về đất đai, bao gồm:

Có hành vi phạm tội về đất đai xảy ra không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội.

Khi chứng minh một người khi thực hiện hành vi vi phạm bị coi là tội phạm về đất đai, cụ thể để chứng minh một người thực hiện hành vi vi phạm các quy định trong sử dụng đất đai, được quy định tại Điều 228 Bộ luật Hình sự năm 2015, phải chứng minh người đó có hành vi lấn chiếm đất trái pháp luật, cụ thể là trái với quy định tại Điều 12 Luật Đất đai năm 2015. Những hành vi sai trái này đã gây ra hậu quả lớn, gây thiệt hại lớn cho xã hội, ảnh hưởng xấu đến việc quản lý đất đai, cần thiết phải xử lý hành vi đó theo quy định của pháp luật hình sự. Theo đó, hành vi Vi phạm các quy định trong sử dụng đất đai được thể hiện ở chỗ người phạm tội đã tự ý chuyển dịch ranh giới hoặc mốc giới thửa đất để mở rộng diện tích đất trái với quy định của pháp luật, không được pháp luật cho phép; Hành vi chiếm đất trái với quy định của pháp luật, đó là trường hợp trước đó người phạm tội được Nhà nước giao đất, cho thuê đất hợp pháp. Tuy nhiên thời hạn giao đất, cho thuê đất đã hết và không được gia hạn, nhưng chủ thể được Nhà nước giao đất, cho thuê đất đó đã không trả lại đất mà còn có hành vi chây ỳ không trả lại hoặc tiếp tục sử dụng gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước, của các cơ quan, tổ chức thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Bộ luật Hình sự năm 2015. Đối với hành vi phạm tội Vi phạm các quy định trong quản lý đất đai được quy định tại Điều 229 Bộ luật Hình sự năm 2015, cần chứng minh người phạm tội đã có hành vi lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn của mình để giao đất; thu hồi đất; cho thuê đất; cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trái với quy định của pháp luật về đất đai, cụ thể trái với quy định trong Luật Đất đai năm 2013.

Điểm mới của Bộ luật Hình sự năm 2015 so với Bộ luật Hình sự năm 1999 có quy định thêm một tội danh đó là tội Vi phạm các quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, được quy định tại Điều 230 Bộ luật Hình sự năm 2015. Theo đó cần chứng minh người phạm tội đã có hành vi vi phạm về việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Cụ thể cần phải chứng minh, làm rõ hành vi người phạm tội đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình không thực hiện đúng các nội dung trong quy trình bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, gây thiệt hại đến tài sản và lợi ích của cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức có đất bị Nhà nước thu hồi. Cụ thể:

Thứ nhất, người có thẩm quyền đã không ra thông báo thu hồi đất. Thông báo thu hồi đất phải được gửi đến từng người có đất thu hồi. Phải tiến hành tổ chức họp để phổ biến đến người dân trong khu vực có đất thu hồi về việc thu hồi đất, đồng thời phải thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng, niêm yết tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã, địa điểm sinh hoạt chung của khu dân cư nơi có đất thu hồi.

Thứ hai, xác định rõ người ra quyết định thu hồi đất phải là người có thẩm quyền thu hồi đất. Thẩm quyền thu hồi đất được quy định trong Luật Đất đai năm 2013 trên cơ sở kế thừa quy định của Luật Đất đai năm 2003.

Theo đó, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền thu hồi đất nông nghiệp thuộc quỹ đất công ích của xã, phường, thị trấn: Đối với đất của tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao, doanh nghiệp có vốn đầu từ nước ngoài; Đối với đất của hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư; Đất ở của người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở tại Việt Nam thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp huyện.

Tuy nhiên, Điều 66 Luật Đất đai năm 2013 có sửa đổi thẩm quyền thu hồi đất so với Luật Đất đai năm 2003 để cải cách hành chính khi thực hiện các dự án, cụ thể là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền quyết định thu hồi đất đối với trường hợp khu đất thu hồi có cả tổ chức và hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất.

Thứ ba, sau khi có quyết định thu hồi đất, đã tiến hành thu hồi mà không cho tiến hành kiểm kê đất đai, tài sản có trên đất, không điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm. Điều này dẫn đến thiệt hại cho người bị thu hồi và dẫn đến tranh chấp, kiện cáo, nhiều vụ việc còn gây ra những hậu quả vô cùng nghiêm trọng như có hành vi chống lại lực lượng thu hồi dẫn đến thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản của những người làm công việc này.

Thứ tư, không lập phương án bồi thường thiệt hại, hỗ trợ, tái định cư hoặc có lập phương án nhưng nhiều sai sót, không đúng và việc sai trái này được người có thẩm quyền thực hiện với lỗi cố ý. Sau khi đã lên phương án thì không niêm yết công khai để lấy ý kiến của Nhân dân để có thể điều chỉnh phương án cho sát và phù hợp.

Thứ năm, việc tổ chức chi trả bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cũng như tiến hành bàn giao mặt bằng, cưỡng chế thu hồi đất không tuân thủ đúng quy định của pháp luật, dẫn đến nhiều sai sót, gây thiệt hại cho người có đất bị thu hồi. Thậm chí, nhiều vụ án khi tiến hành cưỡng chế đã không bảo quản tài sản cho người có đất bị thu hồi;

Ngoài ra cần làm rõ một số nội dung khác như: sự việc xảy ra khi nào; những ai biết, ai là người báo tin; xảy ra ở đâu; liên quan đến những đối tượng nào; diễn biến của sự việc như thế nào... bất cứ một khâu nào trong năm bước nêu trên bị vi phạm mà dẫn đến hậu quả là gây thiệt hại nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng đến tài sản, những lợi ích khác của các cá nhân, tổ chức đều là dấu hiệu cần xem xét khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với người cố tình thực hiện những hành vi sai trái này theo Điều 230 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Ai là người thực hiện hành vi phạm tội về đất đai, có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không, động cơ, mục đích phạm tội, có đồng phạm hay không. Nội dung chứng minh này nhằm làm rõ dấu hiệu pháp lý cơ bản về mặt chủ quan và chủ thể của tội phạm đất đai, cụ thể sau đây:

Chủ thể của tội phạm đất đai phải là con người cụ thể đang sống, có tên, tuổi, quê quán, thường trú có lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo quy định của pháp luật hình sự. Người đó đã thực hiện hành vi khách quan được mô tả trong mặt khách quan của tội phạm Trường có ít nhất từ hai người trở lên, cố ý cùng thực hiện tội phạm (trường hợp đồng phạm) thì phải chứng minh làm rõ vị trí, vai trò chủ mưu, cầm đầu, xúi giục thực hành, giúp sức... của từng đối tượng cụ thể, nhằm bảo đảm nguyên tắc xử lý vụ án hình sự có đồng phạm.

Người phạm tội về đất đai phải có năng lực trách nhiệm hình sự, tức là người phạm tội phải có đầy đủ năng lực nhận thức và năng lực hành vi, không mắc bệnh tâm thần và các khuyết tật khác về thể chất, ảnh hưởng đến năng lực nhận thức và năng lực hành vi. Người thực hiện hành vi phạm tội phải đạt độ tuổi theo luật định, đó là người từ đủ 16 tuổi trở lên hoặc người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi đã thực hiện hành vi phạm tội đất đai được quy định tại khoản 3 Điều 228, 229 Bộ luật Hình sự năm 2015 và khoản 2, 3 Điều 230 Bộ luật Hình sự năm 2015. Người thực hiện hành vi phạm tội đất đai chỉ có thể là lỗi cố ý trực tiếp. Tức là người phạm tội nhận thức được việc chiếm đoạt tài sản là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện và mong muốn tội phạm được hoàn thành.

Chứng minh các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại các điều 29, 51, 52, 59 Bộ luật Hình sự năm 2015; làm rõ các đặc điểm nhân thân của bị can cũng như nguyên nhân và điều kiến phạm tội.

Cần phải làm rõ trách nhiệm hình sự, các tình tiết tăng nặng như phạm tội có tổ chức, có tính chất chuyên nghiệp, tái phạm, tái phạm nguy hiểm; Làm rõ các tình tiết giảm nhẹ như người phạm tội ăn năn, hối cải; Đã ngăn chặn, làm giảm bớt tác hại của tội phạm; Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả, v.v.. Trong quá trình điều tra vụ án hình sự về đất đai, cần phải làm rõ đặc điểm nhân thân của bị can, cụ thể: Phải làm rõ căn cước lại lịch; điều kiện kinh tế; hoàn cảnh bản thân và gia đình; tiền án, tiền sự; tái phạm, tái phạm nguy hiểm; phạm tội nhiều lần... của bị can. Ngoài ra cần xem xét nguyên nhân thực hiện hành vi phạm tội, điều kiện thực hiện hành vi phạm tội (việc phân tích yếu tố điều kiện phạm tội còn xem xét sự buông lỏng quản lý, sự không chặt chẽ trong quy định của pháp luật dẫn đến việc phạm tội).

Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội về đất đai gây ra.

Cần phải làm rõ toàn bộ thiệt hại về vật chất và tinh thần do tội phạm đất đai gây ra cho bị hại và xã hội. Cụ thể, phải làm rõ hành vi phạm tội xâm hại đến khách thể gì, gây thiệt hại như thế nào, hậu quả tội phạm ra sao, hậu quả đó phải được xác định rõ bằng những thiệt hại trên thực tế theo kết luận của Hội đồng giám định hoặc Hội đồng định giá tài sản theo quy định của pháp luật... Ngoài ra cần phải chứng minh hành vi đó đã gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh chính trị và trật tự, an toàn cho xã hội như thế nào.

Thực tế, đất đai là sở hữu toàn dân, Nhà nước đứng ra thay mặt toàn dân để quản lý đất đai và mỗi cá nhân đều được hưởng quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật. Chính vì vậy, mọi hành vi vi phạm trong quản lý và sử dụng đất đai gây phương hại đến quyền quản lý của Nhà nước về đất đai đều gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội. Tuy nhiên, đánh giá mức độ gây ảnh hưởng xấu như thế nào, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng và có cần thiết xử lý hình sự hay không cần phải có một Hội đồng xem xét và cho ý kiến về việc này.

Tóm lại, những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự về đất đai là hệ thống các tình tiết phản ánh về vụ án cần phải được làm rõ theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự về đất đai là cơ sở để đề ra kế hoạch giải quyết vụ án hình sự, giúp cho quá trình điều tra, truy tố, xét xử đạt hiệu quả cao, đồng thời có thể tránh được các hoạt động tố tụng hình sự tuỳ tiện không đúng quy định của pháp luật.

4. Trình tự điều tra các vụ án hình sự về đất đai

Tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm đất đại và kiến nghị khởi tố và công tác điều tra tại hiện trường.

Hoạt động điều tra vụ án hình sự được bắt đầu từ khi Cơ quan điều tra tiếp nhận xử lý tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố các vụ án về đất đai và kết thúc khi Cơ quan điều tra hoàn thành việc điều tra, kết luận điều tra đề nghị Viện kiểm sát truy tố hoặc quyết định đình chỉ điều tra đối với vụ án. Khi nhận được tổ giác, tin báo về tội phạm đất đai, điều tra viên đăng ký vào sổ thụ lý, báo cáo Thủ trưởng Cơ quan điều tra phân công điều tra viên giải quyết, đồng thời thông báo cho Viện kiểm sát biết để tiến hành kiểm sát việc giải quyết tin, trong trường hợp khẩn cấp cần tiến hành công tác điều tra tại hiện trường để thu thập dấu vết, tài liệu, chứng cứ, vật chứng tại hiện trường vụ án.

Áp dụng các biện pháp điều tra theo tố tụng hình sự, các biện pháp ngăn chặn và biện pháp nghiệp vụ khác để thu thập tài liệu, chứng cứ chứng minh tội phạm về đất đai

Áp dụng các biện pháp ngăn chặn để phục vụ cho việc tiến hành các hoạt động điều tra các vụ án hình sự về đất đai, như: giữ người trong trường hợp khẩn cấp; bắt tạm giữ tam giam; cấm đi khỏi nơi cư trú; bảo lãnh; đặt tiền hoặc tài sản có giá trị bảo đảm. Đây là những hoạt động nhằm bảo đảm cho quá trình điều tra vụ án hình sự về đất đai được tiến hành đúng quy định của pháp luật. Việc áp dụng biện pháp ngăn chặn phải đúng, có căn cứ, tránh trường hợp làm dụng việc áp dụng biện pháp ngăn chặn làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân,

Tiến hành các biện pháp điều tra các vụ án hình sự về đất đai theo tố tụng hình sự, như: khám nghiệm hiện trường; thu thập các thông tin, tài liệu, vật chứng liên quan đến vụ án; khám xét, kê biên, phong tỏa tài sản: hỏi cung bị can, lấy lời khai người làm chứng, bị hại, người liên quan; trưng cầu giám định chuyên môn định giá tài sản đất; nhận dạng; đối chất; thực nghiệm điều tra;... nhằm mục đích thu thập tài liệu chứng c chứng minh hành vi phạm tội về đất đai, chứng cứ gi tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị can, các tình tiết khác liên quan đến việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của bị can và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự về đất đai.

Kết thúc điều tra

Kết thúc điều tra là một trong những nội dung quan trọng trong điều tra vụ án hình sự về đất đai. Khi có đủ căn cứ chứng minh hành vi phạm tội và người thực hiện hành vi phạm tội về đất đai, Cơ quan điều tra sẽ làm bản kết luận điều tra, chuyển hồ sơ vụ án hình sự về đất đai sang Viện kiểm sát để đề nghị truy tố. Kết luận điều tra phải phản ánh được toàn bộ kết quả của quá trình điều tra vụ án hình sự về đất đai và dựa trên cơ sở những tài liệu, chứng cứ, tài liệu đã thu thập được. Khi có các căn cứ được quy định tại điểm a, b khoản 1 Điều 230 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì Cơ quan điều tra sẽ ra quyết định đình chỉ điều tra vụ án.

Có thể thấy rằng tội phạm về đất đai hiện nay là vấn đề khá nội cộm nhưng công tác điều tra, xét xử đối với loại tội phạm này còn tồn tại nhiều vấn đề. Số lượng vụ án đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án chiếm tỷ lệ tương đối cao, thời gian giải quyết đối với các vụ việc về đất đai thường kéo dài, phức tạp… Do đó việc nắm rõ các khái niệm, đặc điểm về đất đai, về hoạt động điều tra đất đai nhằm xem xét lại các quy định hiện hành, xem xét đánh giá chính sách về đất đai nói chung và về điều tra hình sự đất đai nói riêng là rất quan trọng nhằm xây dựng, bổ sung, hoàn thiện khung pháp lý liên quan tới lĩnh vực này.

 


[1] Điều 107 Bộ luật Dân sự năm 2015

[2] Viện Khoa học pháp lý (Bộ Tư pháp): Từ điển Luật học, Nxb. Từ diễn Bách khoa - Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2006.

[3] Học viện Cảnh sát nhân dân: Lý luận chung của khoa học hình sự, Hà Nội, 2016.

Đăng ký nhận email

Đăng ký email để có thể có được những cập nhật mới nhất về tải liệu được đăng tải trên website

Tập san đã phát hành