1. Quy định về hình thức của hợp đồng gia nhập
Cho đến nay, các vấn đề liên quan đến hình thức của hợp đồng gia nhập chưa được nhà làm luật quy định cụ thể. Do đó, về cơ bản, các vấn đề chung nhất liên quan đến hợp đồng trong đó bao gồm cả hợp đồng gia nhập được quy định tại Bộ luật Dân sự năm năm 2015. Chính vì vậy, các quy chế pháp lý chung được thiết kế và áp dụng cho hợp đồng cũng sẽ có giá trị đối với hợp đồng gia nhập, bao gồm cả quy định về hình thức của hợp đồng.
Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định về hình thức của hợp đồng dân sự tại Điều 401 như sau: “1. Hợp đồng dân sự có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể, khi pháp luật không quy định loại hợp đồng đó phải được giao kết bằng một hình thức nhất định. 2. Trong trường hợp pháp luật có quy định hợp đồng phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký hoặc xin phép thì phải tuân theo các quy định đó”. Tuy nhiên, khi Bộ luật Dân sự năm năm 2015 được ban hành thì quy định về hình thức của hợp đồng đã bị xóa bỏ. Thay vào đó, Bộ luật Dân sự năm năm 2015 chỉ quy định về hình thức của giao dịch dân sự tại Điều 119, cụ thể: “1. Giao dịch dân sự được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể. Giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử được coi là giao dịch bằng văn bản. 2. Trường hợp luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực, đăng ký thì phải tuân theo quy định đó”. Như vậy, theo nội dung điều luật nêu trên thì về cơ bản, hình thức củahợp đồng trong đó bao gồm cả hợp đồng gia nhập sẽ được áp dụng theo quy định về hình thức của giao dịch dân sự.
Mặc dù Bộ luật Dân sự năm năm 2015 không quy định cụ thể về hình thức của hợp đồng gia nhập. Tuy nhiên, ở góc độ luật chuyên ngành, khoản 1; 4 Điều 14 Luật Bảo vệ người tiêu dùng năm 2010 đã có quy định về hình thức của hợp đồng giao dịch với người tiêu dùng, cụ thể: “1. Hình thức hợp đồng giao kết với người tiêu dùng được thực hiện theo quy định của pháp luật về dân sự. 4. Chính phủ quy định chi tiết các hình thức giao kết hợp đồng khác với người tiêu dùng”. Để cụ thể hóa quy định nêu trên của Luật Bảo vệ người tiêu dùng năm 2010, Điều 7 Nghị định số 99/2011/NĐ-CP quy định về hình thức và nội dung hợp đồng gia nhập giao kết với người tiêu dùng như sau: “Hợp đồng theo mẫu và điều kiện giao dịch chung phải được lập thành văn bản và phải đáp ứng đủ các điều kiện sau: 1. Ngôn ngữ sử dụng bằng tiếng Việt, nội dung phải rõ ràng, dễ hiểu; cỡ chữ ít nhất là 12; 2. Nền giấy và màu mực thể hiện nội dung hợp đồng theo mẫu và điều kiện giao dịch chung phải tương phản nhau”. Hiện nay, luật không quy định cụ thể hình thức của hợp đồng gia nhập được giao kết giữa thương nhân với các chủ thể khác mà không phải là người tiêu dùng. Do đó, đối với các giao dịch như vậy, các bên có thể lựa chọn bất cứ hình thức nào của hợp đồng để giao kết mà không trái với quy định tại Điều 119 Bộ luật dân sự năm 2015.
Thực tiễn cho thấy các bên thường giao kết hợp đồng gia nhập bằng hình thức văn bản, điều này xuất phát từ tính chất đặc thù của loại hợp đồng này so với các loại hợp đồng truyền thống khác. Chính vì vậy, trong thời gian tới, khi Việt Nam sửa đổi, bổ sung Bộ luật Dân sự năm năm 2015, Luật Bảo vệ người tiêu dùng năm 2010 và các văn bản pháp luật liên quan, nhà làm luật cần quy định cụ thể, chi tiết hơn các vấn đề liên quan đến hình thức của hợp đồng gia nhập.
2. Quy định về nguyên tắc giao kết và trình tự giao kết hợp đồng gia nhập
Trước thời điểm Bộ luật Dân sự năm năm 2015 có hiệu lực, các nguyên tắc giao kết hợp đồng nói chung và hợp đồng gia nhập nói riêng được quy định tại Điều 389 Bộ luật Dân sự năm năm 2005. Hiện nay, Bộ luật Dân sự năm năm 2015 không thiết kế riêng một điều luật cụ thể quy định về nguyên tắc giao kết hợp đồng mà gộp chung vào phần “các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự” tại Điều 3 Bộ luật Dân sự năm năm 2015. Chính vì vậy, các nguyên tắc giao kết hợp đồng nói chung trong đó có hợp đồng gia nhập nói riêng sẽ được áp dụng theo quy định tại khoản 2; 3 Điều 3 Bộ luật Dân sự năm năm 2015, cụ thể: “2. Cá nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng; 3. Cá nhân, pháp nhân phải xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình một cách thiện chí, trung thực”.
Để đảm bảo yếu tố “thỏa thuận” luôn được đề cao và là “hạt nhân” của quá trình giao kết hợp đồng, Bộ luật Dân sự năm năm 2015 đã có những quy định cụ thể, chi tiết để điều chỉnh vấn đề này. Tất cả những hợp đồng được giao kết do giả tạo[1], do bị nhầm lẫn[2] hoặc do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép[3] đều vi phạm nguyên tắc tự nguyện khi giao kết hợp đồng và sẽ bị tuyên vô hiệu bởi cơ quan tài phán có thẩm quyền.
Hiện nay, luật chỉ quy định chung các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự mà không quy định cụ thể nguyên tắc giao kết hợp đồng (trong đó có hợp đồng gia nhập), việc quy định như vậy dường như chưa được hợp lý bởi lẽ mỗi loại hợp đồng đều có điểm chung nhưng cũng có những điểm riêng biệt. Việc pháp luật hiện hành thiếu đi các nguyên tắc có tính chất đặc thù nhằm bổ sung cho các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự tương ứng với hợp đồng nói chung và hợp đồng gia nhập nói riêng là một khiếm khuyết cần được nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện. Do đó, bên cạnh việc quy định các nguyên tắc chung, có tính khái quát để điều chỉnh các vấn đề chung nhất liên quan đến pháp luật dân sự thì cần bổ sung các nguyên tắc riêng đối với việc giao kết những loại hợp đồng có tính chất đặc thù như hợp đồng gia nhập. Thực tiễn cho thấy việc giao kết hợp đồng gia nhập hiếm khi có bình đẳng, công bằng như đã phân tích ở trên. Chính vì vậy, cần bổ sung nguyên tắc “công bằng, bình đẳng” trong quá trình giao kết hợp đồng gia nhập.
Hiện nay, nhà làm luật chưa thiết kế riêng quy định để điều chỉnh về trình tự giao kết hợp đồng gia nhập. Chính vì vậy, về cơ bản, trình tự giao kết hợp đồng gia nhập sẽ được thực hiện theo các quy định về trình tự giao kết hợp đồng nói chung.
Hiện nay, theo luật định, trình tự giao kết hợp đồng gồm hai giai đoạn là đề nghị giao kết hợp đồng và chấp nhận giao kết hợp đồng.
Khoản 1 Điều 386 Bộ luật Dân sự năm năm 2015 quy định về đề nghị giao kết hợp đồng như sau: “Đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định hoặc tới công chúng (sau đây gọi chung là bên được đề nghị)”. Thông thường, bên đề nghị giao kết hợp đồng là bên đưa ra những điều khoản của hợp đồng. Việc đề nghị giao kết hợp đồng có thể được thực hiện trực tiếp hoặc gián tiếp qua điện thoại, công văn, giấy tờ qua bưu điện... Để đảm bảo quyền lợi của bên được đề nghị, khoản 2 Điều 386 Bộ luật Dân sự năm2015 quy định “Trường hợp đề nghị giao kết hợp đồng có nêu rõ thời hạn trả lời, nếu bên đề nghị lại giao kết hợp đồng với người thứ ba trong thời hạn chờ bên được đề nghị trả lời thì phải bồi thường thiệt hại cho bên được đề nghị mà không được giao kết hợp đồng nếu có thiệt hại phát sinh”.
Như vậy, lời đề nghị chưa phải là hợp đồng, nó chỉ có tính chất như một bản chào hàng và là bước đầu tiên để có thể ký kết hợp đồng. Do đó, bên đề nghị có thể thay đổi, rút lại đề nghị giao kết hợp đồng trong các trường hợp luật định tại điểm a; b khoản 1 Điều 389 Bộ luật Dân sự năm 2015, cụ thể: “a) Bên được đề nghị nhận được thông báo về việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị trước hoặc cùng với thời điểm nhận được đề nghị; b) Điều kiện thay đổi hoặc rút lại đề nghị phát sinh trong trường hợp bên đề nghị có nêu rõ về việc được thay đổi hoặc rút lại đề nghị khi điều kiện đó phát sinh”.
Điều 393 Bộ luật Dân sự năm2015 quy định về chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng như sau: “1. Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là sự trả lời của bên được đề nghị về việc chấp nhận toàn bộ nội dung của đề nghị. 2. Sự im lặng của bên được đề nghị không được coi là chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc theo thói quen đã được xác lập giữa các bên.”
Như vậy, pháp luật hiện hành đã quy định khá cụ thể, chi tiết về trình tự giao kết hợp đồng nói chung. Tuy nhiên, việc thiếu đi quy định pháp luật hướng dẫn trình tự giao kết hợp đồng gia nhập đã hạn chế phần nào tính hiệu quả của pháp luật trong việc thực hiện mục tiêu bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng bởi lẽ trong hợp đồng gianhập, bên gia nhập không có quyền đàm phán, thương lượng về các điều khoản của hợp đồng.
3. Quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên giao kết hợp đồng gia nhập
Hiện nay, pháp luật hiện hành không quy định cụ thể về các vấn đề liên quan đến quyền và nghĩa vụ của các bên giao kết hợp đồng nói chung và hợp đồng gia nhập nói riêng. Tuy nhiên, đối với một số loại hợp đồng nhất định, Bộ luật Dân sự năm2015 đã có những quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên giao kết hợp đồng, cụ thể: Đối với hợp đồng dịch vụ: Quyền và nghĩa vụ của bên sử dụng dịch vụ[4]; Quyền và nghĩa vụ của bên cung ứng dịch vụ[5]. Đối với hợp đồng vận chuyển hành khách: Quyền và nghĩa vụ của bên vận chuyển[6]; Quyền và nghĩa vụ của hành khách[7] ...
Xuất phát từ tính chất đặc thù của hợp đồng gia nhập là loại hợp đồng do một bên soạn sẵn và đưa ra, bên kia chỉ có quyền chấp nhận hoặc không chấp nhận mà không có quyền đàm phán, thỏa thuận về các điều khoản đó. Chính vì vậy, các điều khoản về quyền và nghĩa vụ của các bên cũng là đối tượng không thể thỏa thuận trong hợp đồng gia nhập. Trong khi đó, các điều khoản này có ý nghĩa rất quan trọng đối với các bên giao kết hợp đồng, đặt biệt là đối với bên được đề nghị. Thực tiễn cho thấy bên đề nghị thường có xu hướng “gài cắm” các điều khoản mang lại lợi thế tối đa mình, đẩy bất lợi, rủi ro cho bên được đề nghị. Chính vì vậy, để bảo vệ bên yếu thế trong quan hệ hợp đồng gia nhập nhằm hạn chế các điều khoản lạm dụng, nhất là các điều khoản lạm dụng liên quan đến quyền và nghĩa vụ của các bên giao kết hợp đồng, pháp luật cần quy định cụ thể các nội dung về quyền và nghĩa vụ của các bên giao kết hợp đồng gia nhập và nội dung này phải được các bên đưa vào trong hợp đồng khi giao kết. Khi xây dựng các nội dung này, cần thực hiện theo nguyên tắc quyền của bên đề nghị phải tương ứng với nghĩa vụ của bên được đề nghị và ngược lại.
Mặc dù Bộ luật Dân sự năm 2015 không có quy định cụ thể điều chỉnh các vấn đề liên quan đến quyền và nghĩa vụ của các bên giao kết hợp đồng gia nhập. Tuy nhiên, Luật Bảo vệ người tiêu dùng năm 2010 đã có khá nhiều quy định liên quan đến quyền và nghĩa vụ của người tiêu dùng và trách nhiệm của thương nhân đối với người tiêu dùng, đây chínhlà cơ sở để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên giao kết hợp đồng gia nhập, cụ thể: Quyền của người tiêu dùng[8]; Nghĩa vụ của nười tiêu dùng[9]; Trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dich vụ đối với người tiêu dùng[10].
4. Quy định về hiệu lực của hợp đồng gia nhập và hợp đồng gia nhập vô hiệu
Về cơ bản, các vấn đề liên quan đến hiệu lực của hợp đồng gia nhập được quy định tại pháp luật dân sự. Điều 117 Bộ luật Dân sự năm2015 quy định về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự như sau: “1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây: a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập; b) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện; c) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; 2. Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định.”
Để hợp đồng gia nhập có hiệu lực, bản thân hợp đồng đó ngoài việc phải tuân thủ các điều kiện mà giao dịch dân sự cần phải có, còn phải tuân theo các điều kiện riêng, đặc thù xuất phát từ tính chất, đặc điểm của hợp đồng gia nhập, tức là không vi phạm 9 trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 16 Luật Bảo vệ người tiêu dùng năm 2010. Như vậy, khái quát chung lại, có bốn điều kiện cơ bản sau để một hợp đồng gia nhập có hiệu lực, đó là:
Thứ nhất, các chủ thể giao kết hợp đồng phải hợp pháp. Thông thường các bên giao kết phải có đầy đủ năng lực hành vi dân sự;
Thứ hai, các chủ thể giao kết hợp đồng phải hoàn toàn tự nguyện tức là xuất phát từ ý chí thực, từ tự do ý chí của các bên trong việc giao kết hợp đồng đó;
Thứ ba, nội dung của hợp đồng không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội. Đối tượng của hợp đồng không thuộc hàng hóa cấm giao dịch, công việc cấm thực hiện. Bên cạnh đó, nội dung của hợp đồng cần cụ thể, bởi vì việc xác lập nghĩa vụ trong hợp đồng phải có tính khả thi. Những nghĩa vụ trong hợp đồngmà không thể thực hiện được, hợp đồng cũng không được coi là có hiệu lực pháp luật làm phát sinh quyền và nghĩa vụ;
Thứ tư, hình thức của hợp đồng phải tuân theo những thể thức nhất định phù hợp với quy định pháp luật được thiết kế tương ứng cho từng loại hợp đồng.
Chính vì vậy, hợp đồng gia nhập nếu không đáp ứng được một trong các điều kiện như đã phân tích ở trên sẽ không có hiệu lực. Do đó, không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên giao kết hợp đồng.
Hiện nay, Quyết định số 02/2012/QĐ-TTg; Quyết định số 35/2015/QĐ-TTg; Quyết định số 38/2018/QĐ-TTg và Quyết định số 25/2019/QĐ-TTg quy định 9 nhóm hàng hóa, dịch vụ phải đăng ký hợp đồng gia nhập, điều kiện giao dịch chung tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm mục đích chính là để nhà nước có thể kiểm soát nội dung các điều khoản của hợp đồng, ngăn chặn hoặc hạn chế việc thương nhân “gài cắm” các điều khoản lạm dụng vào trong hợp đồng, gây bất lợi cho người tiêu dùng, ảnh hưởng đến trật tự chung của xã hội. Sở dĩ pháp luật quy định 9 nhóm hàng hóa, dịch vụ phải đăng ký vì đây là những lĩnh vực thiết yếu đối với đời sống của người dân, số lượng hợp đồng gia nhập được giao kết và thực hiện nhiều nên cần có sự kiểm soát chặt chẽ của nhà nước thông qua thủ tục đăng ký, thẩm tra và cho phép. Vậy những hợp đồng gia nhập thuộc 9 nhóm nêu trên nhưng thương nhân không đăng ký hoặc đăng ký nhưng không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp nhận mà thương nhân vẫn dùng hợp đồng đó để giao kết với người tiêu dùng thì có hiệu lực không? Trường hợp này không vi phạm bốn điều kiện cơ bản nêu trên nhưng đã vi phạm quy định của các quyết định nêu trên nên những hợp đồng đó sẽ không có hiệu lực vì vi phạm khoản 2 Điều 117 Bộ luật Dân sự năm2015.
Ngoài vấn đề hiệu lực của hợp đồng thì thời điểm có hiệu lực của hợp đồng cũng là một nội dung cơ bản, Điều 404 Bộ luật dân sự năm 1995 quy định: “1- Hợp đồng được giao kết hợp pháp có hiệu lực bắt buộc đối với các bên; 2- Hợp đồng chỉ có thể bị sửa đổi hoặc hủy bỏ, nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định; 3- Hợp đồng có hiệu lực kể từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”. Về vấn đề này, Điều 405 Bộ luật Dân sự năm2005 không quy định cụ thể như Điều 404 Bộ luật Dân sự năm1995 mà chỉ quy định một cách khái quát “Hợp đồng được giaokết hợp pháp có hiệu lực từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”. Chính vì vậy, để khắc phục hạn chế từ các quy định trước đó, Điều 401 Bộ luật Dân sự năm2015 đã quy định cụ thể hơn về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng: “1. Hợp đồng được giao kết hợp pháp có hiệu lực từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật liên quan có quy định khác; 2. Từ thời điểm hợp đồng có hiệu lực, các bên phải thực hiện quyền và nghĩa vụ đối với nhau theo cam kết. Hợp đồng chỉ có thể bị sửa đổi hoặc hủy bỏ theo thỏa thuận của các bên hoặc theo quy định của pháp luật”. Đây được xem là một trong những điểm tiến bộ của Bộ luật Dân sự năm2015 liên quan đến hiệu lực và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng nói chung và hợp đồng gia nhập nói riêng.
Như vậy, theo nội dung Điều 401 Bộ luật Dân sự năm2015, hợp đồng có hiệu lực kể từ thời điểm giao kết. Ngoài ra, thời điểm có hiệu lực của hợp đồng còn được xác định theo sự thỏa thuận của các bên hoặc theo quy định của pháp luật liên quan. Việc quy định như vậy cho thấy nhà làm luật đã mở rộng quyền lựa chọn của các bên đối với thời điểm có hiệu lực của hợp đồng và điều này là phù hợp với tinh thần chung của hợp đồng là tự do ý chí, việc tự do ý chí ở đây không chỉ dừng lại ở nội dung của hợp đồng mà còn ở thời điểm có hiệu lực của hợp đồng.
Thông thường, thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là thời điểm giao kết hợp đồng, được hiểu là thời điểm bên sau cùng ký vào hợp đồng. Khi hợp đồng có hiệu lực sẽ có giá trị ràng buộc đối với các bên giao kết hợp đồng và điều này được khẳng định trong các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại khoản 2 Điều 3 Bộ luật Dân sự năm2015 "… Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng".
Xuất phát từ đặc điểm vốn có của hợp đồng gia nhập nên thời điểm có hiệu lực của loại hợp đồng này cũng có sự khác biệt nhất định khi so sánh với hợp đồng truyền thống thể hiện ở việc đối với những hợp đồng có tính chất “gia nhập”, các bên không cần tham gia ngay từ đầu mà có thể tự nguyện tuyên bố gia nhập sau khi hợp đồng được xác lập. Việc chủ thể tuyên bố ý chí giao kết hợp đồng sau khi hợp đồng đã được xác lập và được sự “chấp nhận” của các bên có liên quan trong hợp đồng, cũng được xem là chủ thể, có quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng kể từ thời điểm đó[11]. Ví dụ: Trong hợp đồng hợp tác để thành lập tổ hợp tác. Ban đầu, hợp đồng chỉ được giao kết bởi các thành viên “sáng lập” tổ hợp tác. Sau này, nếu có người muốn gia nhập, có thể làm đơn xin gia nhập gửi cho tổ hợp tác[12]. Khi có sự đồng ý của đa số tổ viên, người đó trở thành thành viên của tổ hợp tác[13], theo đó coi như người xin “gia nhập” tổ hợp tác đã mặc nhiên chấp nhận nội dung hợp đồng hợp tác mà không cần trực tiếp tham gia giao kết hợp đồng.
Hiện nay, không có quy định riêng về hậu quả pháp lý và việc xử lý hợp đồng gia nhập vô hiệu nên các vấn đề này được áp dụng theo quy định tại Điều 131 Bộ luật Dân sự năm 2015 về hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu, cụ thể: “1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập. 2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả. 3. Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó. 4. Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường. 5. Việc giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến quyền nhân thân do Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định”.
Mặc dù quy định nêu trên là khá đầy đủ và chi tiết, tuy nhiên, do tính chất đặc thù của hợp đồng gia nhập nên ngoài các quy định chung như trên, nhà làm luật cũng cần nghiên cứu bổ sung thêm các quy định có tính chất đặc thù để điều chỉnh vấn đề này nhằm bảo vệ tốt hơn quyền lợi của bên gia nhập trong trường hợp hợp đồng gia nhập vô hiệu.
5. Quy định về chế tài đối với hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng gia nhập
Hiện nay, pháp luật hiện hành không quy định các loại chế tài áp dụng riêng đối với hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng gia nhập. Do đó, khi chưa có quy định cụ thể về vấn đề này thì về nguyên tắc, các quy định liên quan đến chế tài đối với hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng nói chung được áp dụng cho hợp đồng gia nhập. Các bên giao kết hợp đồng có thể thỏa thuận về việc xác định chế tài nào sẽ được ápdụng khi có hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng. Trong trường hợp các bên không có thỏa thuận thì các quy định pháp luật về trách nhiệm do vi phạm từng loại hợp đồng nói riêng và các quy định pháp luật về trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ nói chung mặc nhiên được áp dụng.
Thực tiễn cho thấy có hai loại chế tài thường được áp dụng đối với hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng là phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại. Phạt vi phạm là sự thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng, theo đó bên vi phạm nghĩa vụ phải nộp một khoản tiền cho bên bị vi phạm[14]. Điều kiện tiên quyết để áp dụng chế tài phạt vi phạm là khi có sự thỏa thuận của các bên giao kết hợp đồng, bản thân một bên vi phạm hợp đồng chưa đủ để áp dụng phạt vi phạm hợp đồng[15]. Thông thường điều khoản phạt hợp đồng được các bên thỏa thuận và quy định trong hợp đồng. Tuy nhiên, nếu thông qua các văn bản, tài liệu trao đổi giữa các bên mà xác định được ý chí chung của các bên về việc xác lập điều khoản phạt vi phạm hợp đồng, đây có thể coi là một điều khoản phạt vi phạm hợp đồng hợp pháp mà không nhất thiết phải thể hiện trong hợp đồng[16]. Về vấn đề này, Điều 418 Bộ luật Dân sự năm2015 đã có cách tiếp cận rộng khi đề cập đến yếu tố thỏa thuận khi chỉ nêu “Phạt vi phạm và sự thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng”. Chỉ cần “các bên trong hợp đồng” có “thỏa thuận” về phạt vi phạm hợp đồng là được và thỏa thuận này không nhất thiết phải có trong hợp đồng và cùng thời điểm với hợp đồng[17]. Trong khi đó, đối với chế tài bồi thường thiệt hại thì ngoài điều kiện là có hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng thì chế tài này chỉ được áp dụng khi có thiệt hại thực tế xảy ra và có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại xảy ra mà không cần có sự thỏa thuận của các bên giao kết hợp đồng.
Hiện nay, pháp luật không quy định cụ thể mức phạt vi phạm trong hợp đồng dân sự mà tôn trọng sự thỏa thuận của các bên, khoản 2 Điều 418 Bộ luật Dân sự năm2015 quy định “Mức phạt vi phạm do các bên thỏa thuận, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác”. Tuy nhiên, sự thỏa thuận cũng có giới hạn nhất định và giới hạn này phụ thuộc vào quy định của luật chuyên ngành. Trong lĩnh vực thương mại thì mức phạt căn cứ vào giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm, và không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm[18].
Xuất phát từ tính chất đặc thù của hợp đồng gia nhập là hợp đồng do một bên soạn sẵn các điều khoản và đưa ra, bên kia chỉ có quyền chấp nhận hoặc không chấp nhận mà không có quyền đàm phán, thỏa thuận về các điều khoản đó. Do đó, nếu bên đề nghị không đưa điều khoản chế tài đối với hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng vào trong hợp đồng gia nhập thì điều khoản này sẽ không tồn tại trong hợp đồng gia nhập và hiển nhiên việc làm này của bên đề nghị có nguy cơ ảnh hưởng đến các quyền, lợi ích của bên được đề nghị. Chính vì vậy, pháp luật cần có quy định cụ thể liên quan đến nghĩa vụ của bên đề nghị trong việc đưa điều khoản này vào trong hợp đồng gia nhập nhằm đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của bên được đề nghị.
6. Quy định về giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm pháp luật hợp đồng gia nhập
Hiện nay, Bộ luật Dân sự năm2015 không có quy định cụ thể điều chỉnh các vấn đề liên quan đến việc giải quyết tranh chấp về hợp đồng gia nhập ngoại trừ các quy định về thời hiệu khởi kiện từ Điều 154 đến Điều 157 và được áp dụng chung cho các tranh chấp dân sự, trong đó có tranh chấp về hợp đồng gia nhập. Chính vì vậy, về mặt tố tụng, các quy định pháp luật của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 sẽ được áp dụng để giải quyết tranh chấp về hợp đồng gia nhập như đối với các loại hợp đồng truyền thống khác.
Mặc dù Bộ luật Dân sự năm2015 không quy định cụ thể về vấn đề này. Tuy nhiên, Luật Bảo vệ người tiêu dùng năm 2010 đã xây dựng riêng Chương IV, từ Điều 30 đến Điều 46 quy định về các phương thức giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ bao gồm: Thương lượng; Hòa giải; Trọng tài và Tòa án. Đặc biệt, Luật Bảo vệ người tiêu dùng năm 2010 đã có quy định mang tính đặc thù trong việc áp dụng thủ tục rút gọn để giải quyết vụ/việc dân sự liên quan đến bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng với một số điều kiện cụ thể như: Vụ án dân sự đơn giản; chứng cứ rõ ràng; giá trị giao dịch dưới 100 triệu…[19] .
Liên quan đến việc giải quyết tranh chấp hợp đồng gia nhập giữa thương nhân với người tiêu dùng trong lĩnh vực mua bán căn hộ chung cư, dưới đây là một ví dụ điển hình: Công ty H (Bị đơn - Bên bán) ký hợp đồng mua bán căn hộ với ông K (Nguyên đơn - Bên mua). Trong hợp đồng các bên thỏa thuận chọn VIAC. Khi cótranh chấp, Bên mua đã khởi kiện và Hội đồng Trọng tài theo hướng Bên mua “được quyền đơn phương chấm dứt theo Điều 13 hợp đồng” và việc “Nguyên đơn yêu cầu Bị đơn thanh toán 1.420.000.000 VND tiền ứng trước cho việc bán căn hộ theo hợp đồng” là “có căn cứ”. Tuy nhiên, “Hội đồng Trọng tài bác yêu cầu của Nguyên đơn đòi Bị đơn bồi thường thiệt hại vì không chứng minh được những thiệt hại đó”[20]. Từ thực tiễn nêu trên cho thấy việc giải quyết tranh chấp về hợp đồng gia nhập giữa thương nhân với người tiêu dùng tại cơ quan tài phán có tính chất đặc thù khi so sánh với việc giải quyết tranh chấp về hợp đồng truyền thống và các loại hợp đồng gia nhập khác, điều này thể hiện ở những khía cạnh sau: Người tiêu dùng có quyền lựa chọn Trọng tài hoặc Tòa án để giải quyết tranh chấp cho dù điều khoản Trọng tài đã được thương nhân soạn sẵn và đưa vào trong hợp đồng; Thương nhân chỉ được khởi kiện tại Trọng tài nếu được người tiêu dùng chấp nhận[21]; Người tiêu dùng không có nghĩa vụ chứng minh lỗi của thương nhân[22]; Người tiêu dùng không phải nộp tạm ứng án phí, tạm ứng lệ phí Tòa án[23];
Như vậy, có thể thấy rằng, các quy định pháp luật liên quan đến việc giải quyết tranh chấp về hợp đồng gia nhập hiện nay được quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2015; Luật Bảo vệ người tiêu dùng năm 2010; Luật Trọng tài thương mại năm 2010 và Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Trong khi Bộ luật Dân sự năm2015 chứa đựng các quy định chung nhất để giải quyết các tranh chấp về dân sự nói chung, trong đó có tranh chấp về hợp đồng gia nhập giữa người tiêu dùng (hoặc thương nhân) với thương nhân thì Luật Bảo vệ người tiêu dùng năm 2010 đã có những quy định cụ thể, chi tiết hơn liên quan đến việc giải quyết tranh chấp về hợp đồng gia nhập giữa người tiêu dùng với thương nhân.
Hiện nay, pháp luật hiện hành quy định chế tài xử lý đối với các hành vi vi phạm pháp luật hợp đồng gia nhập gồm hai loại, đó là biện pháp xử phạt tiền và biện pháp xử phạt bổ sung như: Buộc đăng ký, đăng ký lại hợp đồng gia nhập; buộc thực hiện các quy định về lưu giữ và cấp bản sao hợp đồng; buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp… Các chế tài này được quy định tại Nghị định số 19/2012/NĐ-CP[24]và Nghị định số 98/2020/NĐ-CP[25]. Tuyên vô hiệu một phần hoặc toàn bộ các điều khoản của hợp đồng gia nhập khi vi phạm các quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015[26].
Nhìn chung, những chế tài được quy định tại các văn bản pháp luật nêu trên khá đầy đủ. Do đó, đã hạn chế được đáng kể những hành vi vi phạm liên quan đến việc giao kết và thực hiện hợp đồng gia nhập. Tuy nhiên, có thể thấy là ngưỡng phạt tiền đối với các hành vi vi phạm liên quan đến việc giao kết và thực hiện hợp đồng gia nhập còn khá thấp dẫn đến hệ quả là các hành vi vi phạm chưa có chiều hướng giảm.
[1]Quốc hội (2015), Bộ luật Dân sự, HàNội, Điều 124
[2]Quốc hội (2015), Bộ luật Dân sự, HàNội, Điều 126
[3]Quốc hội (2015), Bộ luật Dân sự, HàNội, Điều 126
[4]Quốc hội (2015), Bộ luật Dân sự, Hà Nội, Điều 515-516
[5]Quốc hội (2015), Bộ luật Dân sự, Hà Nội, Điều 517-518
[6]Quốc hội (2015), Bộ luật Dân sự, Hà Nội, Điều 524-525
[7]Quốc hội (2015), Bộ luật Dân sự, Hà Nội, Điều 526-527
[8]Quốc hội (2010), Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Hà Nội, Điều 8
[9]Quốc hội (2010), Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Hà Nội, Điều9
[10]Quốc hội (2010), Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Hà Nội, Điều 12 đến Điều 23
[11]Lê Minh Hùng (2010), Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật ViệtNam,LuậnánTiếnsĩLuậthọc,chuyênngànhLuậtKinhtế,TrƣờngĐại học Luật Thành phố Hồ ChíMinh, tr.20
[12]Chính phủ (2011), Nghị định số 99/2011/NĐ-CP ngày 27/10/2011 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, HàNội, Điều 7
[13]Quốc hội (2005), Bộ luật Dân sự, HàNội, Điều 118
[14]Quốc hội (2015), Bộ luật Dân sự, HàNội, khoản 1 Điều 418
[15]Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (2019), Giải quyết tranh chấp hợp đồng - Những điều doanh nhân cần biết, Nxb. Thanh Niên, HàNội, tr.156
[16]Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (2019), Giải quyết tranh chấp hợp đồng - Những điều doanh nhân cần biết, Nxb. Thanh Niên, HàNội, tr.158
[17]Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (2019), Giải quyết tranh chấp hợp đồng - Những điều doanh nhân cần biết, Nxb. Thanh Niên, HàNội, tr.159
[18]Quốc hội (2005), Luật Thương mại, HàNội, Điều 301
[19]Quốc hội (2010), Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, HàNội, khoản 2 Điều 41
[20]Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (2019), Giải quyết tranh chấp hợp đồng - Những điều doanh nhân cần biết, Nxb. Thanh Niên, HàNội, tr.258
[21]Quốc hội (2010), Luật Trọng tài Thương mại, HàNội, Điều 6
[22]Quốc hội (2010), Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, HàNội, Khoản 1, Điều 42
[23]Quốc hội (2010), Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, HàNội, Khoản2, Điều 43
[24]Chính phủ (2012), Nghị định số 19/2012/NĐ-CP ngày 16/3/2012 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, HàNội, từ Điều 9 đến Điều 17.
[25]Chính phủ (2020), Nghị định số 98/2020/NĐ-CP ngày 26/8/2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Hà Nội, từ Điều 9 đến Điều 17.
[26]Quốc hội (2015), Bộ luật Dân sự, HàNội, từ Điều 123 đến Điều 129.