Thứ hai, 11 Tháng 7 2022 16:13

Khái quát pháp luật về nguyên tắc giám sát của cơ quan dân cử đối với hoạt động tố tụng hình sự từ giai đoạn đổi mới đến nay (1988- 2020)

1. Giai đoạn 1988 - 2003

Hiến pháp 1992 là sự thay đổi khá lớn về tổ chức quyền lực nhà nước so với Hiến pháp 1980. Từ một mô hình xã hội chủ nghĩa kiểu Liên Xô của Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 khẳng định các chính sách của thời kỳ đổi mới kể từ Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986. Cùng với sự long trọng khẳng định nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của dân, do dân và vì dân (ở lần sửa đổi Hiến pháp năm 2001), Hiến pháp 1992 thiết lập cơ chế đảm bảo quyền lực nhà nước là thống nhất xét về mặt bản chất nhưng “lần đầu tiên…thừa nhận những hạt nhân hợp lý của học thuyết phân chia quyền lực bằng cách phân công, phân nhiệm rạch ròi giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp”[1]. Bối cảnh này đòi hỏi các cơ chế giám sát đối với quyền lực nhà nước trong hoạt động tố tụng hình sự phải có sự thay đổi so với giai đoạn trước nhằm phù hợp với tinh thần Hiến pháp mới.

Trước hết đối với chủ thể giám sát là Quốc hội, Hiến pháp 1992 quy định chức năng giám sát của Quốc hội theo hướng rộng hơn về phạm vi, cụ thể về hình thức và phương pháp. Theo đó, Quốc hội giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước. ên cạnh đó, trong cơ chế giám sát Quốc hội còn có các tiểu cơ chế đó là Quốc hội không chỉ giám sát tố tụng hình sự thông qua các kỳ họp Quốc hội mà còn thông qua các cơ quan của mình và đặc biệt thông qua hoạt động của đại biểu Quốc hội.

Theo Hiến pháp 1992, Ủy ban Thường vụ Quốc hội giám sát việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, Pháp lệnh, nghị quyết của UBTVQH, giám sát hoạt động của Chính phủ, TANDTC, VKSNDTC. Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội thực hiện việc giám sát trong phạm vi nhiệm vụ của mình. Các cơ quan của Quốc hội khi cần thiết có thể cử thành viên của mình đến các cơ quan, tổ chức hữu quan để điều tra, xem xét các vấn đề thuộc nội dung giám sát.

Bên cạnh đó, trong cơ chế giám sát tố tụng hình sự của Quốc hội còn có chủ thể quan trọng đó là sự giám sát của Đại biểu Quốc hội đối với hoạt động tố tụng hình sự. Hiến pháp 1992 và Luật Tổ chức Quốc hội đã quy định rất cụ thể trách nhiệm của Đại biểu Quốc hội là cơ sở pháp lý cho hoạt động của đại biểu Quốc hội nói chung và hoạt động giám sát tố tụng hình sự nói riêng. Cụ thể: Đại biểu Quốc hội phải liên hệ chặt chẽ với cử tri, thu thập phản ánh trung thực ý kiến của cử tri, thực hiện chế độ tiếp xúc và báo cáo với cử tri, xem xét, đôn đốc việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, giúp đỡ công dân thực hiện các quyền của mình…Trong bối cảnh đặc thù của Quốc hội nước ta hoạt động không thường xuyên thì cơ chế giám sát của đại biểu Quốc hiệu đem lại hiệu quả cao nếu vận hành trôi chảy và thực chất.

Về mục đích của giám sát cũng được xác định rõ. Giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân, đại biểu dân cử và các chủ thể giám sát xã hội khác là nhằm đảm bảo tính đúng đắn, thống nhất của hệ thống pháp luật; giám sát việc tuân thủ pháp luật trong đó có tuân thủ pháp luật tố tụng hình sự trong việc giải quyết các vụ án hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng; giám sát việc thực hiện pháp luật nhằm kịp thời phát hiện những hạn chế, bất hợp lý của pháp luật tố tụng hình sự trong thực tiễn; giám sát việc bảo đảm các quyền tự do con người cũng như hiệu quả của việc phòng ngừa tội phạm, vi phạm pháp luật thông qua hoạt động tố tụng hình sự

Về hình thức giám sát cũng đa dạng hơn. ên cạnh hình thức giám sát đã thực hiện từ trước như xem xét báo cáo của Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC đã xuất hiện hình thức giám sát mang tính chất kinh điển của Quốc hội trên thế giới là chất vấn Chánh án TANDTC và Viện trưởng VKSNDTC về kết quả giải quyết các vụ án hình sự. ên cạnh đó, Quốc hội có thể tiến hành kiểm tra thực tế giải quyết các vụ án nếu thấy cần thiết.

Cùng với việc mở rộng và tiếp tục phát huy dân chủ trong xã hội, trên cơ sở Hiến pháp 1992 quy định nguyên tắc đảm bảo sự giám sát của nhân dân đối với hoạt động nhà nước (Điều 8) và ghi nhận công dân có quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan Nhà nước, biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân, thì từ đó các hình thức giám sát xã hội đối với hoạt động tố tụng hình sự cũng nâng lên một bước.

Cùng với sự hoàn thiện về chủ thể giám sát, phương pháp giám sát, pháp luật cũng hoàn thiện một bước hậu quả của giám sát nhằm tăng cường hiệu quả giám sát. Các chế tài áp dụng đối với các chủ thể là đối tượng của giám sát đã được quy định cụ thể: Quốc hội có thể bỏ phiếu tín nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm đối với Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC; ra Nghị quyết thể hiện thái độ đánh giá của Quốc hội về năng lực và trách nhiệm của Chánh án TANDTC và Viện trưởng VKSNDTC trong việc lãnh đạo công tác giái quyết các vụ hình sự; bãi bỏ các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật hình sự, tố tụng hình sự trái với Hiến pháp, Luật, nghị quyết của Quốc hội; căn cứ vào kết quả giám sát Quốc hội có thể ra Nghị quyết bổ sung, sửa đổi, bãi bỏ một hoặc một số điều luật bất hợp lý trong lĩnh vực tư pháp hình sự tháo gỡ kịp thời những khó khăn vướng mắc về mặt pháp lý trong quá trình áp dung pháp luật để giải quyết vụ án hình sự.

Hệ quả giám sát đối với các chủ thể giám sát xã hội là quyền gửi kiến nghị lên cơ quan tiến hành tố tụng và quy định trách nhiệm giải quyết và trả lời của những chủ thể này đối với các kiến nghị.

Bên cạnh sự giám sát trong hệ thống cơ quan nhà nước đối với tố tụng hình sự, pháp luật về giám sát đã có sự bổ sung, hoàn thiện theo hướng tăng cường sự giám sát xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, của báo chí, dư luận công dân. Đó là việc ban hành Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Luật khiếu nại tố cáo, Luật báo chí…trong đó có nhiều quy định về thẩm quyền giám sát.

2. Giai đoạn 2003-2018

Hệ thống pháp luật điều chỉnh việc giám sát quyền lực nhà nước nói chung và giám sát hoạt động tố tụng hình sự nói riêng từ năm 2003 đến nay không phải là hiện tượng ngẫu nhiên, chủ quan mà mang tính quy luật. Nó là kết quả vận động của nhận thức lý luận và đòi hỏi của các điều kiện khách quan khác. Từ nhận thức mới về dân chủ, kiểm soát quyền lực nhà nước, bảo đảm quyền con người đến mô hình tổ chức nhà nước, đến nhận thức mới về tố tụng hình sự và pháp luật về tố tụng hình sự trong thời gian dài. Từ đó dẫn đến nhận thức về tính khách quan, tất yếu của giám sát quyền lực nhà nước và giám sát hoạt động tố tụng hình sự.

Trước hết, giám sát quyền lực nhà nước bắt nguồn từ nhận thức mới về dân chủ trong chế độ chính trị nước ta. Có thể nói từ đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986, vấn đề dân chủ ngày càng được xác định rõ hơn trong nhận thức và thực tiễn xây dựng và hoàn thiện nhà nước của chúng ta.

“Trong một cơ chế thực sự dân chủ, mọi hoạt động của các thiết chế quyền lực và cá nhân có phận sự trong các thiết chế đó đều được đặt dưới sự giám sát của nhân dân…Bản chất dân chủ của chế độ chính trị nước ta đòi hỏi mọi quyết định và hành động của thiết chế quyền lực phải bắt nguồn từ nhân dân”[2].

Chính tư tưởng mới về dân chủ đã trở thành nền tảng chỉ đạo và xuyên suốt hệ thống chính sách, pháp luật nói chung và pháp luật tố tụng hình sự nói riêng ở cả hai phương diện xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật.

Yếu tố thứ hai ảnh hưởng đến pháp luật về giám sát tố tụng hình sự trong thời kỳ này đó chính là nhận thức và quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam từ năm 2003 đến nay. Chính nhà nước pháp quyền tác động ở tầm vĩ mô đến cách tổ chức quyền lực nhà nước trong đó đặt ra các yêu cầu cấp thiết về kiểm soát quyền lực nhà nước trong nhà nước pháp quyền. Các nguyên tắc của nhà nước pháp quyền đã được nhận thức tương đối thống nhất, gồm nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền con người, nhà nước bị ràng buộc pháp luật ở phương diện không được đứng cao hơn pháp luật, quyền lực nhà nước phải phân định rành mạch và được kiểm soát bằng các cơ chế khác nhau quan hệ với nhà nước và công dân là quan hệ bình đẳng về quyền và nghĩa vụ.

Với nhiều yếu tố mang tính đặc thù về lịch sử, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa, khái niệm nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa đã được hình thành trên cơ sở tiếp thu giá trị của nhà nước pháp quyền của nhân loại. Trong đó có những đặc trưng cơ bản như: về bản chất, quyền lực nhà nước thống nhất ở nhân dân, về tổ chức tập trung ở Quốc hội nhưng có sự phân công trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; Đảng Cộng sản sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội. Mô hình nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng tác động rất lớn đến việc giám sát quyền lực nhà nước và giám sát hoạt động tố tụng hình sự.

Yếu tố tiếp theo tác động đến giám sát trong tố tụng hình sự là nhận thức, quan điểm mới về pháp luật tố tụng hình sự thể hiện rõ trong Luật tố tụng hình sự 2003 và   Luật tố tụng hình sự 2015. Tố tụng hình sự   là trình tự, thủ tục thực hiện các hoạt động tố tụng hình sự nhằm giải quyết vụ án hình sự với mục đích không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm, bảo vệ công lý, quyền con người. Tố tụng hình sự vận hành trên nền tảng pháp lý là hệ thống pháp luật tố tụng hình sự. Với logic đó, việc giám sát trong tố tụng hình sự trước hết là giám sát thực hiện pháp luật tố tụng hình sự. Giám sát thực hiện pháp luật hình sự dựa vào tiêu chuẩn nhất định đó chính là các quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Chính vì vậy việc ban hành Luật tố tụng hình sự 2003, sau đó là Luật tố tụng hình sự 2015 tác động rất lớn đến hoạt động giám sát trong tố tụng hình sự từ 2003 đến năm 2015. Hai bộ luật này thể hiện sự nhận thức mới về tố tụng hình sự trong nhà nước pháp quyền. Theo đó, các tư tưởng về quyền con người, về tư pháp, Tòa án trong nhà nước pháp quyền đã được thể hiện. Chính vì vậy, việc giám sát tố tụng hình sự cần có đổi mới về nội dung, hình thức, mục đích nhằm đảm bảo hiệu quả của giám sát là để tố tụng hình sự đạt được mục đích của mình.

Việc giám sát tố tụng hình sự còn tác động bởi quan điểm và chủ trương về quyền lực tư pháp và cải cách tư pháp từ năm 2003. Khái niệm quyền tư pháp xuất hiện với tưcách quyền lực nhà nước trước hết trong Hiến pháp 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001 bằng quy định “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”. Từ đó đến nay, nhận thức về quyền tư pháp trong lý luận cũng như thực tiễn tiếp tục được hoàn thiện đầy đủ. Theo đó, quyền tư pháp là loại quyền lực nhà nước độc lập trong mối quan hệ với các nhánh quyền lực khác, bản chất của quyền tư pháp là xét xử, trung tâm của quyền lực tư pháp là hệ thống Tòa án, quyền lực tư pháp cũng cần phải được kiểm soát bằng cơ chế đặc thù phù hợp với thể chế chính trị “quyền lực nhà nước là thống nhất” của nước ta. Như vậy, nhận thức về quyền tư pháp đòi hỏi giám sát trong tố tụng hình sự thay đổi về nhận thức ở đây là giám sát loại quyền lực nhà nước độc lập, có tính chất đặc thù so với giám sát quyền lập pháp và hành pháp.

Để quyền lực tư pháp vận hành đúng quỹ đạo là các nguyên tắc của nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa cần thiết phải nhận thức đúng đắn về nó và đặc biệt việc tổ chức thực hiện quyền lực tư pháp phải được cải cách. Nói cách khác, cải cách tư pháp chẳng qua là thay đổi nhận thức và tổ chức thực hiện quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Xuất phải từ quan điểm có tính chất chỉ đạo đó, công cuộc Cải cách tư pháp chính thức được khởi xướng với mục đích: Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao. Để đạt được mục đích đó, cải cách tư pháp phải giải quyết rất nhiều nhiệm vụ quan trọng trong đó có nhiệm vụ: Hoàn thiện cơ chế giám sát của các cơ quan dân cử và phát huy quyền làm chủ của nhân dân đối với cơ quan tư pháp. Để thực hiện nhiệm vụ này, Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 5/2/2005 của ộ Chính trị về Cải cách tư pháp đã chỉ đạo:

-        Đổi mới, nâng cao chất lượng chất vấn và trả lời chất vấn đối với hoạt động của các cơ quan tư pháp tại các kỳ họp Quốc hội, Hội đồng nhân dân. Quốc hội và Hội đồng nhân dân nên có nghị quyết riêng về hoạt động tư pháp sau khi nghe báo cáo và trả lời chất vấn.

-        Tăng cường và nâng cao hiệu lực giám sát việc chấp hành pháp luật của các cơ quan tư pháp, đặc biệt là của lãnh đạo các cơ quan tư pháp. Nghiên cứu việc thành lập Ủy ban Tư pháp của Quốc hội để giúp Quốc hội thực hiện nhiệm vụ giám sát hoạt động tư pháp, trọng tâm là việc bắt, giam giữ, truy tố, xét xử.

-        Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên tập trung làm tốt công tác động viên nhân dân phát hiện những hạn chế, khuyết điểm trong hoạt động tư pháp, qua đó kiến nghị với các cơ quan tư pháp khắc phục, sửa chữa. Tăng cường vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng trong việc tuyên truyền, cung cấp thông tin về hoạt động tư pháp.

Như vậy, tác động của cải cách tư pháp đối với việc giám sát trong tố tụng hình sự thể hiện ở việc giám sát hoạt động tư pháp trong đó có giám sát tố tụng hình sự là một yêu cầu của cải cách tư pháp nhằm đảm bảo thực hiện thành công các mục tiêu của cải cách tư pháp. Đúng như báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng lần thứ XI xác định: “Tăng cường các cơ chế giám sát, bảo đảm sự tham gia giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp”. ên cạnh đó, cải cách tư pháp đặt ra cho giám sát hoạt động tư pháp nhiệm vụ tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp, hình thức, phạm vi và chủ thể giám sát.

Hiến pháp 2013 ra đời đánh dấu một giai đoạn phát triển mới của nhận thức về nhà nước pháp quyền trong đó điểm nổi bật là nhận thức về quyền lực nhà nước và kiểm soát quyền lực nhà nước. Thể hiện ở những điểm sau đây:

Thứ nhất, Hiến pháp 2013 đã tạo cơ sở hiến định cho kiểm soát quyền lực tư pháp. ắt đầu từ việc tiếp tục khẳng định nguyên lý chủ quyền nhân dân: “Nhà   nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” (khoản 1 Điều 2), “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực thuộc về nhân dân…” (khoản 2 Điều 2).

Thứ hai, Trên cơ sở đó, Hiến pháp 2013 quy định tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước nhằm đảm bảo cho quyền lực nhà nước thực sự thuộc về nhân dân trong đó có việc nhân dân thực hiện giám sát quyền lực nhà nước bằng các cơ chế khác nhau. Thể hiện ở việc Hiến pháp không chỉ thừa nhận quyền tư pháp như là một quyền lực độc lập bên cạnh quyền lập pháp, hành pháp mà con tạo cơ sở hiến định cho cho kiểm soát quyền lực nhà nước bằng việc quy định: quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công, phối hợp và kiểm soát trong việc thực hiện quyền lập pháp và tư pháp.

Thứ ba, Hiến pháp 2013 có bước tiến quan trọng trong khi khẳng định Tòa án là cơ quan thực hiện quyền tư pháp; không chỉ khẳng định Tòa án độc lập mà còn có những quy định nhằm đảm tính độc lập của Tòa án như ghi nhận nguyên tắc tranh tụng khi xét xử; quy định cụ thể về nhiệm vụ của TAND là bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức….

Thứ tư, Hiến pháp 2013 quy định và cụ thể hóa nhiều quyền con người trong đó có quyền con người trong lĩnh vực tố tụng hình sự như quyền bào chữa, quyền tự do ngôn luận, tự do thông tin, bàn bạc tranh luận, khiếu nại, tố cáo, tham gia quản lý nhà nước. Đây là nền tảng pháp lý quan trọng để thực hiện việc giám sát trong tố tụng hình sự.

Ngoài Hiến pháp, pháp luật cụ thể hóa quy định của Hiến pháp về kiểm soát quyền tư pháp trong tố tụng hình sự có thể chia thành nhóm quy phạm quy định về từng cơ chế giám sát. Đó là pháp luật cơ chế giám sát bên trong hệ thống cơ quan nhà nước gồm giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân, giám sát của Viện kiểm sát nhân sát, giám sát của Tòa án; giám sát bên ngoài hệ thống cơ quan nhà nước đó là giám sát xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, giám sát báo chí và dư luận xã hội và giám sát công dân đối với hoạt động tố tụng hình sự.

Nguyên tắc giám sát hoạt động đối với các cơ quan tiến hành tố tụng là nguyên tắc tồn tại khách quan trong hoạt động tố tụng. Như trên đã phân tích, công cuộc cải cách tư pháp cũng như yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền đều phải yêu cầu tăng cường thực hiện nguyên tắc giám sát. Thể chế hóa các quan điểm Đảng và nhà nước về thực hiện nguyên tắc giám sát đối với hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, nội dung của nguyên tắc giám sát trong tố tụng hình sự đã được ghi nhận và thể hiện trong pháp luật tố tụng hình sự nước ta.

Điều 32 Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định: “Giám sát của cơ quan, tổ chức, đại biểu dân cử đối với hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng: Cơ quan nhà nước, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận, đại biểu dân cử có quyền giám sát hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng”.

Điều 33 LTTHS năm 2015 quy định: “Kiểm tra, giám sát trong tố tụng hình sự

  1. 1.Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải thường xuyên kiểm tra việc tiến hành các hoạt động tố tụng thuộc thẩm quyền; thực hiện kiểm soát giữa các cơ quan trong việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.
  2. 2.Cơ quan nhà nước, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận, đại biểu dân cử có quyền giám sát hoạt động của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.”

Có sự thay đổi trong quy định về nguyên tắc trong Luật tố tụng hình sự năm 2003 và Luật tố tụng hình sự năm 2015 về nội dung của nguyên tắc.

Thứ nhất, có sự thay đổi về tên gọi của Điều luật, nếu trong Luật tố tụng hình sự năm 2003 nguyên tắc này có tên gọi: Giám sát của cơ quan, tổ chức, đại biểu dân cử đối với hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2015 có tên gọi: Kiểm tra, giám sát trong tố tụng hình sự. Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã khái quát, rút gọn tên điều luật, đồng thời bổ sung thêm nội dung “kiểm tra”.

Thứ hai, bổ sung mới khoản 1 Điều 33 Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2015 với các hoạt động “kiểm tra” của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng cấp trên đối với cơ quan cấp dưới và thực hiện “kiểm soát” giữa các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Việc bổ sung thêm nội dung “kiểm tra”, “kiểm soát” nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của việc tiến hành các hoạt động tố tụng, đây cũng chính là yêu cầu nâng cao hoạt động giám sát, kiểm soát quyền lực bên trong hệ thống các cơ quan tiến hành tố tụng.

Thứ ba, quy định tại khoản 2 Điều 33 Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2015 mở rộng thêm đối tượng bị giám sát trong hoạt động tố tụng hình sự đó là “cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng”. Luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã trao quyền cho một số cơ quan, người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra gồm Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, Cảnh sát biển, Kiểm ngư, Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.

Về cơ chế giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân: Cùng với sự ra đời của Hiến pháp 1992 (sửa đổi năm 2001) và đặc biệt là Hiến pháp 2013 thì chức năng, nhiệm vụ giám sát của Quốc hội đã có sự hoàn thiện theo hướng mở rộng và tăng cường sự giám sát của Quốc hội đối với các cơ quan nhà nước trong toàn bộ bộ máy nhà nước bằng quy định: “Quốc hội có quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước” (Điều 92) chứ không chỉ dừng ở việc giám sát việc tuân theo Hiến pháp như Hiến pháp 1980. Điều đó có nghĩa là Quốc hội có thẩm quyền giám sát đối với hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng. Điều này đã được thể hiện trong Luật Tổ chức Quốc hội, Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân. Theo đó, Quốc giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội. Quốc hội giám sát hoạt động của TANDTC, VKSNDTC với tư cách là cơ quan do Quốc hội thành lập. Ở đây có vấn đề mà nhiều người cho rằng Quốc hội giám sát tối cao tức là chỉ giám sát cơ quan tư pháp ở Trung ương, không có thẩm quyền giám sát cơ quan tư pháp ở địa phương:

“Quốc hội hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước, không trừ một lĩnh vực hoạt động nào cả từ kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học kĩ thuật, an ninh - quốc phòng cho đến đối ngoại. Ngược lại, Hiến pháp không xác định quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ bộ máy nhà nước, tức là không xác định giám sát tất cả các cấp, các ngành cấu thành bộ máy nhà nước”[3].

Ở nước ta quyền lực nhà nước thống nhất tập trung ở Quốc hội về mặt tổ chức theo hướng:

“Quyền lực nhà nước bắt nguồn từ nhân dân là thống nhất và phải được tập trung thống nhất vào một cơ quan đại diện quyền lực duy nhất và cao nhất là Quốc hội. Song sự thống nhất nhất này không loại trừ sự cần thiết phải có các thiết chế nhà nước khác để thực hiện sự phân công, phân nhiệm”[4].

Với logic đó, chúng tôi cho rằng về nguyên tắc, Quốc hội có quyền giám sát toàn bộ hoạt động của cơ quan nhà nước Quốc hội có quyền giám sát toàn bộ hoạt động của mọi cơ quan nhà nước, mọi cấp, mọi ngành trong đó có hoạt động tố tụng hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng ở mọi cấp. Do đó, các cơ quan có thẩm quyền giám sát gồm Viện kiểm sát, Hội đồng nhân dân…thực hiện việc giám sát trên cơ sở phái sinh từ thẩm quyền giám sát tối cao của Quốc hội bằng cơ chế phân công, phân nhiệm và các cơ quan này cũng trở thành đối tượng giám sát của Quốc hội. Từ đó cũng cho thấy vì cơ chế phân công nên Quốc hội hoàn toàn có thể trực tiếp giám sát bất kỳ cơ quan tư pháp nào và những vụ việc cụ thể trong lĩnh vực tố tụng hình sự nếu Quốc hội thấy cần thiết.

Về phương pháp giám sát: Quốc hội, Hội đồng nhân dân giám sát theo phương pháp truyền thống đó là, xem xét tính hợp pháp của các văn bản do các cơ quan tư pháp Trung ương ban hành trong đó có có các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự; nghe báo cáo công tác của những người đứng đầu cơ quan tưpháp ở Trung ương; chất vấn và trả lời chất vấn; bỏ phiếu tín nhiệm đối với Viện trưởng VKSNDTC, Chánh án TANDTC.

Pháp luật giám sát trong tố tụng hình sự thể hiện rõ nhất trong Luật hoạt động giám sát Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2003 sửa đổi bổ sung năm 2015. Cụ thể hóa Hiến pháp 1992 và Hiến pháp 2013 về chức năng giám sát của Quốc hội, Luật này đã thiết lập một cơ chế pháp lý tương đối hoàn chỉnh để Quốc hội thực hiện chức năng giám sát toàn bộ hoạt động của nhà nước, trong đó có hoạt động tố tụng hình sự. Cơ chế đó thể hiện trước hết bằng quy định mang tính nguyên tắc về hiệu quả hoạt động giám sát, đó là “giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân là hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước”. Quy định này đã làm rõ tính chất giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân; làm rõ mối liên hệ giữa hoạt động giám sát của Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội; giữa Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân, các an của Hội đồng nhân dân và đại biểu Hội đồng nhân dân trong việc bảo đảm hiệu quả của hoạt động giám sát.

Đặc biệt, Luật hoạt động Giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân đã mở rộng và làm rõ khái niệm “giám sát”. Theo đó, giám sát là hoạt động “theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát” và bao gồm cả việc “xử lý theo thẩm quyền hoặc yêu cầu, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý”.

Để cụ thể hóa Hiến pháp về quyền giám sát tối cao của Quốc hội, Luật Giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân đã làm rõ khái niệm giám sát tối cao, trong đó quy định: chỉ Quốc hội mới có quyền giám sát tối cao và hoạt động giám sát tối cao được tiến hành tại kỳ họp Quốc hội.

Trong luật này đã cụ thể hóa các hình thức giám sát của Quốc hội Hội đồng nhân dân như:

Xét báo cáo giám sát chuyên đề; xem xét báo cáo của Ủy ban lâm thời, lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn; xem xét báo cáo của Ủy ban thường vụ Quốc hội về kiến nghị giám sát của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội. Quy định rõ chủ thể có thẩm quyền trình Quốc hội xem xét văn bản quy phạm pháp luật có dấu hiệu trái Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội; chủ thể có quyền kiến nghị, đề nghị về văn bản quy phạm pháp luật có dấu hiệu trái Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội.

Nhằm bảo đảm cho kiến nghị giám sát có tính hiệu quả và khả thi cao hơn trên thực tiễn, Luật bổ sung quy định về trình tự, thủ tục Quốc hội xem xét đối với kiến nghị giám sát của cơ quan của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội; Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét đối với kiến nghị giám sát của Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội trong trường hợp cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát không thực hiện kiến nghị giám sát của các chủ thể này.

Để đảm bảo hiệu lực của kết quả giám sát, Luật về hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân cũng quy định rõ thời hạn các cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát phải thực hiện các yêu cầu, kiến nghị giám sát đối với từng hoạt động giám sát, như tại các Điều 15 và Điều 40.

Đối với hoạt động giám sát của Thường trực Hội đồng nhân dân, luật quy định rõ hình thức, trình tự thực hiện giám sát của Thường trực Hội đồng nhân dân như: xem xét việc trả lời chất vấn của người bị chất vấn trong thời gian giữa hai kỳ họp Hội đồng nhân dân, việc giải trình tại phiên họp Thường trực Hội đồng nhân dân, việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật, việc giải quyết kiến nghị của cử tri và việc thành lập Đoàn giám sát chuyên đề của Thường trực Hội đồng nhân dân.

Quốc hội giám sát hoạt động tố tụng hình sự còn được thể hiện thông qua hoạt động giám sát của các cơ quan Quốc hội đó là Ủy ban Thường vụ Quốc hội và với lĩnh vực tố tụng hình sự có cơ quan chuyên trách giúp Quốc hội thực hiện việc này là Ủy ban Tư pháp của Quốc hội. Theo đó Ủy ban Tư pháp của Quốc hội tiến hành thẩm tra báo cáo của cơ quan Tư pháp ở trung ương.

Chủ thể giám sát thứ hai là Hội đồng nhân dân đối với hoạt động tố tụng hình sự cũng đã được điều chỉnh ở mức độ nguyên tắc trong Hiến pháp 2013 và Luật tổ chức chính quyền địa phương. Về cơ bản nội dung, hình thức, phạm vi, phương pháp giám sát của chính quyền địa phương cơ bản giống với sự giám sát của Quốc hội.

Địa vị pháp lý và chủ thể thứ ba có quyền giám trong cơ chế giám sát bên trong đối với hoạt động tố tụng hình sự là VKSND các cấp cũng có nhiều điểm mới thể hiện trong Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2015, Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2015. Theo đó, VKSND có chức năng chung là kiểm sát hoạt động tư pháp. Thẩm quyền này được cụ thể trong nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự. Hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND nhằm bảo đảm hoạt động của Cơ quan Điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Tòa án, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong các cơ quan trên, hoạt động của cơ quan thi hành án, người có thẩm quyền thi hành án và các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác liên quan đến các hoạt động giải quyết thông tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật; quyền con người, quyền công dân không bị luật hạn chế phải được tôn trọng và bảo vệ; mọi vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp phải được phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh.

Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã quy định cụ thể hoạt động kiểm sát tuân theo pháp luật ngay từ khi nhận nguồn tin tố giác tội phạm đồng thời quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên trong việc kiểm sát việc lập hồ sơ giải quyết nguồn tin về tội phạm, kiểm sát việc tạm đình chỉ, phục hồi việc giải quyết nguồn tin về tội phạm, đề ra yêu cầu xác minh... đây chính là cơ sở pháp lý quan trọng để VKS thực hiện tốt hơn nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật ngay từ hoạt động đầu tiên của quá trình tố tụng hình sự đảm bảo cho việc khởi tố đúng pháp luật không để tội phạm nào không bị khởi tố và không khởi tố khi chưa có căn cứ.

Dưới góc độ giám sát, Tòa án cũng là chủ thể giám sát trong tiến hành tố tụng thể hiện ở chức năng giám đốc việc xét xử. Khoản 2 Điều 20 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 quy định: “Nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án nhân dân tối cao: Giám đốc việc xét xử của các Tòa án khác, trừ trường hợp do luật định”. Đây là quy định trong Hiến pháp 2013 đồng thời là thực hiện nguyên tắc giám sát của tố tụng hình sự Việt Nam. Nguyên tắc này nhằm đảm bảo cho Tòa án cấp trên kiểm tra, phát hiện các sai lầm, thiếu sót của Tòa án cấp dưới.

Cùng với cơ chế giám sát bên trong bộ máy nhà nước, cơ chế giám sát xã hội đã được được pháp luật điều chỉnh ở mức độ nhất định. Nền tảng của pháp luật về giám sát xã hội đó là mức độ dân chủ hóa đời sống xã hội ngày càng được mở rộng, coi trọng sự tham gia giám sát của nhân dân đối với hoạt động của nhà nước. Thể hiện rõ nhất của pháp luật về giám sát xã hội đối với hoạt động của nhà nước nói chung và hoạt động tố tụng hình sự nói riêng đó là Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2015. Hoạt động giám sát tố tụng hình sự đối với Mặt trận Tổ quốc thể hiện ở quy định về hình thức giám sát:

Thứ nhất, Mặt trận tổng hợp ý kiến của người dân và các thành viên để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, giải quyết và xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tố tụng hình sự.

Thứ hai, Mặt trận thực hiện việc giám sát hoạt động tố tụng hình sự thông qua hoạt động tiếp xúc của các đại biểu dân cử với cử tri. Bên cạnh đó, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo đã quy định cụ thể về nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc trong lĩnh vực giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân đối với hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng. Theo đó, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận có trách nhiệm tổ chức việc tiếp công dân đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh liên quan đến khiếu nại, tố cáo; khi nhận được khiếu nại, tố cáo thì nghiên cứu chuyển đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo. Khiếu nại, tố cáo do Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận chuyển đến phải được người giải quyết khiếu nại, tố cáo xem xét, giải quyết và trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày có quyết định giải quyết phải thông báo bằng văn bản cho tổ chức đã chuyển đơn đến biết kết quả giải quyết.

Trong cơ chế giám sát xã hội đối với hoạt động tố tụng hình sự có hoạt động giám sát rất quan trọng đã được pháp luật điều chỉnh đó là sự giám sát của công dân. Ngoài các quy định của Hiến pháp 2013 về quyền giám sát công dân đối với hoạt động nhà nước, giám sát của công dân đối với tố tụng hình sự thể hiện rõ nhất trước hết trong Bộ Luật Tố tụng hình sự 2015. Giám sát của công dân trong tố tụng hình sự thể hiện trong nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự. Theo đó, cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khiếu nại, cá nhân có quyền tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hoặc của bất cứ cá nhân nào thuộc các cơ quan đó. Cơ quan, người có thẩm quyền phải tiếp nhận, xem xét và giải quyết khiếu nại, tố cáo kịp thời, đúng pháp luật; gửi văn bản kết quả giải quyết cho người khiếu nại, tố cáo, cơ quan, tổ chức khiếu nại và có biện pháp khắc phục.

Cụ thể hóa nguyên tắc này, Bộ Luật Tố tụng hình sự 2015 đã thiết lập cơ chế tương đối hoàn chỉnh nhằm đảm cho công dân thực hiện quyền giám sát hoạt động tố tụng hình sự thông qua thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo đối với cơ quan tiến hành tố tụng bằng việc quy định cụ thể chủ thể có quyền khiếu nại, tố cáo, thủ tục tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo và đặc biệt quy định trách nhiệm của những người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo. Các quy định này tạo điều kiện để công dân phát hiện những vi phạm pháp luật, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền, lợi ích của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong tố tụng hình sự của cơ quan tiến hành tố tụng. Đây là một trong những cơ chế quan trọng trong giám sát tố tụng hình sự ở Việt Nam hiện nay.

Trong cơ chế giám sát xã hội còn sự giám sát của báo chí, dư luận xã hội đối với hoạt động tố tụng hình sự. Cụ thể Luật áo chí số 103/2016/QH13 được Quốc hội khóa 13 thông qua ngày 05 tháng 04 năm 2016 ghi nhận quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân với các quyền cụ thể, trong đó có quyền cung cấp thông tin cho báo chí, quyền tiếp cận thông tin báo chí, quyền góp ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo chí đối với các tổ chức của Đảng, cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội, nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp và thành viên của các cơ quan tổ chức đó.

 


[1] Nguyễn Đăng Dung - Đặng Minh Tuấn (đồng chủ biên), (2014), Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam, NX Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.150

[2] Đào Trí Úc, Phạm hữu Nghị (đồng chủ biên), (2009), Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, NXB Từ điển Bách Khoa, tr.34

[3] Trần Ngọc Đường (2003), “Quyền giám sát tối cao của Quốc hội và quyền giám sát của các cơ quan của Quốc hội: Đối tượng, nội dung, phương thức thực hiện và hậu quả pháp lý”, Sách Giám sát và cơ chế giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt nam hiện nay, NX Công an nhân dân, Hà Nội, tr.148

[4] Nguyễn Thái Phúc (2003), “Hoạt động giám sát của quốc hội hoạt động kiểm sát

của Viện Kiểm sát nhân dân”, Sách Giám sát chế giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước Việt Nam hiện nay, NX Công an nhân dân, Nội, tr.232

Sửa đổi lần cuối Thứ ba, 03 Tháng 1 2023 16:17

Đăng ký nhận email

Đăng ký email để có thể có được những cập nhật mới nhất về tải liệu được đăng tải trên website

Tập san đã phát hành