In trang này
Thứ sáu, 24 Tháng 3 2023 00:13

Phân tích chính sách pháp luật một số nước đối các quy định liên quan đến xác minh quyền sử dụng đất

Xác minh điều kiện thi hành án đặt nền móng cho hầu hết các giai đoạn khác của quá trình thi hành án. Trong bản hướng dẫn để thực hiện tốt hơn khuyến nghị của Hội đồng Châu Âu về thi hành án dân sự đã được Uỷ ban châu Âu về tính hiệu quả của hoạt động tư pháp thông qua tại phiên họp toàn thể lần thứ 14 đã đưa ra nguyên tắc của hoạt động thi hành án như sau: “Để luật pháp được duy trì và để người dân có niềm tin vào hệ thống Tòa án, cần có các quy trình thi hành án hiệu quả công bằng. Tuy nhiên, việc thi hành án chỉ thể đạt được hiệu quả khi người phải thi hành án điều kiện khả năng thi hành án[1].

Từ nội dung của nguyên tắc trên thể thấy, bên cạnh việc nhấn mạnh tầm quan trọng của hoạt động thi hành án hiệu quả, công bằng đối với niềm tin của người dân vào công thì Hội đồng châu Âu về thi hành án dân sự cũng đã đặt trọng tâm của hoạt động thi hành án hiệu quả vào điều kiện khả năng thi hành án của người phải thi hành án. Để xác định được điều kiện khả năng thi hành án của người phải thi hành án chỉ thể thực hiện được thông qua hoạt động xác minh.

Quy định pháp luật về xác minh tài sản là quyền sử dụng đất bao gồm các nội dung: chủ thể xác minh quyền sử dụng đất; nội dung xác minh quyền sử dụng đất; quyền và nghĩa vụ của các chủ thể xác minh quyền sử dụng đất. Dưới đây chúng tôi sẽ lần lượt nghiên cứu từng vấn đề cụ thể như vậy trong nội dung điều chỉnh của pháp luật về xác minh quyền sử dụng đất.

1. Chủ thể xác minh quyền sử dụng đất

Chủ thể xác minh quyền sử dụng đất là những cá nhân, tổ chức tham gia vào hoạt động xác minh quyền sử dụng đất, quyền nghĩa vụ pháp được pháp luật quy định. Tuỳ theo mục đích tham gia hoạt động xác minh quyền sử dụng đất và vai trò của các chủ thể đối với việc xác minh quyền sử dụng đất mà pháp luật quy định cho mỗi chủ thể có các quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất định. Căn cứ vào địa vị pháp lý của các chủ thể xác minh quyền sử dụng đất, có thể phân các chủ thể thành 03 nhóm:

-     Nhóm thứ nhất gồm các chủ thể có nhiệm vụ, quyền hạn xác minh quyền sử dụng đất

-     Nhóm thứ hai bao gồm các chủ thể tham gia vào hoạt động xác minh quyền sử dụng đất

-     Nhóm thứ ba bao gồm các chủ thể hỗ trợ hoạt động xác minh quyền sử dụng đất.

1.1. Nhóm chủ thể nhiệm vụ, quyền hạn xác minh tài sản quyền sử dụng đất

Đây là nhóm chủ thể được pháp luật trao quyền xác minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án nói chung và trao quyền xác minh tài sản là quyền sử dụng đất nói riêng.

Xuất phát từ bản chất của hoạt động thi hành án dân sự là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước nên xác minh điều kiện thi hành án, với tính chất là một giai đoạn của hoạt động thi hành án dân sự, cũng mang tính quyền lực nhà nước. Trên thế giới, mỗi quốc gia khác nhau có cách quy định khác nhau về chủ thể xác minh tuỳ thuộc vào văn hoá thi hành án, mô hình tổ chức thi hành án mà quốc gia đó lựa chọn và nền tảng kinh tế xã hội của họ. Và mỗi một mô hình thi hành án như đánh giá của ngài D.V. Aristov, Cục trưởng Cục thi hành án liên bang Nga, chấp hành viên trưởng của Nga thì đều đặc tính quốc gia được hình thành, thay đổi do hoàn cảnh kinh tế, chính trị, hành chính và các yếu tố khác tồn tại ở một quốc gia cụ thể tại một thời điểm cụ thể[1]. Hiện ba nhóm chủ thể dưới đây được trao nhiệm vụ xác minh điều kiện thi hành án:

-  Chủ thể xác minh là công chức nhà nước:

Đây là những chủ thể được pháp luật giao nhiệm vụ tổ chức thi hành án, trong quá trình thực hiện việc tổ chức thi hành án, họ phải tiến hành xác minh để xác định điều kiện thi hành án của người phải thi hành án. Mỗi quốc gia khác nhau thì công chức được giao nhiệm vụ tổ chức thi hành án lại thuộc về các hệ thống cơ quan khác nhau tuỳ thuộc vào quy định của Hiến pháp hoặc là quá trình cải tổ để tìm một mô hình tổ chức thi hành án phù hợp với đặc điểm về kinh tế, chính trị tại quốc gia mình.

Ở Liên bang Nga giao nhiệm vụ xác minh cho chấp hành viên là công chức của Bộ Tư pháp. Theo quy định của pháp luật Nga thì chấp hành viên được Nhà nước trao cho quyền lực rất lớn, bao gồm cả việc được truy cập vào thông tin mật, trong đó dữ liệu nhân của công dân[2]. Xác minh điều kiện thi hành án cũng được giao cho công chức thuộc cơ quan hành pháp của Tajikistan. Để đảm bảo hiệu quả của công tác thi hành án, pháp luật nước này đã quy định hết sức chi tiết trách nhiệm của từng quan nhà nước trong việc hỗ trợ chấp hành viên khi thực hiện việc xác minh như trách nhiệm của quan nội vụ trong việc tìm kiếm thông tin cá nhân của người phải thi hành án, thông tin về quyền sở hữu tài sản; cơ quan của Uỷ ban Nhà nước Cộng hoà Tajikistan về quản lý đất đai và địa chính phải cung cấp thông tin về sở hữu bất động sản các thông tin địa chính khác; ngân hàng và tổ chức tín dụng khác thì phải cung cấp thông tin về tài khoản tiền gửi của người phải thi hành án[3]

Ở Italia, người được giao nhiệm vụ xác minh điều kiện thi hành án là công chức nhà nước, trợ lý của thẩm phán, hoạt động dưới sự giám sát của Thẩm phán trưởng của Tòa án nơi mà họ thuộc về. Các nhà lập pháp Italia, với ý định tạo sự hài hoà của viên chức tư pháp Italia và đưa công chức này vào thế cạnh tranh với các viên chức tư pháp ở các nước châu Âu khác đã trao cho chấp hành viên quyền được truy cập dữ liệu qua sổ đăng ký thuế và các dữ liệu công cộng khác để khám phá sự tồn tại của các tài sản thuộc sở hữu của người phải thi hành án[4].

Ở Trung Quốc, Tòa án tổ chức thi hành án nhưng việc xét xử và thi hành án là hai cơ quan độc lập với nhau trong hệ thống Tòa án. Pháp luật Trung Quốc quy định việc xác minh tài sản được giao cho Thẩm phán thi hành án. Để thẩm phán thực hiện việc xác minh hiệu quả, Trung Quốc xây dựng hệ thống điều tra kiểm soát trực tuyến. Hệ thống này giúp Tòa án có thể nhanh chóng tìm ra và kiểm soát kịp thời các tài sản khác nhau bao gồm bất động sản, tiền gửi, tàu xe, chứng khoán… của người phải thi hành án sau khi họ tham gia thủ tục thi hành án[5].

Tại Phần Lan, thi hành án thuộc thẩm quyền của cơ quan nhà nước. Lý giải cho sự tồn tại của quy định, ông Juhani Toukola, Tổng giám đốc Văn phòng hành chính quốc gia về thi hành án của Cộng hoà Phần Lan cho rằng: Do Hiến pháp Phần Lan quy định đối với những nhiệm vụ đòi hỏi quyền lực công một cách đáng kể thì không được giao cho các cơ quan khác ngoài cơ quan công quyền[6].

Cũng giao nhiệm vụ xác minh cho công chức nhà nước nhưng Uzbekistan thì chấp hành viên lại thuộc sự quản của Văn phòng Công tố viên. Theo đó, các chấp hành viên được giao nhiệm vụ tham gia tìm kiếm người phải thi hành án tài sản của họ, không được trang bị vũ trang nhưng được huy động lực lượng cảnh sát. Khi đánh giá về hiệu quả của việc chuyển giao quyền tổ chức thi hành án từ quan thuộc Bộ pháp sang Văn phòng Công tố viên, ông Shokhrukh Aminov, Phó Giám đốc Văn phòng thi hành án thuộc Văn phòng công tố viên Uzbekistan cho rằng việc chuyển giao đã góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của việc thi hành án. Đồng thời, kể từ tháng 9 năm 2018, Uzbekistan đã xây dựng một hệ thống thống nhất về tương tác điện tử nội bộ. Hệ thống cung cấp cho việc trao đổi thông tin nhanh chóng giữa Văn phòng thi hành án hơn 18 quan nhà nước, các tổ chức và ngân hàng trong việc tìm kiếm người phải thi hành án, tiền của họ và các tài sản khác[7].

-  Chủ thể xác minh không phải công chức nhà nước

Đây các chuyên gia hoạt động độc lập, bên ngoài Tòa án, thực hiện công việc theo thị trường kinh doanh cạnh tranh[8]. Nhóm chủ thể xác minh này chủ yếu thuộc về nhóm các quốc gia lựa chọn hình thi hành án nhân. Tuy nhiên, một số quốc gia lựa chọn hình kết hợp cả nhà nước và tư nhân cũng giao nhiệm vụ xác minh cho người không phải công chức nhà nước. Điển hình cho loại hình thi hành án nhân nhiệm vụ xác minh được giao cho các chuyên gia hoạt động một cách tự do là Pháp.

Luật pháp của Pháp cho phép thừa phát lại được yêu cầu các cơ quan công cộng và cơ quan được pháp luật Pháp ủy quyền giữ tài khoản tiền gửi (điều này được thực hiện cùng với quyền truy cập vào quan đăng FICOBA, một kho lưu trữ tất cả các tài khoản tiền gửi ở Pháp) cung cấp thông tin. Thông tin chi tiết có được từ thừa phát lại không được tiết lộ cho bên thứ ba, hoặc thậm chí cho trưởng văn phòng thừa phát lại[9]. Tuy nhiên, ở Pháp, khi thừa phát lại không có quyền truy cập trực tiếp vào hệ thống thông tin, mà phải yêu cầu sự giúp đỡ của các công tố viên địa phương đã làm cho việc thu thập thông tin thiếu hiệu quả[10]. Một trong những nguyên nhân dẫn đến không hiệu quả là do các công tố viên bị quá tải với các yêu cầu thông tin và thừa phát lại phải chờ nhiều tháng trước khi nhận được câu trả lời, nếu có. Trong tương lai, các thừa phát lại Pháp sẽ thể hỏi trực tiếp các tổ chức có liên quan để biết thông tin. Các tổ chức này sẽ không có quyền từ chối trên cơ sở bí mật nghề nghiệp[11].

Pháp luật của Romania cũng trao nhiệm vụ xác minh cho thừa phát lại người làm việc tự do và để thừa phát lại thực thi nhiệm vụ, pháp luật quy định trong suốt quá trình thi hành án, TPL được quyền truy cập vào tất cả các thông tin sẵn về tài sản của người phải thi hành án[12].

Lựa chọn mô hình thi hành án kết hợp, nghĩa là cùng tồn tại song song cả thi hành án nhà nước thi hành án nhân, pháp luật Bulgaria cũng giao nhiệm vụ xác minh cho thừa phát lại. Do cả hai hình cùng tồn tại phát triển nên các nhà quản cũng đánh giá được ưu điểm, nhược điểm của từng mô hình được áp dụng tại Bulgaria. Ở góc độ của hoạt động xác minh điều kiện thi hành án, ông Todor Lukov - Chủ tịch Ủy ban Kỷ luật của Cơ quan thi hành án tư nhân Bulgaria cho rằng các thừa phát lại hành nghề tự do được trao quyền tài phán rộng hơn nên so với các chấp hành viên thuộc hệ thống cơ quan nhà nước, thừa phát lại sẽ dễ dàng hơn cho việc theo đuổi người phải thi hành án và tài sản của họ. Tuy rằng mô hình thi hành án tư nhân được đánh giá cao bởi hiệu quả trong việc thi hành án của nó nhưng pháp luật Bulgaria cũng phải thành lập các cơ quan giám sát để hạn chế các sai phạm của hệ thống thi hành án tư nhân. Ở Bulgaria, hệ thống thi hành án tư nhân được kiểm soát bởi một hệ thống kép gồm Hội đồng của Phòng thi hành án và thanh tra của Bộ Tư pháp. Mặc dù cả hai chính quyền đều hành động độc lập, nhưng họ nghĩa vụ phải thông báo cho nhau về kết quả của một cuộc kiểm toán hoặc điều tra và hành động cùng nhau trong một hội đồng chung để tiến hành một thủ tục kỷ luật trên sở kết quả giám sát.

Ở Serbia, pháp luật cũng cho phép người được thi hành án được lựa chọn hệ thống thi hành nhà nước hoặc thi hành án tư nhân để tổ chức thi hành bản án của mình. Tuy nhiên, để được bổ nhiệm thừa phát lại hoạt động tự do, pháp luật Serbia không có yêu cầu về đào tạo hay kiến thức đặc biệt. Đồng thời, mức lương thấp, không có động lực làm việc trong khi luôn đứng trước tình trạng quá tải công việc đã dẫn đến một thực trạng phổ biến của hệ thống thi hành án tư nhân ở Serbia là tình trạng tham nhũng, cho phép người phải thi hành án che dấu tài sản của mình. Vì vậy, theo ông Vujadin Masnikosa, Phó Chủ tịch cơ quan thi hành án nhà nước Serbia thì hệ thống thi hành án nhân được thừa nhận một hệ thống linh hoạt, đảm bảo thực hiện nhanh chóng, hiệu quả các thủ tục thi hành án, đồng thời giảm gánh nặng cho ngân sách nhưng các thừa phát lại hành nghề nhân cần phải chịu sự kiểm soát giám sát chuyên nghiệp, bao gồm kiểm soát tư pháp đối với hành động của họ. Đồng thời, nhà nước cũng phải trao cho thừa phát lại tư nhân những quyền lực công, thông qua khả năng cung cấp hỗ trợ của cảnh sát và cũng được thiết lập các quyền mà nhà lập pháp đã quy định đối với nhân viên thi hành án nhà nước yêu cầu các quan nhà nước, các tổ chức, quan khác cung cấp dữ liệu về người phải thi hành án tài sản của họ[13].

-  Chủ thể xác minh là người được thi hành án:

Đây là trường hợp pháp luật quy định trách nhiệm xác minh trước hết thuộc về người được thi hành án. Các nước thuộc truyền thống Common law thường lựa chọn hình chủ thể xác minh này, ví dụ như Mỹ, Anh, Canada. Đặc điểm chung của mô hình xác minh này là pháp luật trao quyền chủ động cho người được thi hành án trong việc xác minh, tìm kiếm tài sản của người phải thi hành án đồng thời có sự hỗ trợ hiệu quả từ phía Tòa án và các chế tài nghiêm khắc đối với các hành vi không cung cấp thông tin về tài sản của người phải thi hành án.

Ở Mỹ, người được thi hành án được quyền sử dụng các biện pháp thu thập chứng cứ theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự để xác minh tài sản của người phải thi hành án và cũng được hưởng các bảo đảm và sự hỗ trợ của Tòa án như đối với hoạt động thu thập chứng cứ để giải quyết vụ việc dân sự. Theo đó, người được thi hành án hoặc người thế quyền của người đó thể tiến hành các biện pháp thu thập chứng cứ từ bất kỳ người nào, bao gồm cả người phải thi hành án[14].

Pháp luật Anh quy định người được thi hành án có quyền nộp đơn yêu cầu Tòa án ban hành lệnh cung cấp thông tin. Thủ tục này cho phép người được thi hành án buộc người phải thi hành án trình diện trước Tòa án để trả lời câu hỏi (có tuyên thệ) về tình hình tài chính tài sản của mình[15].

Điều 45 Luật mẫu về thi hành án dân sự của Canada quy định người được thi hành án có 4 biện pháp để buộc người phải thi hành án cung cấp thông tin về tài sản phục vụ cho việc thi hành án bao gồm: một là, gửi văn bản kèm theo một bảng câu hỏi để trực tiếp yêu cầu người phải thi hành án trả lời gửi lại cho chấp hành viên, trong đó nêu các thông tin chi tiết về mọi tài sản của người phải thi hành án; hai là, gửi văn bản yêu cầu người phải thi hành án phải trình diện trước chấp hành viên hoặc một người được chấp hành viên chỉ định để trả lời (có tuyên thệ) về bất kỳ câu hỏi nào liên quan đến các tài sản của người phải thi hành án; ba là, người được thi hành án nộp đơn yêu cầu tòa án ban hành lệnh buộc người phải thi hành án hoặc người khác phải cung cấp cho tòa án thông tin về các tài sản nêu trên, hoặc buộc người phải thi hành án trình diện trước chấp hành viên hoặc người do tòa án chỉ định để thực hiện kiểm tra, xác minh tài sản và trả lời các câu hỏi liên quan đến các tài sản nêu trên; bốn là, người được thi hành án nộp đơn yêu cầu tòa án ban hành một lệnh buộc người phải thi hành án phải lập văn bản ủy quyền cho cơ quan, tổ chức, cá nhân đang nắm giữ thông tin về tài sản của người phải thi hành án cung cấp thông tin đó cho người được thi hành án hoặc chấp hành viên. Luật mẫu cũng quy định rõ hậu quả pháp lý của việc không cung cấp thông tin khi được yêu cầu[16].

Từ các phân tích trên có thể thấy, pháp luật của các quốc gia có sự phong phú trong cách tiếp cận về trao quyền xác minh cho các chủ thể khác nhau. Tuy nhiên, tất cả đều có một điểm chung là dù trao quyền cho chủ thể nào thì cũng phải có hành lang pháp lý tương ứng để đảm bảo tính quyền lực cũng như đảm bảo cho sự hiệu quả trong hoạt động xác minh của chủ thể đó. Cụ thể, đối với mô hình người được thi hành án có nghĩa vụ xác minh điều kiện thi hành án thì phải đảm bảo sự minh bạch của thông tin, ví dụ như có hệ thống thông tin điện tử và sự sẵn sàng của các cơ quan nắm giữ thông tin khi cung cấp cho người được thi hành án, đồng thời cũng phải chế để hỗ trợ cho người được thi hành án trong việc tìm kiếm thông tin (như Mỹ, Anh, Canada). Đối với hình giao nhiệm vụ xác minh cho các tổ chức chuyên nghiệp (như thẩm phán, chấp hành viên hay TPL) thì phải đảm bảo trao cho các chủ thể quyền được tiếp cận một cách trực tiếp vào hệ thống thông tin sự phối hợp của các quan thẩm quyền (Ví dụ như Nga, Trung Quốc, Italia…).

1.2. Nhóm chủ thể tham gia vào hoạt động xác minh tài sản là quyền sử dụng đất

-  Người phải thi hành án

Đây là chủ thể chủ yếu, cơ bản của hoạt động thi hành án dân sự nói chung và hoạt động xác minh điều kiện thi hành án nói riêng. Với địa vị là người phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình để thực hiện nghĩa vụ, đồng thời là chủ sở hữu tài sản - đối tượng chủ yếu của hoạt động thi hành án dân sự, người phải thi hành án sẽ là chủ thể hiểu rõ nhất về khả năng và điều kiện thi hành án của mình.

Vì vậy, pháp luật nhiều quốc gia quy định người phải thi hành án phải có trách nhiệm chủ yếu trong việc cung cấp thông tin tài sản thi hành án của mình. hình này được áp dụng ở hầu hết các quốc gia châu Âu (Áo, Đan Mạch, Phần Lan, Đức, Hy Lạp, Ireland, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Vương quốc Anh, Bỉ, Pháp, Ý, Luxemburg, Hà Lan). Theo đó, các quốc gia này trao quyền cho các cơ quan thi hành án để đặt câu hỏi trực tiếp đối với người phải thi hành án về tài sản của mình. Tuyên bố của người phải thi hành ánthể được thực hiện dưới hình thức lời khai trước tòa án thi hành án. Người phải thi hành án được yêu cầu tham dự một phiên xét xử nơi anh ta bị thẩm phán (hoặc một thư ký Tòa án) thẩm vấn; người được thi hành án cũng có cơ hội đặt thêm câu hỏi cho người phải thi hành án. Ở Ireland và Anh, kiểm tra chéo về tài sản của người phải thi hành cũng có thể diễn ra và người phải thi hành án phải trình bày bằng chứng về tài sản của mình. Tuy nhiên, ở các quốc gia thành viên khác, tuyên bố của người phải thi hành án được thực hiện bằng cách điền vào các mẫu bắt buộc - đôi khi là vai trò của các cơ quan thi hành án chỉ đơn giản là để giúp người phải thi hành án điền vào các mẫu đơn[17].

các nước theo hệ thống pháp luật common law như Anh, Mỹ, Canada, khi người được thi hành án tiến hành xác minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án thì thông tin đầu tiên đến từ chính người phải thi hành án, sau khi người được thi hành án đưa ra các câu hỏi (qua bảng câu hỏi hoặc phiên điều trần, kiểm tra), người phải thi hành án trách nhiệm trả lời các câu hỏi đó. Về bản, đây cũng một hình thức tuyên bố về tài sản của người phải thi hành án, chỉ điều tuyên bố đó chịu sự kiểm soát của người được thi hành án hoặc quan thi hành án dân sự thẩm quyền. Cũng dưới phương thức xác minh thông qua tuyên bố của người phải thi hành án, pháp luật Đức lại lựa chọn phương án trao quyền cho quan thi hành án dân sự trực tiếp yêu cầu người phải thi hành án cung cấp thông tin về tài sản của mình. Theo quy định của pháp luật CHLB Đức, người được thi hành án người quyền lựa chọn quan thẩm quyền thi hành án hoặc nhân viên Tòa án tổ chức thi hành án với các yêu cầu thi hành án của mình. vậy, người được thi hành án mới người kiểm soát quyết định các biện pháp tổ chức thi hành án. Để thuận lợi cho người được thi hành án trong việc dễ dàng lựa chọn một loạt biện pháp thi hành án phù hợp thì người phải thi hành án phải trách nhiệm cung cấp một bản khai chi tiết về tài sản của mình cho người thẩm quyền thi hành án theo sự lựa chọn của người được thi hành án[18].

Vấn đề cơ bản của tuyên bố của người phải thi hành án nằm ở thực tế là nó phụ thuộc vào cá nhân người phải thi hành án. Nếu người phải thi hành án từ chối tiết lộ tài sản của mình, cơ quan thi hành án (với sự giúp đỡ của cảnh sát) có thể thực hiện cưỡng chế và bắt giữ anh ta. Một tuyên bố không chính xác hoặc sai của người phải thi hành án được coi một tội hình sự. Do đó, tại một số quốc gia thành viên, tuyên bố phải được tuyên thệ[19]. Pháp luật Đức quy định bản kê khai chi tiết tài sản của người phải thi hành án phải được đính kèm với một lời tuyên thệ rằng tất cả thông tin trong đó chính xác bằng tất cả sự hiểu biết và kiến thức của mình[20]. Đồng thời, nếu người phải thi hành án không đến văn phòng của chấp hành viên theo lịch hẹn để cung cấp thông tin về tài sản và tình hình tài chính của mình mà không do chính đáng hoặc từ chối cung cấp thông tin về tài sản tình hình tài chính của mình, theo Điều 802c Bộ luật thi hành án dân sự Đức không đưa ra được bất kỳ một lý do phù hợp nào thì họ sẽ bị bắt giữ để buộc người phải thi hành án phải cung cấp các thông tin theo yêu cầu. Người phải thi hành án có thể sẽ bị bắt giam giữ trên cơ sở lệnh bắt giữ được phát hành bởi Tòa án theo yêu cầu của người được thi hành án (biện pháp cưỡng chế giam giữ) cho đến khi họ cung cấp được đầy đủ thông tin về tài sản tình hình tài chính của mình, thời hạn tối đa của việc giam giữ này 6 tháng. Một bản photocopy đã được xác nhận của Lệnh bắt giữ sẽ được chuyển giao trực tiếp cho người phải thi hành án tại thời điểm bắt giữ. Người có thẩm quyền bắt giữ người phải thi hành án trong trường hợp này là chấp hành viên thi hành án[21]. Ngoài ra, Đức, bản tuyên bố của người phải thi hành án còn được đăng tại các Tòa án địa phương. Theo đó, các Tòa án địa phương sẽ liệt những người đã tuyên thệ hoặc không tuyên thệ. Tại nhiều Tòa án địa phương, các sổ đăng ký được duy trì dưới dạng cơ sở dữ liệu điện tử và phòng công nghiệp và thương mại thường xuyên nhận được các bản sao (thậm chí truy cập trực tuyến). Do đó, vấn đề công khai bản tuyên bố của người phải thi hành án sẽ tác động đến uy tín tín dụng của người phải thi hành án. Trong thực tế, việc tránh bị ghi trong sổ đăng của người phải thi hành án một động lực mạnh mẽ cho người phải thi hành án để hỗ trợ phán quyết được thi hành[22].

Như vậy, có thể thấy, người phải thi hành án có một vị trí rất quan trọng trong hoạt động xác minh điều kiện thi hành án. Tuy nhiên, để phát huy hiệu quả của mô hình cung cấp thông tin của người phải thi hành án, pháp luật cần quy định chi tiết, cụ thể các biện pháp chế tài mà người phải thi hành án phải gánh chịu nếu vi phạm nghĩa vụ và các chế tài phải đủ mạnh để đủ sức răn đe hành vi gian dối hoặc trốn tránh của người phải thi hành án.

-  Người được thi hành án: Với tư cách là người được hưởng các quyền, lợi ích từ hoạt động thi hành án dân sự, người được thi hành án chủ thể phù hợp nhất cho việc tìm kiếm cung cấp thông tin. Đây do nhiều quốc gia giao cho người được thi hành án nhiệm vụ cung cấp thông tin để các quan tổ chức thi hành án xác minh tài sản của người phải thi hành án.

1.3. Nhóm chủ thể hỗ trợ xác minh quyền sử dụng đất

-  Cơ quan nắm giữ thông tin về đất đai

Cơ quan nắm giữ thông tin về đất đai là một chủ thể có tầm quan trọng đặc biệt khi tham gia vào hoạt động xác minh tài sản là quyền sử dụng đất. Đây sẽ là chủ thể chủ yếu để cung cấp thông tin cho các chủ thể có nhiệm vụ, quyền hạn xác minh quyền sử dụng đất. Bởi lẽ, như đã phân tích ở trên, sự tham gia của người phải thi hành án vào hoạt động xác minh phụ thuộc vào ý chí cá nhân của họ. Nếu biện pháp chế tài không phù hợp hoặc nếu việc thực thi chế tài thiếu nghiêm minh thì việc che giấu thông tin về tài sản của người phải thi hành án sẽ luôn tồn tại. Đồng thời, để kiểm tra sự trung thực của các thông tin về tài sản mà người phải thi hành án cung cấp thì các cơ quan quản lý đất đai, các cơ quan nắm giữ các thông tin về đất đai là các chủ thể phù hợp giúp các chủ thể có thẩm quyền xác minh điều kiện thi hành án kiểm tra thông tin đó.

Ở mỗi quốc gia khác nhau, việc quản lý thông tin về đất đai cũng rất khác nhau. Ví dụ như ở Anh, nơi đăng ký đất đai (trung ương) không cung cấp thông tin về đất thuộc sở hữu của người phải thi hành án. Người được thi hành án muốn tìm kiếm thông tin thì phải biết vị trí của bất động sản - thường là một nhiệm vụ bất khả thi. Một số sổ đăng ký được vi tính hoá và có thể truy cập trực tuyến (như ở Áo, Phần Lan, Thuỵ Điển, Scotland), trong khi các quốc gia thành viên khác chỉ cung cấp sổ đăng đất đai cấp thành phố (Pháp, Đức). Tuy nhiên, có một xu hướng hiện nay là tổ chức lại các sổ đăng ký đất đai như cơ sở dữ liệu điện tử và sự phân mảnh giữa hệ thống các quốc gia có thể được khắc phục bằng dữ liệu điện tử cho phép truy cập chuẩn vào cơ sở dữ liệu trung tâm của quốc gia[23].

Ngoài ra, ở liên minh châu Âu, một trong những nguồn thông tin quan trọng để xác định tài sản của người phải thi hành án đó là sổ đăng ký thương mại. Hiện nay, đăng ký kinh doanh của các quốc gia thành viên cung cấp thông tin chi tiết về các công ty riêng lẻ (tình trạng hợp pháp, ngày thành lập, vốn công ty, văn bản, lĩnh vực hoạt động, cơ quan doanh nghiệp và quyền đại diện của họ, đôi khi cả số lượng nhân viên). Thông tin này thường được ghi lại trong sổ đăng ký trung tâm điện tử và có thể truy cập trực tuyến. Tuy nhiên, việc đăng ký nói trên chỉ áp dụng cho các tập đoàn thương mại được xác định mà không áp dụng cho các cá nhân cũng như hoạt động hợp tác kinh doanh. Thực tế, các đăng ký thương mại tại các quốc gia thành viên vẫn bị phân mảnh: trong khi ở Vương quốc Anh có ba đăng ký trung tâm bao gồm tất cả thông tin về giao dịch kinh doanh, thì có đến 400 trung tâm đăng ký được điều hành bởi các Tòa án địa phương ở Đức. Đăng ký trung tâm không phải luôn luôn cho phép người được thi hành án được truy cập. Bên cạnh đó, thông tin trong sổ đăng ký thương mại không phải lúc nào cũng đáng tin cậy như nhau: Trong sáu quốc gia thành viên như Phần Lan, Ireland, Hà Lan, Vương quốc Anh, cơ quan đăng ký không kiểm tra thông tin trước khi nó được nhập vào sổ đăng ký. Ở một số quốc gia thành viên khác, thông tin trong sổ đăng ký thương mại thể bị lỗi thời, công ty không báo cáo thay đổi trạng thái của việc không báo cáo này không phải lúc nào cũng được giải quyết bằng các biện pháp trừng phạt đầy đủ[24].

Từ các phân tích trên, thể thấy, nguồn thông tin về tài sản của người phải thi hành án từ các cơ quan quản lý là vô cùng cần thiết. Kể cả các quốc gia xây dựng phương thức xác minh trên cơ sở tuyên bố của người phải thi hành án thì để kiểm soát sự trung thực của người phải thi hành án vẫn cần sử dụng đến các sổ đăng ký của các cơ quan quản lý để kiểm soát thông tin. Ví dụ như ở Đức, ngoài bản tuyên bố thông tin về tài sản do người phải thi hành án cung cấp thì quan thi hành án thẩm quyền cũng thể tiếp cận các nguồn thông tin khác có chứa các thông tin về cá nhân cũng như tài sản của người phải thi hành án từ chủ sử dụng lao động của người phải thi hành án, Văn phòng thuế liên bang, cơ quan quản lý giao thông vận tải liên bang…[62]. Tuy nhiên, để việc xác minh thông qua nguồn tin này có hiệu quả đòi hỏi phải xây dựng được một hệ thống thông tin mà ở đó, những người có thẩm quyền trong việc xác minh điều kiện được truy cập trực tiếp vào nguồn tin đó và nguồn tin đó phải được quản một cách thống nhất, minh bạch phạm vi lãnh thổ rộng nhất có thể. Ví dụ như ở Pháp, khi TPL không được truy cập trực tiếp vào nguồn thông tin mà phải thông qua cơ quan khác (văn phòng công tố) dẫn đến sự chậm trễ và không hiệu quả trong việc tìm kiếm thông tin[25]. Hoặc ở các quốc gia như Vương quốc Anh, Pháp, Đức sổ đăng ký đất đai chỉ được quản lý ở cấp thành phố thì việc xác minh tài sản của người phải thi hành án dường như thiếu đi tính hiệu quả. Hoặc sổ đăng đất đai trung ương ở Vương quốc Anh không được quản lý theo chủ sở hữu mà được quản lý theo vị trí thửa đất cũng khiến cho việc xác minh rơi vào bế tắc cho những người có quyền thực hiện việc xác minh[26].

-  Cơ quan công an: Đối với các tài sản khác, việc xác minh có thể chỉ dừng lại ở các quan nắm giữ thông tin như xác minh tài khoản ngân hàng, xác minh cổ phần, cổ phiếu… Nhưng với bất động sản, một trong những nội dung buộc phải xác minh là xác minh hiện trạng của bất động sản. Điều này đòi hỏi người thẩm quyền xác minh phải có mặt trực tiếp tại nơi bất động sản để xác minh hiện trạng của nó. Khi thực hiện công việc này, rất dễ xảy ra sự chống đối của người phải thi hành án. vậy, sự hỗ trợ của cơ quan công an cần thiết khi thực hiện việc xác minh hiện trạng quyền sử dụng đất.

  1. Quyềnvànghĩavụcủacácchủthểxácminhquyềnsửdụngđất

2.1. Quyền nghĩa vụ pháp của nhóm chủ thể được giao nhiệm vụ xác minh tài sản là quyền sử dụng đất

Trong nhóm chủ thể này, tuỳ thuộc vào địa vị pháp của từng chủ thể sẽ quy định khác nhau về quyền và nghĩa vụ pháp lý. Đối với nhóm chủ thể xác minh là người được giao quyền tổ chức thi hành án và đối với nhóm chủ thể xác minh không phải là người được giao quyền tổ chức thi hành án.

Đối với quyền, nghĩa vụ pháp của nhóm chủ thể xác minh được giao quyền tổ chức thi hành án.

Đây là chủ thể được pháp luật giao quyền tổ chức thi hành án. Để triển khai việc tổ chức thi hành án, các chủ thể này phải tiến hành xác minh để xác định tài sản của người phải thi hành án. Về nguyên tắc, khi được giao quyền tổ chức thi hành án, họ đã được giao một phần quyền lực nhà nước để tác động đến các chủ thể, các đối tượng có liên quan nhằm thu kết quả là xác định được tài sản thuộc sở hữu của người phải thi hành án. Vì vậy, các quyền được xây dựng cho chủ thể này phải đảm bảo tính quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, do xác minh chỉ là một công đoạn của quá trình thi hành án và mục đích của xác minh là để làm căn cứ cho việc tổ chức cưỡng chế thi hành án nên pháp luật cũng phải xây dựng các nghĩa vụ pháp tương ứng để đảm bảo không làm ảnh hưởng đến việc cưỡng chế thi hành án nói riêng và kết quả của hoạt động thi hành án nói chung. Ngoài ra, do hoạt động xác minh được thực hiện bởi một chủ thể không phải chủ sở hữu tài sản nên dễ làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người phải thi hành án. vậy, khi quy định về nghĩa vụ của chủ thể xác minh phải tính đến sự cân bằng quyền lợi của người phải thi hành án. Cụ thể, chủ thể xác minh có các quyền, nghĩa vụ pháp lý sau:

-  Quyền yêu cầu các chủ thể liên quan cung cấp thông tin về tài sản của người phải thi hành án:

+ Đối với người phải thi hành án: đây là chủ thể chủ yếu của hoạt động thi hành án dân sự, là người nắm rõ thông tin về tình hình, khả năng thi hành án của chính mình, đồng thời, xuất phát từ nghĩa vụ mà họ buộc phải thi hành đối với người được thi hành án thì việc ràng buộc trách nhiệm cung cấp thông tin của họ là điều cần thiết.

+ Đối với người được thi hành án: người được hưởng các quyền, lợi ích từ hoạt động thi hành án nên người được thi hành án sẽ chủ thể động tích cực nhất để cung cấp thông tin về tài sản của người phải thi hành án. Do vậy, người được trao quyền xác minh có quyền yêu cầu người được thi hành án cung cấp thông tin về tài sản của người phải thi hành án.

+ Đối với các cơ quan quản lý đất đai: đây là chủ thể nắm giữ thông tin trực tiếp và đầy đủ nhất về quyền của người sử dụng đất nên việc quy định người có thẩm quyền xác minh được trực tiếp yêu cầu chủ thể này cung cấp thông tin là có cơ sở. Kinh nghiệm của Pháp trước năm 2016, trước khi có cải cách quy định pháp luật về thủ tục thi hành án dân sự cho thấy, việc không được xác minh trực tiếp với chủ thể nắm giữ thông tin mà phải qua trung gian là cơ quan công tố nên đã ảnh hưởng đến chất lượng của hoạt động xác minh. Hiện nay, pháp luật Pháp đã cho phép thừa phát lại được trực tiếp xác minh thông tin tại bên thứ ba quản lý thông tin[27].

-  Quyền truy cập trực tiếp các thông tin dưới dạng dữ liệu điện tử: Trường hợp các thông tin về tài sản của người phải thi hành án được lưu giữ dưới dạng dữ liệu điện tử thì chủ thể xác minh phải được quyền truy cập trực tiếp các thông tin dưới dạng điện tử. Ví dụ ở Nga, các chấp hành viên được quyền trực tiếp truy cập vào hệ thống thông tin điện tử có chứa các thông tin về tài sản của người phải thi hành án, quyền này đã giúp nâng cao địa vị pháp của chấp hành viên, từ đó, nâng cao hiệu quả của hoạt động thi hành án dân sự tại Nga.

-  Nghĩa vụ tuân thủ quy định về thời hạn tiến hành xác minh: Đối với chủ thể tiến hành xác minh là một cơ quan công quyền, với đặc điểm là độc lập với chủ sở hữu tài sản và không nhận được lợi ích trực tiếp từ hoạt động thi hành án nên dễ dẫn đến tình trạng lạm quyền hoặc chậm trễ việc tổ chức thi hành án làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người được thi hành án nên pháp luật cần quy định cụ thể về thời hạn mà chủ thể tiến hành xác minh phải xác minh điều kiện thi hành án.

-  Nghĩa vụ bảo mật thông tin: Xuất phát từ đặc điểm là chủ thể xác minh không phải chủ sở hữu tài sản nên nếu được cung cấp các thông tin không quy định nghĩa vụ bảo mật thông tin sẽ dẫn đến những hành động sử dụng thông tin không đúng mục đích làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người phải thi hành án. Đây là lý do mà pháp luật nhiều quốc gia quy định nghĩa vụ bảo mật thông tin đối với chủ thể xác minh điều kiện thi hành án.

Để chủ thể xác minh điều kiện thi hành án thực hiện nghiêm túc các quy định về nghĩa vụ pháp lý khi tiến hành xác minh, pháp luật cần xây dựng các trách nhiệm pháp lý mà chủ thể xác minh phải gánh chịu nếu vi phạm nghĩa vụ. Ví dụ như ở Pháp, xuất phát từ lý thuyết cân bằng quyền lợi giữa những lợi ích hợp pháp của chủ nợ quyền được tôn trọng đời tư của con nợ, pháp luật quy định về nghĩa vụ cung cấp thông tin của các cơ quan hành chính, các tổ chức, nhân nắm giữ thông tin về tài sản của người phải thi hành án nhưng đối với thừa phát lại chủ thể thực hiện quyền xác minh, pháp luật quy định:

Thông tin thu được chỉ thể được sử dụng trong khuôn khổ cần thiết cho việc thi hành án được yêu cầu. Trong bất kỳ trường hợp nào, các thông tin này không được trao đổi với bên thứ ba hoặc được dùng để xử dữ liệu mang tính chất nhân.

Bất kỳ hành vi vi phạm các quy định này có thể phải chịu mức án theo tội danh quy định tại Điều 226-21 của Bộ luật hình sự, chưa kể đến việc hành vi đó thể phải chịu chế tài kỷ luật nghề nghiệp bồi thường thiệt hại, nếu [28].

Như vậy, thông tin thu thập được chỉ thể được sử dụng trong phạm vi cần thiết để thi hành án đã được yêu cầu, đồng thời, tính bảo mật của các thông tin này được đảm bảo bởi các chế tài dân sự hình sự đối với thừa phát lại.

2.2. Quyền, nghĩa vụ pháp lý của nhóm chủ thể xác minh không phải là người được giao nhiệm vụ tổ chức thi hành án

Nhóm chủ thể này chính người được thi hành án. Bởi người được thi hành án chủ thể của các quyền, lợi ích phát sinh từ hoạt động thi hành án nên họ có quyền được thực hiện các công việc nhằm thu được các lợi ích chính đáng của mình. Tuy nhiên, để thực hiện công việc xác minh, tương tự như đối với chủ thể người được giao nhiệm vụ tổ chức thi hành án, người được thi hành án cũng cần phải có sự hỗ trợ của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan. Đồng thời, xuất phát từ bản chất trật tự công của hoạt động thi hành án dân sự, theo đó, “việc thi hành án không được biến thành sự áp bức” nên pháp luật cũng phải ràng buộc các nghĩa vụ của người được thi hành án khi được trao quyền. Vì vậy, khi xác minh quyền sử dụng đất, người được thi hành án các quyền nghĩa vụ sau:

-  Quyền yêu cầu các chủ thể có liên quan cung cấp thông tin và hỗ trợ cung cấp thông tin về quyền sử dụng đất;

-  Nghĩa vụ cung cấp các căn cứ để chứng minh quyền được cung cấp thông tin: Để tránh sự lạm dụng của các chủ thể khi thực hiện hoạt động xác minh, pháp luật quy định về nghĩa vụ chứng minh quyền được cung cấp thông tin của người yêu cầu. Ví dụ người yêu cầu phải xuất trình các bản án, quyết định hoặc các văn bản giá trị thi hành.

-  Nghĩa vụ bảo mật thông tin:

Tương tự như nghĩa vụ của nhóm chủ thể được giao nhiệm vụ tổ chức thi hành án, để ràng buộc trách nhiệm của người được thi hành án khi sử dụng thông tin, pháp luật quy định nghĩa vụ bảo mật thông tin và các biện pháp chế tài nếu vi phạm nghĩa vụ này.

2.3. Quyền và nghĩa vụ pháp lý của nhóm chủ thể hỗ trợ hoạt động xác minh

2.3.1. Quyền, nghĩa vụ pháp của quan quản đất đai

Với tính chất là cơ quan quản lý các thông tin về quyền sử dụng đất, để xác định rõ các nội dung của quyền sử dụng đất nhằm phục vụ cho hoạt động cưỡng chế đối với quyền sử dụng đất, các cơ quan quản lý đất đai có các nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý như sau:

-  Nghĩa vụ cung cấp thông tin về các quyền của người phải thi hành án đối với quyền sử dụng đất: quan quản đất đai phải cung cấp các thông tin về các quyền của người phải thi hành án đối với quyền sử dụng đất. Trường hợp quyền sử dụng đất thuộc quyền sở hữu chung của người phải

Thi hành án với người khác cũng cần được làm rõ để đảm bảo tính minh bạch trong thông tin được cung cấp. Các hạn chế có liên quan đến quyền của người sử dụng đất cũng cần được làm rõ như quyền sử dụng đất có đang được thế chấp không.

-  Nghĩa vụ cung cấp thông tin về sự thay đổi hiện trạng tài sản.

Đây là một nghĩa vụ pháp lý rất đặc biệt của cơ quan quản lý đất đai. Khác với các tài sản hữu hình khác, sự thay đổi hiện trạng của tài sản là tất yếu sau quá trình sử dụng và chỉ ảnh hưởng đến người sở hữu, sử dụng nó, còn sự thay đổi hiện trạng của quyền sử dụng đất (ví dụ như trường hợp tăng, giảm diện tích) sẽ ảnh hưởng đến các chủ thể khác như các hộ liền kề hoặc nhà nước (nếu lấn chiếm đất công). Đặc điểm này dẫn đến yêu cầu phải làm nguyên nhân của sự thay đổi về hiện trạng sự xác nhận này chỉ thể thuộc về cơ quan quản lý đất đai.

-  Trách nhiệm pháp lý khi vi phạm nghĩa vụ

Hỗ trợ cho hoạt động thi hành án dân sự nói chung cho hoạt động xác minh nói riêng có giá trị pháp lý ràng buộc đối với các bên thứ ba. Do đó, bất kỳ ai vi phạm nghĩa vụ này cũng sẽ bị buộc phải chịu trách nhiệm pháp tương ứng.

Theo pháp luật của Pháp, nếu bên thứ ba trốn tránh nghĩa vụ của mình (trong đó có nghĩa vụ cung cấp thông tin) thì thể bị buộc phải thực hiện nghĩa vụ, trong trường hợp cần thiết, có thể bị phạt. Thậm chí nếu bên thứ ba từ chối cộng tác, còn phải thanh toán cho các thiệt hại xảy ra[29].

Như vậy, để ràng buộc trách nhiệm của cơ quan quản lý đất đai, cần phải xây dựng các chế tài rõ ràng và phù hợp bao gồm các chế tài hành chính và chế tài dân sự.

2.3.2. Quyền, nghĩa vụ pháp lý của cơ quan công an

Khác với việc xác minh các tài sản khác, khi tiến hành xác minh hiện trạng quyền sử dụng đất, chấp hành viên rất dễ gặp phải sự phản kháng của đương sự. Vì vậy, cơ quan công an có nhiệm vụ hỗ trợ việc xác minh thực trạng tài sản nếu yêu cầu của chấp hành viên. Trong những trường hợp này, nếu không có sự hỗ trợ của lực lượng công an, chấp hành viên không thể hoàn thành nhiệm vụ xác minh. Đây do phải quy định về trách nhiệm pháp để ràng buộc nghĩa vụ của quan công an khi tham gia hoạt động xác minh quyền sử dụng đất.

Theo quy định của pháp luật Pháp, nhà nước được yêu cầu hỗ trợ thi hành các bản án và các văn bản có giá trị thi hành. Việc Nhà nước từ chối hỗ trợ làm phát sinh quyền được bồi thường. Thừa phát lại phụ trách việc thi hành án thể yêu cầu sự hỗ trợ của lực lượng công[30]. Nếu thừa phát lại yêu cầu sự hỗ trợ của lực lượng công, anh ta sẽ có văn bản gửi cảnh sát trưởng. Yêu cầu bao gồm một bản sao của văn bản cần thi hành án, kèm theo đó tả về quá trình thẩm định của thừa phát lại những khó khăn khi thi hành. Nếu không trả lời trong vòng hai tháng tương đương với việc từ chối[31].

 


[1] Federal Bailiffs’ service (2019), State and private enforcement systems: comparative analysis and the best practices, Collection of Materials of the 9th International Scientific and Practical Conference, 10-13 October 2018, Sochi, Krasnodar, Enterprise style publisher, Moscow, pg.348.

[2] Federal Bailiffs’ service (2019), State and private enforcement systems: comparative analysis and the best practices, Collection of Materials of the 9th International Scientific and Practical Conference, 10-13 October 2018, Sochi, Krasnodar, Enterprise style publisher, Moscow, pg.345.

[3] Federal Bailiffs’ service (2019), State and private enforcement systems: comparative analysis and the best practices, Collection of Materials of the 9th International Scientific and Practical Conference, 10-13 October 2018, Sochi, Krasnodar, Enterprise style publisher, Moscow, pg.545-546.

[4] Federal Bailiffs’ service (2019), State and private enforcement systems: comparative analysis and the best practices, Collection of Materials of the 9th International Scientific and Practical Conference, 10-13 October 2018, Sochi, Krasnodar, Enterprise style publisher, Moscow, pg. 450-452.

[5] Federal Bailiffs’ service (2019), State and private enforcement systems: comparative analysis and the best practices, Collection of Materials of the 9th International Scientific and Practical Conference, 10-13 October 2018, Sochi, Krasnodar, Enterprise style publisher, Moscow, pg. 572.

[6] Federal Bailiffs’ service (2019), State and private enforcement systems: comparative analysis and the best practices, Collection of Materials of the 9th International Scientific and Practical Conference, 10-13 October 2018, Sochi, Krasnodar, Enterprise style publisher, Moscow,pg.545-546.

[7] Federal Bailiffs’ service (2019), State and private enforcement systems: comparative analysis and the best practices, Collection of Materials of the 9th International Scientific and Practical Conference, 10-13 October 2018, Sochi, Krasnodar, Enterprise style publisher, Moscow, pg.366-370.

[8] Federal Bailiffs’ service (2019), State and private enforcement systems: comparative analysis and the best practices, Collection of Materials of the 9th International Scientific and Practical Conference, 10-13 October 2018, Sochi, Krasnodar, Enterprise style publisher, Moscow, pg.358.

[9] Claude Brenner (2019), Procédures civiles d’exécution, Éditions Dalloz, Paris, pg.27

[10] C.H. van Rhee & A. Uzelac (2010), Enforcement and Enforceability – Tradition and Reform, Publisher Intersentia, Portland, pg.51.

[11] C.H. van Rhee & A. Uzelac (2010), Enforcement and Enforceability – Tradition and Reform, Publisher Intersentia, Portland, pg. 153.

[12] Federal Bailiffs’ service (2019), State and private enforcement systems: comparative analysis and the best practices, Collection of Materials of the 9th International Scientific and Practical Conference, 10-13 October 2018, Sochi, Krasnodar, Enterprise style publisher, Moscow, pg.419-423.

[13] Federal Bailiffs’ service (2019), State and private enforcement systems: comparative analysis and the best practices, Collection of Materials of the 9th International Scientific and Practical Conference, 10-13 October 2018, Sochi, Krasnodar, Enterprise style publisher, Moscow, pg.445-448.

[14] Nguyễn Bích Thảo & Nguyễn Thị Hương Giang (2018), “Hoàn thiện cơ chế xác minh điều kiện thi hành án dân sự ở Việt Nam từ kinh nghiệm quốc tế”, Tạp chí Khoa học Đại học quốc gia Hà nội: Luật học, tập 34, số 1 (2018), tr.1-10

[15] Nguyễn Bích Thảo & Nguyễn Thị Hương Giang (2018), “Hoàn thiện cơ chế xác minh điều kiện thi hành án dân sự ở Việt Nam từ kinh nghiệm quốc tế”, Tạp chí Khoa học Đại học quốc gia Hà nội: Luật học, tập 34, số 1 (2018), tr.1-10.

[16] Nguyễn Bích Thảo & Nguyễn Thị Hương Giang (2018), “Hoàn thiện cơ chế xác minh điều kiện thi hành án dân sự ở Việt Nam từ kinh nghiệm quốc tế”, Tạp chí Khoa học Đại học quốc gia Hà nội: Luật học, tập 34, số 1 (2018), tr.1-10.

[17] Burkhard Hess (2004), Study No. JAI/A3/2002/02 on making more efficient the enforcement of judicial decisions within the European Union: Transparency of a Debtor’s Assets Attachment of Bank Accounts - Provisional Enforcement and Protective Measures, Version of 2/18/2004; Address: http://www2.ipr.uni- heidelberg.de/studie/General%20Report%20Version%20of%2018%20Feb%202 004.pdf [Access to: 24/4/2020], pg.35.

[18] Nguyễn Văn Nghĩa (2018), “Trách nhiệm cung cấp thông tin tài sản thi hành án dân sự trong pháp luật Châu Âu và Cộng hoà liên bang Đức”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Số 01 (353), tháng 01/2018, tr.59-64.

[19] C.H. van Rhee & A. Uzelac (2010), Enforcement and Enforceability – Tradition and Reform, Publisher Intersentia, Portland, pg.51.

[20] Nguyễn Văn Nghĩa (2018), “Trách nhiệm cung cấp thông tin tài sản thi hành án dân sự trong pháp luật Châu Âu và Cộng hoà liên bang Đức”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Số 01 (353), tháng 01/2018, tr.59-64.

[21] Nguyễn Văn Nghĩa (2018), “Trách nhiệm cung cấp thông tin tài sản thi hành án dân sự trong pháp luật Châu Âu và Cộng hoà liên bang Đức”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Số 01 (353), tháng 01/2018, tr.59-64.

[22] Burkhard Hess (2004), Study No. JAI/A3/2002/02 on making more efficient the enforcement of judicial decisions within the European Union: Transparency of a Debtor’s Assets Attachment of Bank Accounts - Provisional Enforcement and Protective Measures, Version of 2/18/2004; Address: http://www2.ipr.uni- heidelberg.de/studie/General%20Report%20Version%20of%2018%20Feb%202 004.pdf [Access to: 24/4/2020], pg37.

[23] Burkhard Hess (2004), Study No. JAI/A3/2002/02 on making more efficient the enforcement of judicial decisions within the European Union: Transparency of a Debtor’s Assets Attachment of Bank Accounts - Provisional Enforcement and Protective Measures, Version of 2/18/2004; Address: http://www2.ipr.uni- heidelberg.de/studie/General%20Report%20Version%20of%2018%20Feb%202 004.pdf [Access to: 24/4/2020], pg.27.

[24] Burkhard Hess (2004), Study No. JAI/A3/2002/02 on making more efficient the enforcement of judicial decisions within the European Union: Transparency of a Debtor’s Assets Attachment of Bank Accounts - Provisional Enforcement and Protective Measures, Version of 2/18/2004; Address: http://www2.ipr.uni- heidelberg.de/studie/General%20Report%20Version%20of%2018%20Feb%202 004.pdf [Access to: 24/4/2020], pg.22-23.

[25] Burkhard Hess (2004), Study No. JAI/A3/2002/02 on making more efficient the enforcement of judicial decisions within the European Union: Transparency of a Debtor’s Assets Attachment of Bank Accounts - Provisional Enforcement and Protective Measures, Version of 2/18/2004; Address: http://www2.ipr.uni- heidelberg.de/studie/General%20Report%20Version%20of%2018%20Feb%202 004.pdf [Access to: 24/4/2020], pg.23

[26]Burkhard Hess (2004), Study No. JAI/A3/2002/02 on making more efficient the enforcement of judicial decisions within the European Union: Transparency of a Debtor’s Assets Attachment of Bank Accounts - Provisional Enforcement and Protective Measures, Version of 2/18/2004; Address: http://www2.ipr.uni- heidelberg.de/studie/General%20Report%20Version%20of%2018%20Feb%202 004.pdf [Access to: 24/4/2020], pg.27.

[27] Pierre Cagnoli (2018), Procédures civiles d’exécution, LGDJ, Lextenso éditions, Normandie, pg.108-109.

[28] Légifrance,       Code      des          procédures            civiles    d’exécution, Adresse: https://www.legifrance.gouv.fr/affichCode.do?cidTexte=LEGITEXT000025024 948 [Accès à: 28/4/2020], L.152-3.

[29] Claude Brenner (2019), Procédures civiles d’exécution, Éditions Dalloz, Paris,pg.28.

[30] Légifrance,       Code      des          procédures            civiles    d’exécution, Adresse: https://www.legifrance.gouv.fr/affichCode.do?cidTexte=LEGITEXT000025024 948 [Accès à: 28/4/2020], L.153-2.

[31] Légifrance,       Code      des          procédures            civiles    d’exécution, Adresse: https://www.legifrance.gouv.fr/affichCode.do?cidTexte=LEGITEXT000025024 948 [Accès à: 28/4/2020], L.153-1.


[1] European commission on the efficiency of justice (2009), Guidelines for a better implementation of the existing council of Europe’s recommendation on enforcement,    Address: http://www.nchb.al/wp-content/uploads/2014/12/CEPEJ.pdf, [Access to: 18/3/2020].