Thứ ba, 11 Tháng 4 2023 15:48

Một số đề xuất xây dựng mô hình quản trị phát triển xã hội của Việt Nam

 

1. Quan điểm của Đảng

Trong mấy thập kỷ vừa qua, Việt Nam đã đạt được những kết quả rất quan trọng liên quan đến quản lý phát triển xã hội ở Việt Nam, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã nhận định: “Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, dân tộc, tôn giáo để giải quyết các vấn đề xã hội... Ngân sách nhà nước dành cho các chương trình quốc gia nhằm thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội gia tăng hàng năm...”. Mặc dù đạt được nhiều thành tựu quan trọng nhưng Báo cáo chính trị vẫn cho rằng: “quản lý phát triển xã hội. thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội còn nhiều hạn chế, khuyết điểm... Việc giải quyết một số vấn đề xã hội chưa hiệu quả... giảm nghèo chưa bền vững, chênh lệch giàu - nghèo và bất bình đẳng có xu hướng gia tăng... chưa có chính sách, giải pháp kịp thời, hiệu quả đối với vấn đề biến đổi cơ cấu, phân hóa giàu - nghèo, phân tầng xã hội, kiểm soát rủi ro, giải quyết mâu thuẫn xã hội, bảo đảm an toàn xã hội, an ninh cho con người”

2. Những bất cập trong vấn để quản lý phát triển xã hội hiện nay

Trong thực tiễn, quá trình nghiên cứu thực địa tại 7 tỉnh, thành phố Sơn La, Hà Nội, Quảng Trị, Đắk Lắk, Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Sóc Trăng, có thể thấy nhiều vấn đề đặt ra liên quan đến các vấn đề xã hội, quản lý. phát triển xã hội ở các địa phương khác nhau. Sau đây là một số vấn đề nổi cộm trong việc quản lý phát triển xã hội ở Việt Nam hiện nay.

Đối với việc giải quyết việc làm, có những địa phương việc đào tạo nghề khó khăn do nhiều người không muốn học nghề. Thêm nữa, nhiều người đã được đào tạo nghề nhưng lại không thích ứng được với việc làm. Việc cấp bằng, chứng chỉ nghề còn vướng mắc, nhất là đối với những nghề có tính chất truyền nghề, hay tự đi học nghề vì có nhiều ngành nghề không nằm trong danh mục đào tạo. Về vấn đề xuất khẩu lao động có những địa phương, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số, người lao động gặp khó khăn về mặt kinh phí bỏ ra để đi xuất khẩu lao động. Thêm nữa, những hạn chế về trình độ và cả tâm lý e ngại đi lao động ở nước ngoài đã hạn chế việc lao động xuất khẩu. Nhiều thanh niên đi học về nhưng chưa có việc và phải đi làm tự do, lúc có việc, lúc không. Nhiều gia đình con em phải làm trái nghề so với ngành nghề đã học. Ở nhiều địa phương, những người được đi học theo diện cử tuyển nhưng sau khi học xong thì không có việc làm. Hệ quả là bên cạnh những người lao động này thất nghiệp, hoặc có việc nhưng thiếu việc làm (không có việc làm thường xuyên) thì còn gây ra hệ quả nữa là làm thui chột, giảm động lực đi học, quyết tâm đi học. Có nhiều lý do khác nhau liên quan đến việc đào tạo nghề chưa đáp ứng yêu cầu, trong đó nguyên nhân quan trọng là việc huy động nguồn lực từ các doanh nghiệp thị trường và tổ chức, trong công tác đào tạo nghề chưa được đẩy mạnh. Thêm nữa, trên thực tế, chất lượng của các trung tâm dạy nghề của Nhà nước chưa sát thực với các doanh nghiệp và phối hợp với doanh nghiệp để dạy nghề, tức là chưa chú trọng dạy nghề trên thực tế ở các doanh nghiệp. Vì vậy, cần có sự phối hợp tốt hơn giữa Nhà nước với các tổ chức xã hội, doanh nghiệp, công đồng và các cá nhân trong công tác đào tạo nghề.

Các loại mâu thuẫn xung đột đáng lưu ý trên thực tế là mâu thuẫn, xung đột giữa công nhân và doanh nghiệp phát sinh do những tranh chấp tự phát liên quan đến lợi ích người lao động và doanh nghiệp. Điều đáng lưu ý nữa là khi những mâu thuẫn này diễn ra ở các khu công nghiệp thì có sự lây lan. Mâu thuẫn xung đột liên quan đến đất đai ở các địa phương cũng là một loại mâu thuẫn, xung đột đáng chú ý. Một loại mâu thuẫn xung đột xã hội nữa đăng lưu ý là xung đột, mẫu thuẫn liên quan đến lợi dụng tự do tín ngưỡng, tôn giáo và mâu thuẫn, xung đột trong cộng đồng dân cư liên quan đến các vấn đề xã hội của địa phương như vỡ hụi họ.

Cùng với chính sách an sinh xã hội, giảm nghèo của cả nước ngày càng nhiều địa phương có các chính sách an sinh xã hội, giảm nghèo riêng mang tính đột phá. Mặc dù vậy, số lượng các chính cách mang tính đột phá và có hiệu qua ở các địa phương không nhiều. Trong khi đó, nhiều chính sách thì mạnh mún, chồng chéo, thiếu thống nhất, mức đầu tư thấp. Thậm chí, có chính sách ban hành vài năm mà chưa có cơ chế, chưa có tiền để làm. Vì thế, nên có chính sách đặt thu đảm bảo dù mạnh về nguồn lực, xuất phát từ thực tế địa phương, tăng cơ chế cho địa phương, trung ương không can thiệp sâu .

Thực tế hiện nay cho thấy, phân cực giàu nghèo thể hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau, giữa nhóm giàu với nhóm nghèo, nhất là nhóm giàu nhất với nhóm nghèo nhất, giữa các nhóm dân tộc (người Kinh so với các dân tộc thiểu số khác), giữa khu vực nông thôn với thành thị, giữa các vùng, miền, giữa các tỉnh, thành phố trong một vùng hoặc trên phạm vi toàn quốc. Thêm nữa, sau khi Việt Nam áp dụng chuẩn nghèo đa chiều, tình trạng phân cực giàu nghèo được thể hiện trên nhiều chiều cạnh khác ngoài chiều cạnh kinh tế. Ví dụ ngoài mức quy định về thu nhập, cần xem xét mức độ thiếu hụt tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản (5 dịch vụ): y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch và vệ sinh; thông tin: 10 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản tiếp cận các dịch vụ y tế bảo hiểm y tế, trình độ giáo dục của người lớn. tình trạng đi học của trẻ em chất lượng nhà ở, diện tích nhà ở bình quân đầu người, nguồn nước sinh hoạt, hố xí nhà tiêu hợp vệ sinh, sử dụng dịch vụ viễn thông, tài sản phục vụ tiếp cận thông tin. Như vậy, liên quan đến phân cực giàu nghèo, bất bình đẳng phân tầng xã hội, sau khi Việt Nam áp dụng chuẩn nghèo đa chiều, trạng thái phân cực giàu nghèo, bất bình đẳng được thể hiện trên nhiều chiều cạnh khác ngoài chiều cạnh kinh tế. Trên thực tế, công tác xóa đói, giảm nghèo cho đến nay vẫn là Nhà nước đảm nhiệm vai trò chính, từ nguồn lực đến quá trình tổ chức thực hiện. Trong khi đó, để lĩnh vực giảm nghèo hiệu quả hơn thì cơ chế phối hợp nữa Nhà nước với các tổ chức xã hội, doan nghiệp, cộng đồng và các cá nhân là thực sự cần thiết nhằm gia tăng nguồn lực phục vụ hoạt động giảm nghèo đa dạng hóa những chiến lược giảm nghèo phù hợp từng bối cảnh cụ thể.

Việc tham gia bảo hiểm tự nguyện ở nhiều địa phương rất hạn chế. Liên quan đến vấn đề này kết quả khảo sát ở 7 tỉnh, thành phố Sơn La, Hà Nội, Quảng Trị, Đắk Lắk, Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Sóc Trăng cho thấy có thể có những lý do khác nhau dẫn đến những cá nhân cụ thể không tham gia bảo hiểm tự nguyện, chẳng hạn như: không thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, chế độ hưởng thấp, không hài lòng về chế độ chi trả, thủ tục đăng ký phức tạp, thậm chí không tin tưởng cơ quan bảo hiểm xã hội hay không biết nơi đăng ký đóng bảo hiểm xã hội. Thêm nữa, ở một số địa phương, nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa trốn tránh việc đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động. Với vấn đề đặt ra trên thực tế như vậy, một trong những cơ chế quan trọng để gia tăng diện bao phủ bảo hiểm xã hội là xây dựng cơ chế phối hợp tốt hơn giữa Nhà. nước với các tổ chức xã hội, doanh nghiệp, cộng đồng và các cá nhân trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội. Thêm nữa, vai trò của các tổ chức xã hội, doanh nghiệp, cộng đồng và các câu nhân cần được phát huy.

Đối với bảo hiểm y tế, trên thực tế việc khám, chữa bệnh bằng thẻ bảo hiểm y tế đã có nhiều thuận lợi. Tuy nhiên, nhiều hộ gia đình không có điều kiện kinh tế để mua bảo hiểm y tế tự nguyện, nhất là với quy định mua cả hộ gia đình (ở một số địa phương, bảo hiểm y tế tự nguyện đã được bán cho từng cá nhân). Thêm nữa, nhiều người không mua còn là do tâm lý không đau ốm nên không mua. Việc thanh quyết toán khám, chữa bệnh bằng thẻ bảo hiểm y tế giữa các cơ sở khám chữa bệnh và bên bảo hiểm thường xuyên có sự khác biệt quan điểm.

Bên cạnh đó, ở nhiều địa phương, bảo trợ xã hội được thực hiện tốt trên nhiều phương diện. Trên thực tế có những địa phương công tác bảo trợ xã hội đã được cán bộ cơ sở thực hiện tốt và sáng tạo, phù hợp thực tế, Tuy nhiên, điều cần lưu ý là chế độ đối với các đối tượng bảo trợ xã hội chỉ hỗ trợ được một phần cuộc sống chứ không đáp ứng được nhu cầu cuộc sống của họ. Thêm nữa, kết quả khảo sát cho thấy sự hỗ trợ từ các cá nhân, tổ chức và đoàn thể xã hội đối với người dân rất quan trọng. Hầu hết người dân đánh giá cao vai trò của nhiều tổ chức khác nhau trong việc tham gia hỗ trợ. Như vậy, điểm quan trọng ở đây là việc đảm bảo an sinh xã hội cần dựa vào cơ chế khai thác sức mạnh của thị trường và phát huy vai trò của Nhà nước, doanh nghiệp, các tổ chức xã hội. Việc triển khai hệ thống an sinh xã hội cần dựa trên sự cạnh tranh, xã hội hóa, sự tham gia của tư nhân bên cạnh vai trò và nguồn lực của Nhà nước.

Một điểm đáng quan tâm nữa là việc chậm trễ trong triển khai chính sách. Vì thế việc phân bổ vốn chậm và ảnh hưởng tới thực hiện chính sách. Cũng vì thế, nhiều chính sách khi triển khai đã không phù hợp với thực tiễn ở nhiều địa phương. Từ đó dẫn tới việc giảm hiệu qua thực thi của chính sách. Trong khi đó, cơ sở của việc phân cấp, trao quyền, minh bạch, nâng cao trách nhiệm giải trình trong quá trình thực hiện giảm nghèo chưa được chú trọng. Tuy nhiên, điểm đáng lưu ý ở đây là việc bố trí nguồn vốn kịp thời đi liền với việc để cao sự minh bạch, trách nhiệm giải trình, nhất quán trong thực hiện chính sách thì mới đảm bảo hiệu quả của việc thực hiện chính sách.

3. Định hướng chính sách

3.1 Nâng cao chất lượng thể chế

Từ những vấn đề đặt ra trong thực tiễn đã được để cập đến, trên bình diện thể chế và quản lý phát triển xã hội. những đổi mới cần được tiếp tục thực hiện nhằm giải quyết tốt hơn các vấn đề xã hội, nâng cao hiệu quả quản lý xã hội, cụ thể như sau: Khi bàn đến thể chế, ba đặc điểm cơ bản cần được đề cập đến là: Thể chế được tạo nên bởi con người; Thể chế điều chỉnh giới hạn hành vi con người; Thể chế tạo ra động cơ, động lực cho con người.

Một ví dụ về sự khác biệt về thể chế tạo nên sự khác biệt về kinh tế ở các nước trên thế giới là sự khác nhau về thể chế giữa Hàn Quốc và Triều Tiên đã mang lại những sự khác biệt về kinh tế và xã hội giữa hai quốc gia này. Mặt khác, để có thể phát triển nhanh và bền vững thì các quốc gia bắt buổi phải đổi mới thế chế và quản lý xã hội. Tuy nhiên, thực tế đối mới thể chế của nhiều quốc gia trên thế mang đến sự thành công. Trong khi đó, đổi mới thể chế ở nhiều quốc gia lại tạo ra hệ quả không như mong muốn.

 Trên cơ sở phân tích một số trường hợp cụ thể, các nước cụ thể, trên thế mới, một số bài học được đưa ra đó là:

Đầu tiên, có thể nói đổi mới hay cải cách thể chế bắt buộc phải diễn ra trên diện rộng, nếu chỉ diễn ra riêng lẻ, với những cấu phần nhỏ lẻ thì chỉ có thể tạo ra những tác động, hiệu quả nhỏ. Bên cạnh đó, bài học có thể đề cập đến ở đây từ nhiều quốc gia trên thế giới là đổi mới phải mang tính toàn diện, tổng thể và đổi mới phải đồng bộ, đổi mới cả về thể chế kinh tế lẫn về mặt chính trị để tạo nên sự cân bằng, hài hòa về mặt thể chế. Từ đó, việc đổi mới thể chế mới mang lại hiệu quả trên thực tế và trên phạm vi rộng.

Qua hơn 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới, nước ta đã có những bước tiến đáng kể đặc biệt là về phát triển kinh tế thị trường trong giai đoạn mới. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã chỉ ra rằng: “Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách, tiếp tục được hoàn thiện. Vai trò, hiệu quả, mắc cạnh tranh của các chủ thể kinh tế, các loại hình doanh nghiệp trong nên kinh tế được nâng lên. Môi trường đầu tư và kinh doanh được cải thiện, bình đẳng và thông thoáng hơn. Về thể chế chính trị, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã chỉ ra rằng: “Đổi mới chính trị chưa đồng bộ với đổi mới kinh tế, năng lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị chưa ngang tầm nhiệm vụ”. Như vậy, đổi mới thể chế chính trị chưa cân bằng với đổi mới thể chế kinh tế. Từ những bài học của nhiều quốc gia trên thế giới, vấn đề quan trọng đặt ra là cần tiếp tục đổi mới thể chế chính trị để tạo nên sự cân bằng trong đối mới thể chế ở Việt Nam. Đó là cơ sở quan trọng cho quản lý phát triển xã hội, mang lại sự phát triển nhanh và bền vững cho Việt Nam.

Vấn đề đặt ra là những điểm nào cần chủ trọng trong đổi mới thể chế chính trị ở Việt Nam nhằm góp phần quản lý phát triển xã hội. Trên thực tế, các nước có nền kinh tế phát triển ổn định, bền vững thì thường tồn tại ở nhiều hình thái kinh tế, chính trị khác nhau. Như vậy, có thể thấy rằng, sự thành công, phát triển kinh tế không phụ thuộc vào hình thái kinh tế chính trị mà tầm quan trọng nằm ở sự điều hành, quản trị xã hội của quốc gia đó. Nói cách khác, các quốc gia thành công có thể không cùng kiểu/loại thể chế.

Nhưng, thành công của các quốc gia lại phụ thuộc vào chất nh lượng của thể chế. Vì vậy, đổi mới thể chế chính trị ở Việt Nam góp phần quản lý phát triển xã hội phải chú trọng đến nâng cao chút lượng của thể chế. Việc nâng cao chất lượng thể chế nên tập trung vào các điểm như:

Trước tiên, cần quy định rõ về trách nhiệm giải trình của cơ quan Nhà nước trước công dân. Như vậy, chất lượng hoạt động của các cơ quan nhà nước cần phải được nâng cao. Thêm nữa, trách nhiệm giải trình của thể chế còn thể hiện qua việc thiếu lập hệ thống các tiêu chí để đo lường sự thi hành nhiệm vụ của những người làm việc trong các cơ quan nhà nước và cơ chế để đảm bảo những tiêu chí đó được thực hiện. Ngoài ra, trách nhiệm giải trình của thể chế còn phản ảnh cơ chế đánh giá sự thực thi nhiệm vụ của thiết chế

Hai là minh bạch (Transparency). Minh bạch đề cập đến sự sẵn có thông tin dành cho công chúng và sự rõ ràng của các quy định, quyết định của các cơ quan nhà nước. Minh bạch giúp giảm bớt sự thiếu chắc chắn và tham nhũng của những người làm việc trong hệ thống các cơ quan nhà nước.

Cuối cùng là đảm bảo tính thống nhất áp dụng chính sách pháp luật. Điều này được phản ánh qua sự đầy đủ của luật, quy định, chính sách và sự công bằng cũng như nhất quán trong việc áp dụng các luật, quy định, chính sách

Những yếu tố trên sẽ làm căn cứ để nắm bắt trước được những phương thức hoạt động cũng như quyết định và kết quả, hệ quả, tính hiệu quả của các hành động, quyết định của cơ quan nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước. Đây là những điểm trọng yếu đối với việc đổi mới chất lượng thể chế ở Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả của thể chế trong quản lý phát triển xã hội đảm bảo đất nước phát triển nhanh và bền vững.

3.2 Chuyển từ quản lý phát triển xã hội sang quản trị phát triển xã hội.

Ở thời kỳ trước đây, Việt Nam thực hiện mô hình kinh tế tập trung bao cấp và thực hiện quản lý xã hội dựa trên nội tại của mô hình này. Nhà nước nắm từ quyền sở hữu tư liệu sản xuất, quyền phân phối kết quả sản xuất đến quyền định đoạt cơ hội phát triển của mọi thành viên trong xã hội, với hy vọng đem lại một xã hội công bằng, bình đẳng, trật tự kỷ cương, xoa bỏ mọi áp bức bất công. Nhưng thực tiễn đã xác nhận sự bất cập của mô hình đó, trước hết ở chỗ nó cận trở sự tăng trưởng kinh tế, Nhà nước không có đủ nguồn lực kinh tế để giải quyết các mục tiêu xã hội. Hạn chế đó đã thúc bạch Đảng phải đổi mới quan niệm phát triển xã hội và quản lý xã hội gắn với thể chế kinh tế thị trưởng. Thực tiến hơn 30 năm đổi mới đã xác nhận tính đúng dẫn trong quyết định đối mới của Đảng và nhờ đó giải quyết thành công nhiều mục tiêu xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh một thành công thì thực tiễn quản lý phát triển xã hội trong thời gian qua cũng đặt ra những tình huống mới mà nếu không kịp thời xử lý sẽ dẫn đến những hệ lụy khó lường.

Từ những phân tích trên, vấn đề đặt ra ở đây là cần thay đổi tư duy nhận thức là chuyển từ cơ chế mang tính quản lý phát triển xã hội sang cơ chế quản trị xã hội nhằm giải quyết tốt nhất các vấn đề của xã hội, đảm bảo an sinh xã hội để tiếp tục phát triển đất nước một cách nhanh chóng, bền vững. 

Khái niệm quản trị được dùng để chỉ sự hợp tác phối hợp của nhiều hình thức tương tác công - tư khác nhau. Có thể nói quản trị là một quá trình kết hợp nhiều chủ thể khác nhau dưới hình thức quản lý mang tính mạng lưới. Mặt khác, quản trị thường được đề cập trong những bối cảnh mà ở đó Nhà nước có thể không giữ vị trí đặc biệt hoặc vị trí chi phối. Đối với hoạt động quản trị, hoạt động này chú trọng tới việc chuyển đổi nhấn mạnh tới việc hạn chế quyền lực truyền thống của Chính phủ theo hai hướng một là nâng cao lên cho các thể chế chủ thể mang tinh khu vực hay vùng, hai là chuyển giao một phần cho các chủ thể như doanh nghiệp, cộng đồng và người dân. Một cách khai quát thì tổng thể của quản trị các cá nhân là những đối tác hợp tác bình đẳng để điều chỉnh và quan lý các vấn đề xã hội (Social affairs).

Trong quá trình quản trị, quyền lực của chính phủ, thị trường và xã hội cùng tồn tại. Tuy nhiên, quyền lực của chính phủ, thị trường và xã hội không cần bằng. Vì thế, mô hình quản trị xã hội có thể là: Một là, lấy thị trường là trung tâm, theo đó, trọng tâm là cơ chế cạnh tranh, việc quản lý doanh nghiệp và công nghệ; Hai là, lấy Nhà nước là trung tâm với vai trò quan trọng của Nhà nước trong mối tương tác với các tổ chức công; Ba là, lấy xã hội là trung tâm, theo đó nhấn mạnh sự giao thoa giữ các tổ chức mang tính công và xã hội mà kim chỉ nam là quan điểm là việc ra quyết định bắt nguồn từ ý kiến ở cơ sở và ý kiến đó phản ánh ý kiến của quần chúng nhân dân.

Ở khía cạnh khác, quản lý phát triển xã hội mang mục tiêu nhằm bảo đảm các chương trình, chính sách xã hội được giải quyết phù hợp, hiệu quả, có giá trị, trên cơ sở đó xã hội phát triển bền vững, công bằng. Quản lý trong lĩnh vực quản lý phát triển xã hội bao gồm các quá trình phần tích xác định vấn đề, lên kế hoạch, thiết kế và lập chương trình cũng như các quá trình chính trị và quan hệ đã đối thoại, huy động, thảo luận, xây dựng sự đồng thuận và ra quyết định. Việc quản lý phát triển xã hội không chỉ ở việc quản lý hoạt động thực hiện chến lược hành động, quy trình xây dựng các thông tin, dữ liệu liên quan, tiếp nhận thông tin, phản hồi, điều chỉnh chúng mà quản lý việc  này còn bao gồm việc tiếp cận tổng hòa các quá trình gắn với việc tạo lập các giá trị cần thiết

Có thể hiểu rằng, quản lý phát triển xã hội chính là quá trình thực hiện các chính sách xã hội và các chương trình nhằm giải quyết các vấn đề xã hội cơ bản một cách phù hợp, hiệu quả, hiệu lực và có giá trị, trên cơ sở đó thúc đẩy phát triển xã hội bền vững, công bằng. Trên thực tế, quản lý phát triển xã hội là chuỗi hoạt động bao gồm việc xác định phân tích vấn đề xã hội cần giải quyết, lên kế hoạch, thiết kế và lập chương trình, việc huy động nguồn lực, thực hiện đối thoại, tiếp tục thảo luận, xây dựng sự đồng thuận và đưa ra quyết định, tiếp theo là việc triển khai các chiến lược và thực hiện các hành động theo quy trình. Bên cạnh đó, còn là hoạt động xây dựng thông tin liên quan phù hợp, thực hiện việc tiếp nhận phản hồi, tiếp tục điều chỉnh và thiết kế lại chiến lược thực hiện chính sách và chương trình nếu cần thiết. Như vậy, có thể thấy, hoạt động quản lý phát triển xã hội coi trọng việc giải quyết một cách phù hợp hiệu quả, hiệu lực và có giá trị các vấn đề xã hội, trên cơ sở đó thúc đẩy phát triển xã hội bền vững, công bằng.

Mặt khác, quản trị xã hội là quá trình chính phủ, các tổ chức xã hội, doanh nghiệp, cộng đồng và các cá nhân là nhưng đối tác hợp tác bình đẳng để điều chỉnh và quản lý các vấn đề xã hội. Có thể thấy, quản trị xã hội hay còn gọi là quản trị phát triển xã hội là một bước phát triển so với quản lý phát triển xã hội. Từ việc phân tích, trình bày các quan điểm về quản trị và quản lý phát triển xã hội ở trên có thể thấy: Quản lý phát triển xã hội là chu trình mà ở đó các cơ quan, tổ chức công thực hiện  các chương trình, chính sách để giải quyết các vấn đề xã hội một cách phù hợp, hiệu quả, hiệu lực và có giá trị từ đó thúc đẩy phát triển xã hội bền vững, công bằng. Quản trị xã hội là quá trình phối hợp giữa các chủ thể như chính phủ, các tổ chức xã hội, doanh nghiệp, cộng đồng và các cá nhân nhằm thực hiện việc điều chỉnh và quản lý các vấn đề xã hội một cách phù hợp, hiệu quả, hiệu lực và có giá trị để thúc đẩy phát triển xã hội công bằng, bền vững.

Dưới góc nhìn quản lý phát triển xã hội và quản trị phát triển xã hội thì thực tiễn ở Việt Nam chủ yếu chỉ dừng lại ở quản lý phát triển xã hội chứ chưa rõ nét quản trị phát triển xã hội. Cụ thể là vai trò của Đảng, Nhà nước và các tổ chức đoàn thể trong quản lý phát triển xã hội được thể hiện trên nhiều phương diện. Trước hết, các chủ trương, đường lối, chính sách, luật pháp luôn thể hiện rõ vai trò của Đảng và Nhà nước cùng các tổ chức đoàn thể trong quản lý xã hội trên các phương diện giải quyết bất  bình đẳng, phân cực giàu nghèo, phân tầng xã hội mới quyết mâu thuẫn xung đột xã hội, giảm thiểu rủi ro, đảm bảo an ninh con người, an sinh xã hội. Vai trò của Đảng, chính quyền và đoàn thể thể hiện rõ thông qua việc thực hiện chủ trương, chính sách ở địa phương đặc biệt đối với việc quản lý phát triển xã hội. Tuy nhiên, hiệu quả của việc giải quyết các vấn đề xã hội mới chỉ dừng lại ở một chừng mực nhất định. Thêm vào đó, vẫn còn nhiều hạn chế trong việc thực hiện hoạt động hợp tác giữa chính quyền, các tổ chức xã hội, doanh nghiệp cộng đồng và các cá nhân nhằm điều chỉnh và quản lý các vấn đề xã hội một cách phù hợp, hiệu quả, hiệu lực và có giá trị để thúc đẩy phát triển xã hội bền vững, công bằng. Nói cách khác, vấn đề đặt ra là phải định hưởng chuyển từ quản lý phát triển xã hội sang quản trị phát triển xã hội để giải quyết các vấn đề xã hội một cách phù hợp, hiệu quả, hiệu lực và có giá trị nhằm thúc đẩy phát triển xã hội bên vững, công bằng.

4. Đề xuất mô hình quản trị phát triển xã hội 

Mô hình quản trị xã hội được đề xuất ở đây xây dựng dựa trên dựa trên ba trụ cột: Nhà nước - thị trường - các tổ chức xã hội và cá nhân 

Hiện nay, điều cốt lõi là cần chuyển từ quản lý phát triển xã hội sang quản trị phát triển xã hội - đó là quá trình chính phủ, các tổ chức xã hội, doanh nghiệp, các cá nhân là những đối tác hợp tác bình đẳng để điều chỉnh và quản lý các vấn đề xã hội, các tác giả cho rằng trong thời gian tới quản trị phát triển xã hội ở Việt Nam nên là kiểu quản trị dựa trên mối quan hệ cầu ba trụ cột, hay ba hợp phần. Nhà nước - thị trường của tổ chức xã hội và cá nhân. Chúng ta có thể sơ đồ hóa mô hình này như sau (xem trên hình).

 

Theo đó, trong quản lý phát triển xã hội mô hình Nhà nước - thị trường - các tổ chức xã hội và cá nhân sẽ giúp cho việc xây dựng các chính sách xã hội và điều chỉnh các chính sách xã hội một cách hiệu quả nhất nhằm giải quyết các vấn đề xã hội đặt ra. Thực tế là các vấn đề xã hội nảy sinh, biến đổi, phát triển và chuyển hóa bắt nguồn từ thực tiễn cuộc sống. Theo đó, việc xây dựng các chính sách xã hội và thực hiện việc điều chỉnh các chính sách xã hội phải bắt đầu từ các vấn đề xã hội trong thực tiễn. Mặt khác, quá trình xác định các vấn đề xã hội cần giải quyết, đề xuất các chính sách để giải quyết các vấn đề xã hội và thực hiện việc điều chỉnh các chính sách xã hội cần xem xét trên nền tảng cơ chế phối hợp giữa Nhà nước - thị trường - các tổ chức xã hội và cá nhân. Vì vậy, mô hình quản trị phát triển xã hội dựa trên cơ chế phối hợp ba thành phần này là thực sự cần thiết.

Mặt khác, mô hình quản trị phát triển dựa trên ba trụ cột Nhà nước - thị trường - các tổ chức xã hội và cá nhân tránh được kiểu quản lý phát triển xã hội đã có từ trước đến nay, theo đó Nhà nước gần như giữ vai trò quyết định trong việc cùng lập các nguồn lực để giải quyết các vấn đề xã hội. Ở đây, Nguồn lực con người, nguồn lực kinh tế cũng như cơ sở vật chất cho việc giải quyết các vấn đề xã hội chủ yếu do Nhà nước cung cấp. Nguồn lực chủ yếu để giải quyết các vấn đề xã hội chủ yếu đến từ Nhà nước nên thực tế cho thấy nguồn lực này còn nhiều hạn chế để giải quyết vấn đề một cách thỏa đáng. Do đó, giải pháp cho vấn đề này là thực hiện  mô hình Nhà nước - thị trường của tổ chức xã hội và cá nhân, như vậy nguồn lực để giải quyết các vấn đề xã hội không chỉ do Nhà nước thực hiện mà còn do thị trường, ở đây thị trường bao gồm các doanh nghiệp sẽ tham gia vào quá trình cung cấp các nguồn lực qua những cơ chế khác nhau và dựa trên những quy luật tất nhiên của thị trường, đây cũng là một nguồn lực do các cá nhân và các tổ chức xã hội thực hiện việc cung cấp. Như vậy, có thể thấy rằng, với mô hình này nhiều tổ chức xã hội khác nhau và các cá nhân cùng tham gia cung cấp các nguồn lực tài chính, vật chất, nhân lực cho việc giải quyết các vấn đề xã hội. Mặt khác, mô hình này cũng tránh được việc tiếp cận cực đoan ở thái cực khác là Nhà nước cắt đi phần lớn nguồn lực cho việc giải quyết các vấn đề xã hội và để cho thị trường, tổ chức xã hội và cá nhân tự vận động các nguồn lực xã hội để giải quyết các vấn đề xã hội. Nếu đi theo định hưởng này sẽ ảnh hưởng đến tính nhân văn, nhân bản, bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa.

Mô hình Nhà nước thị trường - các tổ chức x hội và cá nhân trong quản lý phát triển xã hội còn giúp cho việc tổ chức thực hiện các chính sách để giải quyết các vấn đề xã hội một cách hiệu quả. Thực tiễn đặt ra là trong quá trình tổ chức thực hiện các chính sách xã hội, nếu chỉ Nhà nước đứng ra thực hiện hết những khâu, công đoạn, công việc trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách xã hội để các vấn đề xã hội thì việc khả năng lớn các nguồn lực tài chính, cơ sở vật chất dành cho việc giải quyết các vấn đề xã hội sẽ bị thất thoát. Bên cạnh đó, đây cũng là căn nguyên của việc lợi dụng lợi thế công việc làm trái quy định để trục lợi các nguồn lực dành cho việc giải quyết các vấn đề xã hội cũng có khả năng cao xảy ra. Trên thực tế vấn đề này đã từng xảy ra. Nguyên nhân của thực tiễn này là thiếu sự giám sát hiệu quả quá trình các cơ quan nhà nước tổ chức thực hiện chính sách xã quan hội. Do đó, mô hình Nhà nước - thị trường - các tổ chức xã hội và cá nhân đối với hoạt động quản lý phát triển xã hội thì các tổ chức xã hội và các cá nhân khi tham gia vào hoạt động giải quyết các vấn đề xã hội dự trên quy luật thị trường sẽ thực hiện việc điều chỉnh, giám sát hiệu quả hơn quá trình tổ chức thực hiện các chính sách xã hội. Điều này sẽ giúp cho việc tránh được sự trục lợi, lãng phí, thất thoát, tham nhũng các nguồn lực dành cho việc giải quyết các vấn đề xã hội.

Vấn đề đặt ra ở đây là với mô hình này Nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong việc xây dựng chính sách, cung cấp nguồn lực, tổ chức thực hiện chính sách xã hội; hay quá trình giải quyết các vấn đề xã hội chủ yếu dựa trên cơ chế thị trường; hay là chủ yếu để cá nhân và các tổ chức xã hội tự giải quyết các vấn đề xã hội. Ở đây có thể thấy rằng, cơ chế của mối quan hệ ba bên hay ba trụ cột này nên là cơ chế linh hoạt, theo đó Nhà nước phải giữ vai trò định hướng đối với việc giải quyết các vấn đề xã hội để đảm bảo, mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, tuy từng vấn đề xã hội cụ thể mà nên để cho quy luật thị trường thực hiện chức năng của mình, hay dựa trên vai trò chủ thể của các tổ chức xã hội và cá nhân hay dựa trên vai trò chủ đạo của Nhà nước, hoặc là phối hợp bình đẳng giữa các bên.

Đăng ký nhận email

Đăng ký email để có thể có được những cập nhật mới nhất về tải liệu được đăng tải trên website

Tập san đã phát hành