Thứ sáu, 07 Tháng 7 2023 03:09

TÓM LƯỢC KHÁI QUÁT NGUỒN GỐC LỊCH SỬ VÀ ĐIỀU KIỆN BAN ĐẦU ĐỂ BẮT KỊP NỀN KINH TẾ Ở HÀN QUỐC

1. Giới thiệu

Trong phát triển kinh tế, tầm quan trọng của điều kiện ban đầu đối với sự lựa chọn chính sách luôn là vấn đề được đặt ra. Liên quan đến sự tăng trưởng nhanh chóng của “những con hổ” Đông Á, các ý kiến thảo luận cho rằng liệu thành công của các nền kinh tế này có phải là do một chiến lược thúc đẩy xuất khẩu (hướng ngoại) tốt hơn so với chiến lược thay thế nhập khẩu (hướng nội) được các nền kinh tế Mỹ Latinh áp dụng hay không, hay nói cách khác, do những điều kiện ban đầu tốt hơn ở Đông Á như: năng lực và quyền tự chủ của nhà nước tốt hơn, sự hình thành vốn con người cao hơn và cơ cấu giai cấp bình đẳng hơn... Có quan điểm nghiêng về các điều kiện ban đầu tốt hơn. Điều này là do quan điểm định hướng lựa chọn chính sách sẽ không thể giải thích tại sao chiến lược định hướng xuất khẩu lại được lựa chọn và hoạt động tốt ở các nước Đông Á (Lee và Lee 1992). Trong số các điều kiện ban đầu, năng lực nhà nước và quyền tự chủ là một trong những điều kiện quan trọng nhất, và đây cũng là chủ đề quan trọng của bài viết này. 

Vì vậy, trước hết, cần xác định các điều kiện chung ban đầu gồm truyền thống của nhà nước Nho giáo bảo thủ ở Đông Á. Các quốc gia Đông Á là các quốc gia của Nho giáo với đầy đủ các tầng lớp tỉnh hoa được kính trọng, những người độc lập khỏi các lợi ích đảng phái cả trong và ngoài nước (Lee và Lee, 1992). Cần phân tích bản chất hoạt động tích cực của nhà nước ở Đông Á, đặc biệt là ở Hàn Quốc. Mặc dù sự can thiệp của nhà nước được coi là hợp pháp đối với thị trường, nhưng vấn đề quan trọng là nhà nước nên can thiệp như thế nào. Đây là một vấn đề nan giải đã được chứng minh bằng rất nhiều trường hợp thất bại của nhà nước trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa cũng như trong nền kinh tế kế hoạch hóa xã hội chủ nghĩa. Xét về khía cạnh này, với tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh chóng đạt được ở Hàn Quốc trong những năm 1960 và 1970, sự can thiệp của nhà nước ở một mức độ nào đó là rất đáng chú ý. Vì vậy, cần phân tích bản chất cơ bản của hoạt động tích cực của nhà nước ở Hàn Quốc. Chủ nghĩa tư bản Hàn Quốc phát triển với một số yếu tố đặc biệt, bao gồm khu vực ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước hoặc do nhà nước kiểm soát, các doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả trong giai đoạn đầu, hoặc nhà nước trực tiếp can thiệp vào hoạt động của doanh nghiệp tư nhân. Ở một góc độ nhất định, Hàn Quốc được coi là chuyển từ nền kinh tế tư bản chủ nghĩa thuần túy sang nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung xã hội chủ nghĩa. 

Bên cạnh đó, cần làm rõ bản chất hoạt động tích cực của nhà nước ở Hàn Quốc, trước tiên cần đưa ra mô hình nhà nước như một thể chế định hướng mục tiêu hoạt động trong các điều kiện lịch sử, kinh tế, chính trị và điều kiện tự nhiên nhất định của một quốc gia, nền kinh tế. Rõ ràng, các yếu tố này có mối quan hệ với nhau và ảnh hưởng lẫn nhau. Hiệu suất của bất kỳ một thể chế nào, bao gồm cả thể chế nhà nước, về cơ bản là một sản phẩm của lịch sử, phụ thuộc vào nhiều số yếu tố trong đó có bối cảnh văn hóa. Phạm vi hoạt động của nhà nước phần lớn được xác định bởi những mong đợi của người dân, được định hình bởi văn hóa và truyền thống của những giai cấp thống trị và giai cấp bị trị. Thị trường cũng hoạt động trong một bối cảnh cụ thể với các thể chế chính trị và văn hóa hiện có.

Có quan điểm cho rằng, về bản chất mô hình của các quốc gia, mô hình cứng rắn và mô hình mềm mại, mô hình tối thiểu và mô hình tối đa. Sau đó, đến năng lực và quyền tự trị của các nhà nước nho giáo bảo thủ sẽ chuyển sang vai trò lịch sử của các quốc gia ở Đông Á, khả năng hấp thụ tinh hoa, quyền tự chủ bên trong và bên ngoài của các quốc gia này.

Cũng có quan điểm cho rằng, bản chất các hoạt động tích cực của nhà nước dưới 03 khía cạnh như bản chất của sự kiểm soát của nhà nước; sự kết hợp giữa các mục tiêu của khu vực công và khu vực tư nhân, và cơ chế kỷ luật. 

Như vậy, bằng cách mô tả đặc điểm của mô hình bắt kịp ở Đông Á, là mô hình dựa trên hoạt động của thị trường và quyền sở hữu tư nhân của các doanh nghiệp (ngoại trừ sở hữu nhà nước đối với các ngân hàng, một số doanh nghiệp độc quyền tự nhiên hoặc một số ngành công nghiệp chiến lược) nhưng được điều hành bởi một mạng lưới các công chức nhà nước và các doanh nhân tài năng “đầy khát vọng” với định hướng quốc tế mạnh mẽ.

2. Phản ánh của lịch sử về mức độ hoạt động tích cực của nhà nước ở Đông Á

Nói rộng ra, có ba cách khiến con người bỏ qua sự ích kỷ và chủ nghĩa cá nhân để hợp tác với nhau trong xã hội: ép buộc dựa trên quyền lực, thuyết phục dựa trên niềm tin chung, và trao đổi dựa trên lợi ích cá nhân (Lindblom, 1977). Chính trị phần lớn liên quan đến các quan hệ quyền lực, sử dụng hình thức giữa ép buộc và tự nguyện (tùy thuộc vào mức độ hợp pháp) để bảo đảm sự tuân thủ; ngược lại, về cơ bản, các hoạt động kinh tế được thúc đẩy bởi các quan hệ trao đổi, được cho là tự nguyện trong phạm vi việc trao đổi thỏa mãn lợi ích của các chủ thể tham gia giao dịch.

Các quốc gia có thể sử dụng sự kết hợp đa dạng giữa các quan hệ quyền lực và trao đổi để điều chỉnh các hoạt động chính trị và kinh tế trong các bối cảnh cụ thể khác nhau. Nhà nước không can thiệp hoặc can thiệp hạn chế vào nền kinh tế chỉ để điều chỉnh một số trường hợp thất bại của thị trường với phạm vi hẹp, như: cung cấp hàng hóa, dịch vụ công. Do đó, các hoạt động kinh tế sẽ độc lập với cơ quan chính trị. Ở các nhà nước theo mô hình tối đa, quan hệ quyền lực không chỉ chiếm ưu thế trong thể chế chính trị mà còn trong nền kinh tế, và do đó thay thế các quan hệ trao đổi tự nguyện dựa trên lợi ích cá nhân. Ở mô hình xã hội chủ nghĩa, quyền chính trị của nhà nước trong nền kinh tế được củng cố bằng quyền sở hữu của nhà nước về tư liệu sản xuất. Giữa mô hình tối thiểu, không can thiệp và mô hình tối đa, có nhiều dạng mô hình trung bình khác nhau. 

Nói cách khác, bất kỳ nơi nào không đủ tiêu chuẩn cho hai loại mô hình cực đoan đều được coi là mô hình trung bình. Sự can thiệp của một nhà nước theo mô hình trung bình đã vượt ra ngoài việc điều chỉnh của thị trường hoặc chỉ đơn gian là Nhà nước đặt ra các quy tắc của luật chơi; đồng thời, một nhà nước theo mô hình trung bình không cho phép kiểm soát hoàn toàn nền kinh tế thông qua quyền lực chính trị. Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan có thể được coi là các nền kinh tế tư bản theo mô hình trung bình. Có quan điểm cho rằng, định nghĩa sơ bộ về mô hình trung bình được sử dụng ở giai đoạn này. Việc xác định chính xác hơn về quốc gia hoạt động theo mô hình trung bình có thể dẫn đến việc bỏ sót các yếu tố tác động chính. Cuối cùng, các nghiên cứu về các nhà nước theo mô hình trung bình ở Đông Á sẽ xác định một số yếu tố quan trọng trong sự can thiệp của nhà nước ở mô hình trung bình trong các nền kinh tế này.

Bên cạnh đó, phân tích việc các quốc gia áp dụng theo mô hình cứng rắn và mềm mại cũng rất hữu ích trong nghiên cứu này. Các quốc gia theo mô hình cứng rắn thường được tự chủ trước lợi ích đảng phái của các nhóm xã hội và lợi ích nước ngoài, trong khi đó, các quốc gia theo mô hình mềm mại thì không. Nếu quyền tự chủ tách khỏi lợi ích đảng phái là định nghĩa của mô hình cứng rắn theo nghĩa thụ động, thì mô hình cứng rắn theo nghĩa tích cực hơn có thể được định nghĩa là việc các nhà lãnh đạo sẵn sàng đặt ra nghĩa vụ đối với mọi người ở mọi tầng lớp xã hội và yêu cầu thực thi nghĩa vụ một cách nghiêm ngặt, trong đó sự cưỡng chế đóng vai trò quan trọng. Ở mô hình mềm mại, như Myrdal (1968: 277) đề cập đến mức độ kỷ luật xã hội thấp ở các quốc gia Nam Á, các nhà lãnh đạo không muốn áp đặt nghĩa vụ đối với người dân. Bằng cách kết hợp các mô hình tối thiểu, trung bình và tối đa với mô hình cứng rắn hoặc mềm mại, có thể tạo ra các loại mô hình rất đa dạng. Hiệu quả tương đối của các loại hình nhà nước khác nhau có thể được đánh giá dựa trên khả năng hoàn thành các nhiệm vụ khác nhau, như: phát triển, chiến tranh, tái thiết sau chiến tranh... Đối với một nền kinh tế có mục tiêu bắt kịp tốc độ phát triển kinh tế, một mô hình cứng rắn sẽ là một yêu cầu quan trọng vì quá trình phát triển cần một nỗ lực phối hợp tốt trên toàn quốc. Các mô hình mềm mại sẽ không hiệu quả đạt được mục đích vì đặt ra ít nghĩa vụ đối với các cá nhân hoặc phải làm những việc vì lợi ích của toàn xã hội hoặc tránh các hành động phản đối lại lợi ích đó. Hơn nữa, nhà nước đang phát triển phải đủ cứng rắn để phản đối lại áp lực từ các nhóm xã hội và lợi ích đảng phái vì những liên minh này có xu hướng dẫn đến sự tê liệt về thể chế và do đó làm giảm năng lực đổi mới sáng tạo và thích ứng của xã hội (Olson 1982).

Bản chất của mô hình cứng rắn hay mềm mại của nhà nước có vai trò quan trọng, thể hiện khả năng nhà nước trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vì lợi ích hài hòa của tất cả người dân dựa trên quyền tự chủ bên trong của nhà nước đối với một tầng lớp hoặc nhóm xã hội cụ thể hoặc dựa trên quyền tự chủ bên ngoài của nhà nước đối với các lợi ích nước ngoài. 

Để đơn giản hơn, nếu mức độ hoạt động tích cực của nhà nước dao động từ mô hình tối thiểu ở bên phải đến mô hình tối đa ở bên trái, thì mô hình phát triển tối ưu phải nằm ở đâu đó giữa hai mô hình này. Với những điều kiện ban đầu, sự cân bằng tối ưu đã đạt được ở mô hình của Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan, trong khi mô hình Trung Quốc đã đi xa về phía bên trái. Lịch sử của Nhật Bản cho thấy nhà nước đã khó khăn như thế nào để tìm ra mức độ hoạt động tích cực tối ưu của nhà nước trong mô hình này.

Hàn Quốc đã có một số kinh nghiệm khác nhau trong việc tìm kiếm một cơ chế can thiệp tối ưu. Ngay sau khi giành được độc lập vào năm 1948 và trong thời kỳ hậu Chiến tranh Triều Tiên vào những năm 1950, nhà nước Hàn Quốc dưới thời Tổng thống Rhee đã mềm mại hơn và có quy mô nhỏ hơn so với nhà nước từ những năm 1960 dưới thời Tổng thống Park, một cựu quân nhân thời kỳ hiện đại. Chế độ của Tổng thống Rhee quan tâm đến việc làm thế nào để xây dựng chỗ dựa chính trị, không huy động nhân lực và vật lực để phát triển kinh tế (Lim, 1985: 48-49). Bản chất mềm mại của nhà nước cũng có thể được nhìn thấy trong vấn đề thỏa hiệp về cải cách ruộng đất. Không giống như Hàn Quốc vào những năm 1950, Đài Loan không chỉ sở hữu một đội ngũ lãnh đạo chính trị quyết liệt mà còn sở hữu một bộ máy kinh tế được điều hành, triển khai bởi các nhà cải cách chính sách (Haggard 1990: 86). Chế độ dân tộc chủ nghĩa ở Đài Loan cứng rắn hơn chế độ Rhee và đã tiến hành một cuộc cải cách ruộng đất rất toàn diện từ năm 1949 đến năm 1953. Chính quyền đã thành lập Ban Bình ổn Kinh tế (Economic Stabilization Board) vào năm 1951 và chuyển sang chính sách kinh tế tập trung hơn với kế hoạch kinh tế 4 năm đầu tiên vào năm 1953. Sự “lãng phí của Hàn Quốc” trong 10 năm của thập niên 1950 có thể là một trong các nguyên nhân liên quan đến khoảng cách về thành tích tăng trưởng giữa Hàn Quốc và Đài Loan.

Trái ngược với Hàn Quốc dưới chế độ Rhee, Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên dưới thời Kim Il-Sung đã áp dụng cách tiếp cận nhà nước theo mô hình cứng rắn tối đa. Thành tích vượt trội được thừa nhận trong những năm 1950 của Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên so với Hàn Quốc phù hợp với quan điểm rằng mô hình cứng rắn tối đa là lựa chọn tốt hơn cho nhiệm vụ huy động ban đầu và tái thiết sau chiến tranh. Kinh nghiệm của Trung Quốc cũng xác nhận quan điểm này và mô hình cứng rắn tối đa của Trung Quốc là tối ưu cho đến khoảng năm 1957 khi Trung Quốc tuyên bố hình thành con đường xã hội chủ nghĩa với kế hoạch 5 năm đầu tiên. Thời kỳ Chiêu Hòa của Nhật Bản cũng trải qua một cái gì đó gần với mô hình tối đa từ năm 1935 đến năm 1955, đó là thời kỳ Mãn Châu và Chiến tranh Thái Bình Dương, sau đó là tái thiết sau chiến tranh. Sau giai đoạn này, Nhật Bản chuyển hướng trở lại quyền bước vào thời kỳ tăng trưởng cao. Ngược lại, mô hình tối đa của Trung Quốc đã tiếp tục tồn tại cho đến rất gần đây. Lý do cho điều này là nhà nước theo mô hình tối đa kiểu Liên Xô được chọn ở Trung Quốc, không phải vì chỉ hợp lý theo kế hoạch mà còn phù hợp với quan điểm kế hoạch - tư tưởng chính trị.

Quay trở lại chủ đề ban đầu, điều kiện ban đầu ở Hàn Quốc là truyền thống của nhà nước Nho giáo bảo thủ. Trong phần tiếp theo, năng lực và quyền tự chủ của nhà nước Nho giáo bảo thủ ở Đông Á sẽ được xem xét, điều này đặt nền tảng cơ bản cho vai trò đặc biệt của nhà nước ở Hàn Quốc.

3. Năng lực và quyền tự trị của các nhà nước Nho giáo bảo thủ 

Một số yếu tố xác định năng lực và quyền tự chủ của các quốc gia ở Đông Á. Những yếu tố này bao gồm vai trò lịch sử của nhà nước, quyền tự chủ của nhà nước trước các lợi ích đảng phái trong nước và quyền tự chủ bên ngoài của nhà nước đối với các lợi ích nước ngoài.

Với tư cách là một thể chế, nhà nước và sự thống trị của nhà nước đối với xã hội từ lâu đã trở thành một phần của Đông Á, cả về trí tuệ và văn hóa. Ở Đông Á, nguồn gốc của nhà nước, bất kể được định nghĩa như thế nào, đều bắt nguồn từ thời sơ khai của các xã hội. Kể từ khi nhà Tần thiết lập một nhà nước tập trung gần 2000 năm trước, nhà nước ở Trung Quốc, cũng như ở Hàn Quốc và ở mức độ thấp hơn là Nhật Bản, đã phát triển một cấu trúc phức tạp với một hoàng đế tuyệt đối (hoặc tượng trưng) và bộ máy quan liêu, phức tạp nắm giữ không chỉ các quyền lực chính trị, mà còn cả văn hóa và kinh tế đối với xã hội. Về mặt lịch sử, các quốc gia ở Đông Á được kỳ vọng là các quốc gia phát triển về quân sự, ấn tượng về tinh thần và hiệu quả về kinh tế, và người dân Đông Á kỳ vọng đất nước sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế không chỉ để mang lại lợi ích cho người dân mà còn để xây dựng tiềm lực quân sự của quốc gia (Hofheinz và Calder, 1982).

Năng lực của các quốc gia Đông Á được xác định bởi nền văn hóa tinh hoa mạnh mẽ, dẫn đến việc nhà nước có khuynh hướng “gia trưởng” theo Nho giáo, bao gồm những tầng lớp tinh hoa được giáo dục tốt nhất. Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan đã tiếp nối truyền thống của Trung Quốc về việc tuyển dụng công chức từ những người được giáo dục tốt nhất thông qua một kỳ thi tuyển công chức cạnh tranh. Hệ thống thi cử nhà nước giúp cho bộ máy quyền lực chính trị tìm được những cá nhân tài năng và đầy tham vọng. Truyền thống như vậy cho phép sự tồn tại của một bộ máy được đào tạo bài bản mà quyền tự chủ đối với xã hội thường liên quan đến tầng lớp xã hội mà từ đó các quan chức được tuyển dụng và mối quan hệ cá nhân của các quan chức này với tầng lớp thống trị sau khi đảm nhận các vị trí chính thức. Mặc dù mở rộng cơ hội việc làm trong khu vực tư nhân trong thời kỳ hiện đại, những người trẻ tuổi có năng lực và tài năng nhất ở các quốc gia này vẫn thích trở thành quan chức Chính phủ, được lựa chọn thông qua kỳ thi công chức, và trở thành người bảo vệ lợi ích tập thể.

Một yếu tố khác đã ảnh hưởng đến vai trò của nhà nước ở Đông Á là những bài học kinh nghiệm lịch sử của các quốc gia Đông Á với các cường quốc phương Tây trong thời kỳ hiện đại. Không thể tự bảo vệ chủ quyền trước sức ép bên ngoài, các chế độ phong kiến cũ đã sụp đổ và trở thành thuộc địa hoặc một nửa thuộc địa. Khi nhận ra sự lạc hậu của đất nước và phải chịu sự xâm lược của chủ nghĩa đế quốc phương Tây, người dân Đông Á tin rằng, họ cần một nhà nước hùng mạnh có thể sử dụng sức mạnh chính trị áp đảo để giải quyết ngay lập tức các vấn đề của đất nước. Áp lực của phương Tây đối với việc Nhật Bản phải mở cửa với thế giới bên ngoài đã khiến một số thành phần của giai cấp thống trị Tokugawa nắm quyền lực nhà nước. Sau khi cuộc cách mạng thành công trong giai đoạn phục hồi Minh Trị, Nhật Bản trở thành quốc gia châu Á đầu tiên giữ vị thế bình đẳng với các cường quốc phương Tây. 

Những kinh nghiệm với các cường quốc nước ngoài đã hình thành khuynh hướng của người dân Đông Á khi cho rằng thị trường thế giới hiện tại sẽ là ủng hộ các quốc gia mạnh về kinh tế, những quốc gia có nhiều lựa chọn hơn so với những quốc gia yếu về kinh tế trong một mô hình thương mại tự do lý tưởng, các mối quan hệ quyền lực mang tính quan trọng đối với lợi thế so sánh kinh tế. Vì vậy, ngay từ đầu, các quốc gia Đông Á đã có xu hướng thể hiện một thái độ dân tộc chủ nghĩa. Ở khía cạnh cực đoan, Trung Quốc và Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên đã áp dụng đường lối tự cường và đóng cửa nền kinh tế trước bất kỳ ảnh hưởng nào của nước ngoài. Ngay cả đối với những nền kinh tế theo chiến lược phát triển hướng ngoại như Hàn Quốc và Đài Loan, tự lực hoặc độc lập kinh tế có sức hấp dẫn lớn, và định hướng hướng ngoại chỉ được chấp nhận như một phương thức để thực hiện mục tiêu tự lực.

Trên thực tế, mặc dù sự phụ thuộc kinh tế của Hàn Quốc vào thị trường thế giới đã tăng lên, nhưng Hàn Quốc vẫn cố gắng giữ được quyền tự chủ khỏi nguồn vốn nước ngoài. Trong khi nền kinh tế quốc gia ngày càng trở nên cạnh tranh trên thị trường thế giới, Hàn Quốc đã phản đối lại sự thâm nhập quá mức của các tập đoàn đa quốc gia (Multinational Corporations - MNC). Ở một mức độ nhất định, thành công này là do truyền thống văn hóa của quốc gia và chủ nghĩa dân tộc mạnh. Đối với những quốc gia khác, hai yếu tố này đã ngăn cản các nhà tư bản trong nước cấu kết với các nhóm lợi ích nước ngoài phản đối lại Chính phủ. Do đó, chính nhà nước chứ không phải tư bản nước ngoài sẽ xác định vai trò của tư bản xuyên quốc gia trong phân công lao động trong nước. Tất nhiên, chủ nghĩa dân tộc đã thúc đẩy sự trỗi dậy của Nhật Bản như một đế quốc ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương trong thời kỳ trước chiến tranh. Chủ nghĩa dân tộc Nhật Bản tiếp tục kéo dài sang thời kỳ sau chiến tranh, mặc dù với ý nghĩa kinh tế nhiều hơn. Trên thực tế, theo một quan chức của MITI, chính sách công nghiệp của Nhật Bản là sự phản ánh của chủ nghĩa dân tộc về kinh tế, trong đó chủ nghĩa dân tộc được hiểu có nghĩa là ưu tiên cho lợi ích của quốc gia riêng (Johnson 1982: 26).

Trong khi những kinh nghiệm với các cường quốc nước ngoài khiến các quốc gia Đông Á có khuynh hướng dân tộc chủ nghĩa mạnh mẽ, thì những kinh nghiệm chính trị xã hội đầy biến động đã góp phần thúc đẩy quyền tự chủ nội tại mạnh mẽ của các quốc gia. Ảnh hưởng chính trị của giai cấp thống trị ở các nước Đông Á ít hơn ở Tây Âu và điều này cho phép các quốc gia có quyền tự trị lớn hơn.

Ở Trung Quốc đại lục, cách mạng cộng sản đã lật đổ các cấu trúc giai cấp trước giải phóng. Cải cách ruộng đất đã chấm dứt ảnh hưởng chính trị của giai cấp địa chủ, vốn thường xuyên đóng vai trò bảo vệ xã hội khi nhà nước phong kiến áp dụng các chính sách bất lợi đối với lợi ích của giai cấp địa chủ. Tập thể hóa nông nghiệp đã chuyển quyền kiểm soát các nguồn lực kinh tế từ nông dân sang nhà nước, do đó chuyển nguồn lực của xã hội để tập trung vào quyền lực của nhà nước. Tương tự như vậy, việc quốc hữu hóa công nghiệp đã lấy đi quyền kiểm soát của giai cấp tư bản, những người chưa bao giờ quan tâm phát triển đối với các nguồn tài nguyên. Sự ra đời của hệ thống phân bổ vật chất thông qua kế hoạch của nhà nước đã làm cho người dân thành thị hoàn toàn phụ thuộc vào nhà nước về thu nhập. Một loạt các chiến dịch kể từ năm 1949 làm giảm uy tín xã hội và ảnh hưởng chính trị của giới trí thức. Do đó, nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc trở nên tự chủ hoàn toàn, ngay cả đối với lợi ích của giai cấp công nhân.

Ở Hàn Quốc, chủ nghĩa thực dân Nhật Bản đã làm suy yếu đáng kể tính hợp pháp của giai cấp thống trị truyền thống, mặc dù sau đó, chính sách hợp tác được thay thế chính sách loại bỏ. Mặc dù về bản chất, cải cách ruộng đất sau giải phóng đã làm giảm ảnh hưởng chính trị của giai cấp địa chủ (Lim, 1985:47). Sau đó, chính nhà nước, bằng quyền hạn của mình đối với các nguồn lực nước ngoài ở trong nước, bao gồm cả các tài sản trước đây thuộc sở hữu của Nhật Bản, đã tạo ra một giai cấp tư bản mới. Do đó, nhà nước đã giữ được đòn bẩy mạnh mẽ đối với giai cấp tư bản, mặc dù với sự dân chủ hóa chính trị, ảnh hưởng chính trị của giai cấp tư bản đối với nhà nước ngày càng tăng.

Tại Đài Loan, giới tinh hoa của Quốc dân Đảng, những người chạy sang Đài Loan sau khi thua ở Trung Quốc đại lục, đã không kiểm soát được nhiều lợi ích kinh tế. Tuy nhiên, họ đã tiến hành cải cách ruộng đất thành công, do đó làm giảm ảnh hưởng chính trị của các địa chủ truyền thống. Giới tinh hoa chính trị gốc đại lục, chủ yếu quan tâm đến mục tiêu khôi phục đại lục, đã cho phép người Đài Loan bản địa theo đuổi lợi ích trong lĩnh vực kinh tế. Mặc dù Đài Loan đã khởi xướng nhiều xí nghiệp quốc doanh quy mô lớn, nhưng kể từ đó, một số lượng lớn các xí nghiệp kinh doanh nhỏ đã mọc lên. Tuy nhiên, ảnh hưởng chính trị của giai cấp tư bản tương đối hạn chế (Haggard 1990). Mặc dù trường hợp của Nhật Bản khá phức tạp, người ta có thể nhấn mạnh rằng sự chiếm đóng của Mỹ đã làm giảm ảnh hưởng chính trị của giai cấp thống trị bằng cách dỡ bỏ bộ máy quân sự và tài phiệt (Zaibatsu) trước chiến tranh, trong khi vẫn giữ nguyên cơ cấu bộ máy trước chiến tranh (Johnson 1982).

Do đó, trong các chế độ toàn trị ở Hàn Quốc, các nhà lãnh đạo mạnh mẽ được quân đội hậu thuẫn không cho phép bất kỳ thách thức nào đối với quyền lực của nhà nước; đồng thời, họ cố gắng giữ phần lớn dân số xuất ngũ được đào tạo về chính trị. Nhấn mạnh sự ổn định chính trị và trật tự xã hội làm tiền đề cho tăng trưởng kinh tế, các chế độ toàn trị đã ngăn chặn việc hình thành các liên minh phân phối, thường không có lợi cho tăng trưởng kinh tế. Trong một bối cảnh chính trị khác, “chủ nghĩa chuyên chế mềm” (soft authoritarianism) của Nhật Bản thời hậu chiến (Johnson, 1982) cho phép nền hành chính nhà nước mạnh mẽ và không bị giám sát, chế độ độc đảng trong hơn ba thập kỷ, và nhà nước điều chỉnh xung đột xã hội vì các mục tiêu kinh tế.

Tóm lại, nhà nước theo mô hình cứng rắn được nuôi dưỡng thông qua truyền thống văn hóa Nho giáo và chủ nghĩa dân tộc mạnh mẽ đã khiến Hàn Quốc coi nhà nước như một lực lượng động viên vì mục tiêu chung là phát triển kinh tế, và được chấp nhận là lợi ích chung cho tất cả các thành viên. Mặc dù trên thực tế, sự “cứng rắn" được sử dụng thường xuyên, nhưng truyền thống Nho giáo đã giúp giải thích, và ở một mức độ nhất định, thực sự là đạo đức hóa, quyền lực chính trị, nhấn mạnh lợi ích tập thể và trách nhiệm của người lãnh đạo trong việc chăm sóc các nhu cầu của người dân. Hơn nữa, một số giá trị của Nho giáo đã có tác dụng tích cực với quá trình phát triển kinh tế. Ví dụ, sự cạnh tranh về thành tích, làm việc chăm chỉ, tiết kiệm, kỷ luật và cam kết giáo dục theo truyền thống Nho giáo cũng là những phẩm chất mà Max Weber tìm thấy trong đạo đức Tin Lành; những phẩm chất này đã đóng vai trò quyết định trong việc phát triển chủ nghĩa tư bản phương Tây

4. Bản chất hoạt động tích cực của nhà nước ở Hàn Quốc

Truyền thống của nhà nước theo chủ nghĩa dân tộc bảo thủ của Nho giáo đã chỉ định nhà nước giữ vai trò động viên vì một mục tiêu chung ở Hàn Quốc. Giới lãnh đạo chính trị coi phát triển kinh tế là mệnh lệnh quốc gia và thuyết phục xã hội rằng một nền kinh tế hiện đại mạnh mẽ là một công cụ mang lại lợi ích cho mọi thành viên trong xã hội (mặc dù trên thực tế, sự hy sinh của nhiều người có thể tạo ra cơ hội không cân bằng cho một số ít người). Sự đồng thuận như vậy về các mục tiêu cơ bản, bất kể nó được tạo ra theo cách thuyết phục sai, ép buộc hay thực sự dựa trên niềm tin chung, là một trong những yêu cầu quan trọng nhất để thành công trong sự can thiệp của nhà nước (Eads và Yamamura, 1987).

Về năng lực và quyền tự chủ, chế độ toàn trị kể từ những năm 1960 ở Hàn Quốc đủ sức mạnh để chống lại áp lực đảng phái từ các lực lượng xã hội và thuyết phục người dân về bản chất công ích của tăng trưởng kinh tế. Các cơ quan nhà nước được phục vụ bởi những tầng lớp tốt nhất trong xã hội có khả năng huy động các nguồn lực, động lực thúc đẩy và thực hiện tốt các chính sách công nghiệp. Sự ổn định chính trị cũng góp phần kéo dài vòng đời hoạt động của các doanh nghiệp tư nhân, tạo điều kiện trong việc lập kế hoạch và đầu tư dài hạn.

Trong phần tiếp theo, chúng tôi giải quyết bản chất hoạt động tích cực của nhà nước đóng vai trò trong nền kinh tế. Trong phân tích, chúng tôi tập trung vào (i) bản chất sự kiểm soát của nhà nước, (ii) sự kết hợp giữa các mục tiêu hoạt động kinh doanh khu vực công và tư nhân, và (iii) cơ chế kỷ luật, và do đó mô tả một hệ thống kinh tế Hàn Quốc trong suốt thời kỳ bắt kịp, thời kỳ không phải là kinh tế tư bản chủ nghĩa, kinh tế thị trường tự do hay kinh tế xã hội chủ nghĩa (kế hoạch hóa tập trung hoặc thị trường).

4.1. Kiểm soát tài chính

Tình trạng khan hiếm vốn nghiêm trọng ở Hàn Quốc buộc các doanh nghiệp phải phụ thuộc nhiều vào tín dụng để huy động tài chính ngoài lợi nhuận giữ lại. Trong trường hợp thị trường vốn không hiệu quả, nhà nước sử dụng quyền kiểm soát hệ thống ngân hàng để chuyển tiết kiệm trong và ngoài nước cho một số ngành hoặc doanh nghiệp nhất định. Hầu như tất cả các ngân hàng đều thuộc sở hữu của Chính quyền Đài Loan và điều này cũng đúng ở Hàn Quốc cho đến giữa những năm 1980. Mặc dù nhiều ngân hàng đã được tư nhân hóa từ những năm 1980, Chính phủ Hàn Quốc vẫn là cổ đông lớn nhất hoặc duy trì quyền kiểm soát hiệu quả đối với các tổ chức ngân hàng thông qua các chính sách nhân sự. Các ngân hàng từ ngân hàng trung ương được phép thực hiện các mức vay khổng lồ, miễn là họ tôn trọng các điều kiện của ngân hàng trung ương đối với việc phân bổ cho vay.

Ở Hàn Quốc, Chính phủ thực hiện quyền kiểm soát gần như trực tiếp đối với các khu vực tư nhân thông qua việc kiểm soát các khoản tín dụng của họ. Như vậy, có thể nói rằng ở mức độ can thiệp của Chính phủ có hiệu quả đối với khu vực quy mô lớn. Chính phủ có thể ảnh hưởng gián tiếp đến các quyết định đầu tư của khu vực tư nhân. Để hoạt động của nhà nước đạt hiệu quả, khả năng kiểm soát tài chính của nhà nước là rất quan trọng. Người ta thường không nhận thấy sự khác biệt quan trọng giữa kiểm soát tài chính của nhà nước thông qua phân bổ tín dụng và các công cụ kiểm soát khác, như thuế quan, hạn ngạch nhập khẩu, ưu đãi thuế và giấy phép gia nhập hoặc thương mại. 

Thứ nhất, kiểm soát tài chính ngụ ý kiểm soát linh hoạt hơn. Với việc phân bổ tín dụng, nhà nước không chỉ có thể kiểm soát khả năng tài chính của các doanh nghiệp mà còn có thể áp đặt sự tuân thủ của các doanh nghiệp trong các vấn đề khác. Thứ hai, sự khác biệt về chất là việc kiểm soát tài chính của nhà nước không dựa trên thẩm quyền chính trị, đây là trường hợp đối với các công cụ khác được hỗ trợ bởi pháp luật hoặc quy định; thay vào đó, sự kiểm soát tài chính của nhà nước dựa trên quyền lực kinh tế của nhà nước được liên kết với quyền sở hữu của họ đối với chính các ngân hàng hoặc quỹ. Thứ ba, trong khi hầu hết các biện pháp kiểm soát khác ngoại trừ cấp phép là nhằm vào các ngành hoặc lĩnh vực cụ thể và do đó chỉ ảnh hưởng gián tiếp đến các doanh nghiệp, kiểm soát tài chính lại trực tiếp nhắm vào các doanh nghiệp riêng lẻ. Vì ba lý do này, bản chất của kiểm soát tài chính ở Hàn Quốc tương tự như cơ chế kiểm soát trong các nền kinh tế xã hội chủ nghĩa không có chính sách kinh tế vĩ mô mà chỉ kiểm soát kinh tế vi mô cấp doanh nghiệp một cách linh hoạt, dựa trên sở hữu và trực tiếp.

Về vấn đề này, cần lưu ý một thực tế đơn giản nhưng cơ bản: đòn bẩy tài chính của nhà nước đối với các doanh nghiệp mang quyền kiểm soát bởi vì các doanh nghiệp có động lực mạnh mẽ để cải thiện hoạt động của mình và bởi vì các doanh nghiệp tin rằng cung cấp tín dụng là quan trọng. Ở Hàn Quốc, động lực thành công của các doanh nghiệp bắt nguồn từ quyền sở hữu tư nhân và kỳ vọng rằng họ sẽ là người hưởng lợi từ kết quả hoạt động tốt của mình. Do đó, ngay cả khi các doanh nghiệp kinh doanh lớn chịu hạn chế về ngân sách do mối quan hệ đặc biệt của họ với các cơ quan nhà nước, điều đó không nhất thiết dẫn đến hiệu quả tạo động lực thấp như ở các doanh nghiệp xã hội chủ nghĩa, nhưng trên thực tế, có thể dẫn đến hành vi ngược lại, tức là chấp nhận rủi ro quá mức.

4.2. Sự kết hợp giữa các mục tiêu hoạt động kinh doanh khu vực công và tư nhân

Sự can thiệp của nhà nước ở Đông Á thường được mô tả bằng thuật ngữ “chính sách công nghiệp" ("sankyo seisaku" trong tiếng Nhật), nhằm mục đích tác động chọn lọc đến các lĩnh vực cụ thể. Các chính sách hợp lý hóa công nghiệp thậm chí còn liên quan đến sự can thiệp của nhà nước vào hoạt động cụ thể của các doanh nghiệp riêng lẻ với các biện pháp nhằm cải thiện hoạt động của họ (Johnson, 1982). Sự can thiệp này của nhà nước nhằm tác động đến các hoạt động kinh doanh nhằm phục vụ các mục tiêu công. Bởi vì các mục tiêu tạo lợi nhuận trong việc ra quyết định kinh doanh của tư nhân có thể không nhất thiết thúc đẩy lợi ích kinh tế quốc gia, nên người ta tin rằng các quyết định của tư nhân về tiêu dùng và tiết kiệm, công việc và giải trí, và phân phối quỹ đầu tư theo ngành có thể không phù hợp với các ưu tiên phát triển quốc gia.

Niềm tin như vậy đã dẫn đến sự can thiệp trực tiếp của nhà nước vào các doanh nghiệp tư nhân lớn ở Hàn Quốc và một khu vực công lớn bao gồm nhiều doanh nghiệp công ở Đài Loan. 

Trong trường hợp của Đài Loan, chính quyền có thể kiểm soát trực tiếp các hoạt động sản xuất và mô hình đầu tư. Trong trường hợp của Hàn Quốc, ranh giới giữa khu vực tư nhân và khu vực công không cố định như trong chủ nghĩa tư bản phương Tây. Nhà nước và doanh nghiệp tư nhân duy trì mối quan hệ hợp tác chặt chẽ, lâu dài và nhà nước tham gia vào việc ra quyết định của doanh nghiệp như một đối tác kinh doanh. C. Lee (1992) cho rằng, mối quan hệ chặt chẽ giữa Chính phủ và các doanh nghiệp lớn ở Hàn Quốc như một “tổ chức bán nội bộ” theo quan điểm kinh tế học chi phí giao dịch của Williamson (1975). Các mạng lưới tương tự giữa nhà nước và các doanh nghiệp lớn đã tồn tại ở Nhật Bản. Hướng dẫn hành chính (“gyosei shido” trong tiếng Nhật), có nghĩa là hướng dẫn không ràng buộc về mặt pháp lý được các bộ ban hành hầu hết dưới dạng văn bản nhưng đôi khi bằng miệng, dựa trên mối quan hệ lâu dài, nhiều mặt và căng thẳng (Eads và Yamamura 1987).

Sự can thiệp trực tiếp của nhà nước ở Hàn Quốc có thể được coi là thành công theo nghĩa là nó ảnh hưởng đáng kể đến tỷ lệ đầu tư vào một số ngành chiến lược kinh tế nhất định và khiến các doanh nghiệp tư nhân làm điều gì đó khác với những gì họ đã làm nếu không có sự can thiệp, hoặc thậm chí tạo ra các tác nhân mới thực hiện các sáng kiến (Amsden 1989; Wade 1990; Johnson 1982). Những trường hợp này cho thấy nhà nước có lợi thế so sánh so với thị trường về cơ chế thực hiện. Dựa trên kinh tế học chi phí giao dịch, C. Lee (1992) lập luận rằng “thực hiện nội bộ” ("internal implementation") của một tổ chức bán nội bộ có thể hiệu quả hơn thực hiện thị trường ("market implementation") trong việc đạt được các mục tiêu phát triển cần thiết. Phân bổ theo thứ bậc phi thị trường giúp giải quyết các vấn đề của thị trường không hoàn hảo và thực thi chính sách bởi vì cấu trúc hệ thống như vậy cho phép chuyên môn hóa việc ra quyết định, tiết kiệm chi phí truyền thông và giảm thiểu rủi ro bằng cách phối hợp các quyết định của các đơn vị phụ thuộc lẫn nhau trong việc thích ứng với các trường hợp không lường trước được.

So sánh kinh nghiệm của Đài Loan và Hàn Quốc về thay thế nhân khẩu các ngành công nghiệp nặng và công nghệ trong những năm 1970 cho thấy sự khác biệt giữa “thực hiện thị trường” và “thực hiện nội bộ”. Ở Đài Loan, các doanh nghiệp tư nhân không thể và không muốn đầu tư vốn lớn với thời gian dài (Park, 1990). Do đó, Chính quyền phải dựa vào các doanh nghiệp công để thực hiện việc đầu tư và kết quả không hoàn toàn thành công. Ngược lại, các Chaebol (các tập đoàn lớn) của Hàn Quốc, được hỗ trợ bởi các kế hoạch đầy tham vọng của Chính phủ, đã nhảy vào một cách không thận trọng, và điều này dẫn đến việc đầu tư quá mức và trùng lặp. Ví dụ này cho thấy việc thực hiện nội bộ có thể nhanh chóng đạt được các kết quả hữu hình, nhưng không nhất thiết phải hiệu quả về mặt kinh tế. Eads và Yamamura (1987: 447-448) cũng cảnh báo rằng chính sách công nghiệp của nhà nước có khả năng tạo lợi thế cạnh tranh không thể nghi ngờ, bằng cách minh họa một số trường hợp thất bại bất chấp sự hướng dẫn và hỗ trợ tích cực của MITI. Vấn đề là chính sách công nghiệp không thể thay thế hoàn toàn các điều kiện kinh tế cơ bản; đúng hơn, nó hoạt động trong khuôn khổ các điều kiện kinh tế hiện có.

Một câu hỏi vẫn được đặt ra là tại sao sự can thiệp trực tiếp của nhà nước vào các hoạt động kinh doanh lại có hiệu quả trung bình và không dẫn đến sự “bảo thủ” và kém hiệu quả của bộ máy hành chính. Ngoài sự tồn tại của một số lượng lớn các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ đã hỗ trợ sức sống cơ bản của nền kinh tế, cần lưu ý cơ chế kỷ luật độc đáo của Hàn Quốc.

4.3. Kỷ luật kép: Thị trường và hệ thống

Mặc dù sự can thiệp của nhà nước phản ánh một số nghi ngờ về thị trường và các thành phần kinh tế tư nhân hành động vì lợi ích của họ, sự can thiệp của nhà nước vào Hàn Quốc không bỏ qua thị trường. Sự can thiệp của nhà nước là sự gia tăng thị trường” (“market augmenting”) với ý nghĩa là nó làm giảm những bất ổn và rủi ro liên quan đến kinh doanh, tạo ra và phổ biến thông tin về các cơ hội, và quan tâm hơn đến tâm lý của người dân. Điều đó trái ngược với việc lập kế hoạch “can thiệp thị trường” (“market suppressing”) khi thị trường ngày càng có sự phân mảnh hoặc sự gia tăng của các cơ hội tìm kiếm tiền thuê đất (Lim, 1981: 4-8). Nỗ lực tăng năng lực cạnh tranh trên các thị trường cung cấp bằng chứng về sự tôn trọng của Chính phủ Hàn Quốc đối với chức năng kỷ luật của thị trường và sự sẵn sàng chấp nhận các kết quả thị trường

Chức năng chính của tổ chức thị trường là liên hệ các tác nhân kinh tế có trách nhiệm với một mức thu nhập thỏa đáng, cụ thể là thưởng và phạt. Các nền kinh tế xã hội chủ nghĩa đã thay thế chức năng phân bổ nguồn lực của thị trường bằng kế hoạch hóa tập trung với chi phí là cắt giảm mối liên hệ giữa hiệu suất và lợi nhuận, điều này dẫn đến động lực thấp. Bài học rút ra từ kinh nghiệm này là, dù dưới bất kỳ hình thức nào, sự can thiệp của nhà nước cũng không nên đình chỉ chức năng quan trọng nhất của thị trường, đó là kỷ luật người sản xuất đối với việc sử dụng lãng phí tài nguyên. Sự can thiệp của nhà nước ở Hàn Quốc không làm tê liệt chức năng kỷ luật của thị trường, hoặc bổ sung một cách hiệu quả bằng một cơ chế kỷ luật thay thế bất cứ khi nào sự can thiệp làm suy yếu kỷ luật thị trường.

Ở Nhật Bản, các doanh nghiệp sản xuất đã mở rộng thông qua kỷ luật nghiêm khắc trong một cuộc cạnh tranh độc tài do Chính phủ tạo ra một phần tương đối lớn trong thị trường trong nước (Hadley 1970). Hàn Quốc và Đài Loan, với thị trường trong nước nhỏ hơn, cho phép sản xuất độc quyền hơn trong một số ngành. Tuy nhiên, Chính phủ Hàn Quốc rất khuyến khích các doanh nghiệp mới trong các ngành này bắt đầu xuất khẩu sớm (Westphal 1982), và do đó đưa họ trực tiếp vào cạnh tranh quốc tế. Đài Loan dựa nhiều hơn vào mối đe dọa cho phép nhập khẩu nếu giá của các sản phẩm thay thế trong nước cao hơn nhiều so với giá quốc tế (Wade 1988).

Những thực tế này trả lời phần nào một câu hỏi lý thuyết: tại sao hướng ngoại có thể là một chiến lược phát triển hiệu qua? Ngoài những lợi ích rõ ràng, như: thu được các yếu tố đầu vào, công nghệ, vốn và thị trường thiết yếu để đạt được hiệu quả kinh tế theo quy mô, thì ngoại thương mang lại những lợi ích bổ sung nào? Đương nhiên, tham gia vào thị trường thế giới có nghĩa là nền kinh tế sẽ phụ thuộc vào các điều kiện bên ngoài và do đó Chính phủ phải đối mặt với những hạn chế trong việc lựa chọn chính sách. Tuy nhiên, những ràng buộc này không phải là tốn kém cần thiết so với lợi ích của chúng. Định hướng xuất khẩu áp đặt kỷ luật thị trường, mà thị trưởng trong nước không thể cung cấp cho các doanh nghiệp sản xuất được bảo hộ, và do đó đặt ra một số ràng buộc đối với các chính sách kinh tế trong nước ngăn cản việc áp dụng các biện pháp trái ngược hẳn với tăng trưởng (C. Lee, 1992). Giá thị trường thế giới, được xác định từ bên ngoài, buộc các doanh nghiệp định hướng xuất khẩu và giới lãnh đạo chính trị phải hoạt động hiệu quả về mặt kinh tế và chính trị. Nói cách khác, sự thiếu cạnh tranh cả về kinh tế và chính trị trong một quốc gia được thúc đẩy bởi sự cạnh tranh trên thị trường thế giới. Chính vì lý do này mà các chaebol Hàn Quốc và các doanh nghiệp công ở Đài Loan đã có thể duy trì hiệu quả và năng lực cạnh tranh bất chấp sự bảo hộ trong nước. Ngược lại, một nền kinh tế hưởng nổi mà không. có tác động kỷ luật này thì dễ bị lãng phí tài nguyên và các hoạt động đòi tiền thuê (Srinivasan, 1985).

Ngoài kỷ luật thị trường trong nước hoặc thị trường thế giới, sự can thiệp hành chính đã bổ sung cho thị trường một kỷ luật hàng ngày trực tiếp hơn. Chức năng kỷ luật hàng ngày của Chính phủ đã có hiệu quả vì đã tồn tại một hệ thống quan hệ mật thiết giữa các cơ quan nhà nước và các doanh nghiệp lớn. Chính phủ với tư cách là nhà cung cấp tín dụng có động cơ mạnh mẽ để được thông tin đầy đủ về các điều kiện của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp không cho thấy kết quả hoạt động khả quan hoặc đi vay mà không có sự thận trọng về mặt thương mại thường không thể mong đợi việc tiếp tục các khoản vay. Sự kết hợp giữa cam kết mục tiêu của Chính phủ và mối quan hệ duy nhất giữa Chính phủ và doanh nghiệp đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sản xuất được bảo hộ ngay cả khi chịu áp lực mạnh mẽ và được khuyến khích để trở nên hiệu quả hơn trong tương lai (C. Lee, 1992; Jones và Sakong, 1980). 

Tuy nhiên, cần lưu ý rằng hiệu quả của tổ chức hệ thống đòi hỏi phải có sự lãnh đạo chính trị cứng rắn và cam kết về tăng trưởng và minh bạch về thị trường; Cần kiểm tra khả năng xảy ra các hành vi thông đồng và kém hiệu quả bởi sự thông đồng giữa quan chức - doanh nghiệp và sự bảo vệ kéo dài một cách vô lý. 

Tài liệu tham khảo

  1. Đối lập với mô hình “cứng rắn” được định nghĩa ở đây là mô hình “mềm” của Nam Á (Myrdal 1968: 66-67). Thuật ngữ mô hình "cứng rắn cũng được sử dụng trong Jones và Sakong (1980).

  2. Johnson (1982 19-20) phân biệt nhà nước phát triển với nhà nước điều tiết. Nhà nước điều tiết hoặc hợp lý hóa thị trường quan tâm đến các hình thức và thủ tục, không quan tâm đến các vấn đề thực chất. Ngược lại, nhà nước phát triển hoặc hợp lý hóa kế hoạch có đặc điểm nổi bật là đặt ra các mục tiêu kinh tế và xã hội thực chất.

  3. Nhật Bản thời kỳ hiện đại từ năm 1868 đến đầu những năm 1880 đã đi quá xa về phía cánh tả với hoạt động trực tiếp của các doanh nghiệp kinh tế nhà nước (Johnson 1982). Nhật Bản thời kỳ Minh Trị bắt đầu chuyển hướng để sửa chữa những thất bại trước đó. Tuy nhiên, ngay cả trong thời Chiêu Hoa, Nhật Bản với việc thành lập Bộ Thương mại Quốc tế và Đầu tư (Ministry of International Trade and Investment, MITI) năm 1925, quá trình ghi chép về mức độ tham gia của nhà nước vẫn cần được kiểm chứng

  4. Ở nền kinh tế xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc, sở hữu nhà nước và kế hoạch hóa tập trung không phải là phương thức hợp lý cho một mục tiêu phát triển; bản thân chúng đã là những giá trị cơ bản, không bị thách thức bởi bất kỳ tiêu chí kinh tế nào (Johnson 1982:18). 

  5. Xem H. Lee (1991) về sự hình thành và chuyển đổi của giới tinh hoa chính trị ở nền kinh tế xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc.

  6. Về lịch sử ban đầu của thời kỳ Minh Trị ở Nhật Bản, xem Livingston, Moores, và Oldfather (1973).

  7. Xem Mardon (1990) về cách nhà nước dân tộc chủ nghĩa Hàn Quốc định hình mô hình hội nhập tư bản nước ngoài để tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng các doanh nghiệp trong nước.

  8. Tất nhiên, một số giá trị của Nho giáo rõ ràng là trái ngược với đạo đức tư bản. Đúng như vậy, một số đặc điểm của Nho giáo được một số học giả cho là nguyên nhân khiến Đông Á trước đây không thể phát triển kinh tế.

  9. Tư tưởng tăng trưởng được hỗ trợ bởi sự ổn định chính trị của chủ nghĩa độc tài khắc nghiệt hoặc mềm mỏng đã góp phần kéo dài thời gian và làm cho sản xuất trở thành một giải pháp thay thế khả thi hơn nhiều so với thương mại như một lĩnh vực hoạt động kinh doanh (Johnson 1987). 

  10. Theo định nghĩa của Zysman (1963), các quốc gia. Đông Á coi hệ thống tài chính dựa trên tín dụng, trái ngược với hệ thống tài chính dựa trên thị trường vốn thịnh hành ở Mỹ và Anh. Các doanh nghiệp ở Đài Loan và Hàn Quốc phụ thuộc nhiều vào tín dụng ngân hàng hơn hầu hết các nước đang phát triển khác (Wade 1988: 132).

  11. So với tỷ lệ tiết kiệm tư nhân tương đối cao, các khu vực tư nhân của Đài Loan ít phụ thuộc hơn vào các ngân hàng quốc doanh để cấp tín dụng. Ngoài ra, vì lý do chính trị, các doanh nghiệp Đài Loan bản địa muốn bớt phụ thuộc vào tín dụng từ Chính phủ đại lục (Ho 1978; Haggard 1990).

  12. Trong trường hợp của Đài Loan, nỗ lực của Chính phủ Quốc dân đảng nhằm xây dựng khu vực nhà nước một phần bắt nguồn từ các lý do chính trị (xem Haggard 1990 và Ho 1978).

  13. Về việc sử dụng tín dụng của các chaebol Hàn Quốc, theo ấn tượng của những người Hàn Quốc bình thường là sự chuyển hướng tín dụng là đáng kể và các chaebol kiếm được số tiền lớn thông qua đó. Vì vậy, thay vì cố gắng nói rằng sự chuyển hướng là nhỏ, chúng tôi có thể nói rằng nó đã góp phần tích lũy vốn của các chaebol và do đó, cho phép họ đầu tư vào các ngành kinh doanh rủi ro mới.

Đăng ký nhận email

Đăng ký email để có thể có được những cập nhật mới nhất về tải liệu được đăng tải trên website

Tập san đã phát hành