Thứ năm, 13 Tháng 7 2023 04:19

KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA CHO VIỆT NAM TRONG XÂY DỰNG THỂ CHẾ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

1. Kinh nghiệm từ Trung Quốc

Trung Quốc được coi là một trong những nước chuyển đổi thành công trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường. Kinh nghiệm của Trung Quốc rất phong phú và đa dạng. Từ kinh nghiệm phát triển và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường tại Trung Quốc, Việt Nam có thể tham khảo những nội dung sau:

Tôn trọng cơ chế thị trường trong phân bổ nguồn lực từ những nơi có hiệu quả thấp đến nơi có hiệu quả cao hơn. Đây là kinh nghiệm quan trọng mà Trung Quốc đã rút ra sau những thập niên cải cách và đổi mới nền kinh tế.

Hội nghị Trung ương 3 khóa XVIII của Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 2013 khẳng định: “Cải cách kinh tế là trọng điểm của đi sâu cải cách toàn diện. Trong cải cách kinh tế, hạt nhân là xử lý mối quan hệ giữa Chính phủ và thị trường... Thị trường đóng vai trò quyết định trong việc phân bổ các nguồn lực (trước đây chỉ xác định thị trường đóng vai trò cơ sở). Thị trường đóng vai trò quyết định cho thấy vai trò của cơ chế thị trường trong việc phân bổ các nguồn lực được tăng cường hơn, do cơ chế thị trường quyết định, chứ không phải do cơ chế kế hoạch quyết định. Đồng thời, Hội nghị nhận thức rằng, thị trường quyết định phân bổ nguồn lực là quy luật phổ biến của kinh tế thị trường, kiện toàn thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa cần tuân thủ quy luật này”[1].

Tạo cơ chế phát triển doanh nghiệp tư nhân, các hộ kinh doanh cá thể. Tạo môi trường đầu tư - kinh doanh thuận lợi để thu hút các tập đoàn kinh tế lớn trên thế giới. Phát triển đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng để giảm thiếu chi phí vận tải, chi phí thương mại. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao để tạo tiền đề cho quá trình chuyển giao công nghệ diễn ra thuận lợi. Tạo nên những thể chế kinh tế vượt trội để thu hút luồng vốn, hấp thụ công nghệ từ bên ngoài. Củng cố chức năng và tăng cường vai trò của Đảng Cộng sản và Nhà nước trong nền kinh tế thị trường như: “duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, tăng cường và làm tốt dịch vụ công, bảo đảm cạnh tranh công bằng, tăng cường giám sát quản lý thị trường, duy trì trật tự của thị trường, thúc đẩy phát triển bền vững"[2].

Tuy nhiên, có những kinh nghiệm rút ra từ sự thất bại của Trung Quốc mà Việt Nam có thể hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường để làm tốt hơn như bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, chống quan liêu, tham nhũng.

2. Kinh nghiệm từ Nga và các nước Đông Âu

Nga và các nước Đông Âu đều cùng xuất phát từ nền kinh tế kế hoạch tập trung chuyển sang nền kinh tế thị trường nhưng kết quả thu được từ quá trình chuyển đổi tại Nga và các nước Đông Âu không hoàn toàn giống nhau, các biện pháp tiến hành ở các nước rất phong phú và đa dạng. Nhìn chung, công cuộc cải cách, cải tổ ở các nước này đã tạo ra được nền kinh tế thị trưởng vận hành trên những cơ sở đích thực của nó như chế độ sở hữu tư nhân, giá cả thị trường và thương mại tự do. Ở hầu hết các nước Đông Âu, sau giai đoạn chuyển đổi nền kinh tế. tương đối ổn định, khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. được nâng cao, đưa đất nước tham gia tích cực vào hội nhập quốc tế và khu vực.

Tuy nhiên, kết quả của công cuộc cải cách đạt được ở các nước rất khác nhau, một số nước Đông Âu đã đạt được kết quả khá khả quan, một số nước mà đặc biệt là Nga trong suốt những năm 1990 vẫn chưa vượt qua được giai đoạn suy giảm. Theo kết quả nghiên cứu và sự phân loại của Viện Nghiên cứu kinh tế chính trị quốc tế của Viện Hàn lâm khoa học Nga, kết quả cải cách thị trường của các nước này trong những năm 1990 được thể hiện như sau: ba nước đứng đầu là Ba Lan, Séc, Xlôvenia; các nước thuộc nhóm thứ hai là Hunggari và Xlôvakia; nhóm thứ ba là Bungari và Rumani; cuối cùng là Nga và Ucraina.

Những khó khăn của nền kinh tế Liên bang Nga và các nước Đông Âu trong những năm cải cách thị trường cho thấy công cuộc cải cách thị trường ở các nước này là vô cùng khó khăn và phức tạp. Tuy nhiên, so với các nước Đông Âu, cải cách thị trường ở Liên bang Nga còn khó khăn và phức tạp hơn nhiều, kết quả đạt được sau hơn 10 năm chuyển đổi rất hạn chế. Điều đó chủ yếu là vì:

Thứ nhất, ở Liên bang Nga thời gian duy trì cơ chế kế hoạch hóa tập trung dài hơn nhiều so với các nước Đông Âu (Nga hơn 70 năm, các nước Đông Âu khoảng 40 năm), do vậy thói quen và sự trì trệ của nó cũng lớn hơn nhiều. Đặc biệt ở Nga sự duy trì và sử dụng các công cụ quản lý hành chính quan liêu có mức độ cao hơn ở các nước Đông Âu, kinh nghiệm của các nước Đông Âu về việc áp dụng một số công cụ kinh tế thị trường trong nền kinh tế kế hoạch hóa cũng phong phú hơn, đặc biệt ở Hunggari ngay từ năm 1968 đã có những sự cải cách theo hướng này.

Thứ hai, ở Liên bang Nga ngoài việc tiến hành cải cách thị trường như các nước Đông Âu còn phải giải quyết một loạt các khó khăn do sự phá vỡ không gian kinh tế thống nhất Liên bang Xôviết. Trong suốt hơn 70 năm tồn tại và phát triển Liên bang Xô viết đã xây dựng một nền kinh tế thống nhất khổng lỗ, một cơ cấu kinh tế thống nhất chặt chẽ, phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước cộng hòa, sự phá vỡ không gian này đương nhiên là khó khăn cho tất cả các nước cộng hòa độc lập, trong đó có Liên bang Nga.

Thứ ba, cơ cấu kinh tế của Liên bang Nga cũng bất lợi hơn so với các nước Đông Âu đó là tỷ trọng cao của công nghiệp quốc phòng. Trong quan hệ với các nước thành viên khối SEV, Liên bang Nga chủ yếu xuất khẩu nguyên vật liệu, điều này cũng là bất lợi về cơ cấu. Ngoài ra, kết quả thực hiện cải cách thị trường của Liên bang Nga trong những năm này hiệu quả thấp còn do sự lãnh đạo cải cách chưa thích hợp, tình hình chính trị đất nước thường xuyên mất ổn định, xã hội phức tạp. Như là hệ quả của nhau, các nhân tố trên đã trực tiếp hoặc gián tiếp làm ảnh hưởng đến hiệu quả cải cách ở Liên bang Nga.

Nghiên cứu cải cách kinh tế thị trường ở Liên bang Nga và các nước Đông Âu cho thấy các biện pháp cải cách kinh tế thị trường ở Liên bang Nga và các nước Đông Âu được thực hiện cơ bản là giống nhau, cụ thể là ở các nước đều tiến hành tự do hóa về giá cả, thực hiện tư nhân hoá, tự do hóa thương mại. Tuy nhiên trong từng biện pháp này các nước thực hiện không hoàn toàn giống nhau. Điều đó xuất phát từ điều kiện cụ của từng nước khi tiến hành cải cách, sự vận dụng chính sách cải cách của từng chính phủ. Nhìn lại kết quả cải cách trong những năm vừa qua, Ba Lan, Hunggari, Séc vẫn là những nước thực hiện cải cách kinh tế hiệu quả hơn, đất nước nhanh chống thoát ra khỏi khủng hoảng và nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng cao và ổn định, đặc biệt là Ba Lan - nước được mệnh danh là "con hổ của Đông Âu”.

Nhìn chung trong việc tiến hành cải cách kinh tế thị trường, các nước đều coi tư nhân hóa là trọng tâm, là nội dung quan trọng của cải cách và đây cũng chính là công việc cực kỳ khó khăn và phức tạp. Thực tiễn tiến hành tư nhân hóa ở Nga và Đông Âu đều mang lại cơ cấu kinh tế hợp lý hơn và hiệu quả doanh nghiệp cao hơn. Tuy nhiên có thể hình thức tư nhân hóa được hình thành không hoàn toàn giống nhau và đem lại lợi ích cho các nước này cũng ở các mức độ khác nhau.

Mỗi nước sẽ ưu tiên hình thức này hoặc hình thức khác. Chẳng hạn trong việc bản doanh nghiệp có vị trí quan trọng ở Hunggari thì ở các nước khác không phải như vậy. Mặt khác, hơn một nửa doanh nghiệp tư nhân hóa ở Liên bang Nga được tư nhân hóa lại do ban quản lý hoặc công nhân của doanh nghiệp mua, trong khi phương pháp này không quan trọng ở Séc. Phương pháp tư nhân hóa bằng các phiếu chia đều cho công dân lại là phương pháp phổ biến ở Séc, nhưng lại không được áp dụng ở Hunggari.

Những cải cách trong lĩnh vực tài chính tiền tệ ở Liên bang Nga và các nước Đông Âu đều được thực hiện bằng những phương pháp chung như tự do hóa giá cả, các biện pháp của cách trong lĩnh vực thuế, ngân sách, các biện pháp trên thị trường vốn. Tuy nhiên, việc vận dụng ở từng nước được thực hiện theo những biện pháp cải cách riêng.

Trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại, ở các nước đều thực hiện nguyên tắc tự do hóa hoạt động kinh tế đối ngoại, mở cửa nền kinh tế bên ngoài. Ở các nước Đông Âu, việc xây dựng cơ chế kinh tế mới nói chung, cơ chế kinh tế đối ngoại nói riêng được hình thành rõ nét trên cơ sở những tiêu chuẩn châu Âu với mục tiêu chung là gia nhập vào Liên minh châu Âu (EU).

Liên bang Nga trong những năm đầu cải cách chính sách đổi ngoại được định hướng dựa hẳn vào Mỹ và phương Tây. Thực tế trong những năm đầu cải cách, chính sách này tỏ ra không có hiệu quả, từ năm 1994 Liên bang Nga đã phải điều chính theo hướng “cân bằng Đông – Tây”, chú ý tới các ban hàng truyền thống và các nước trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương.

Tóm lại, tự do hóa hoạt động kinh tế đối ngoại, đưa đất nước tham gia tích cực vào hợp tác kinh tế thế giới và khu vực là đặc điểm nổi bật trong cải cách lĩnh vực kinh tế đối ngoại ở Liên bang Nga và Đông Âu. Thực tiễn quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung ở Liên bang Nga và Đông Âu cho thấy sự phức tạp và khó khăn. Trong quá trình cải cách, cải cách sở hữu hay còn gọi là tư nhân hóa là vấn đề đặc biệt quan trọng. Trong vấn đề này, việc xác định được hình thức thực hiện phù hợp với từng quốc gia, trong từng thời kỳ có ý nghĩa rất quan trọng. Khó khăn đặc biệt ở các nước này là thiếu vốn trong nền kinh tế, dự trữ trong dân cư thấp, do vậy rất khó thực hiện việc tư nhân hóa. Xác định giá trị tài sản và thực hiện tư nhân hóa các xí nghiệp lớn là vấn đề hết sức khó khăn.

Tài chính tiền tệ là vấn đề cực kỳ nhạy cảm, do vậy cần phải có bước đi thận trọng. Tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước, giảm chi là yêu cầu cấp thiết đặt ra. Cái cách lĩnh vực thuế là đặc biệt quan trọng, cần phải có hệ thống thuế hợp lý - thay thế các đạo luật và có nhiều cái cách trong lĩnh vực này, đồng thời phải có đội ngũ cán bộ thuế am hiểu, tỉnh thông nghiệp vụ. Lãnh vực kinh tế đối ngoại, xu thế nổi bật trong cải cách là tăng cường. hội nhập các nước vào nền kinh tế thế giới và khu vực. Vấn đề tự do hóa hoạt động kinh tế đối ngoại là điểm mấu chốt và còn là một trong những nội dung quan trọng của cải cách thị trường ở tất cả các nước này.

Từ việc nghiên cứu cải cách kinh tế thị trưởng ở Liên bang Nga và các nước Đông Âu, có thể rút ra một số kinh nghiệm sau:

Thứ nhất, công cuộc cải cách thị trường đạt được thành công cao hơn ở những nước có những bước đi vững chắc, tuần tự, duy trì được sự ổn định chính trị - xã hội. Việc từ bỏ hoàn toàn vai trò của nhà nước trong quản lý hoạt động kinh tế sẽ dẫn đến sự mất ổn định, hiệu quả cải cách không cao. Thực tế cho thấy, tự do hóa cùng một lúc với phi tập trung hóa hoạt động kinh tế trong khi còn thiếu kết cấu hạ tầng thị trường phát triển đã dẫn đến sự giảm sút sản xuất và mức sống, làm khó khăn cho sự ổn định của nền kinh tế, về mặt tài chính tiền tệ. phá vỡ bản thân các quan hệ thị trường.

Một trong những điều kiện quan trọng để quá trình cải cách thị trường có kết quả là trong quá trình dân chủ hóa các nước này đã đổi mới được bộ máy nhà nước, thoát ra khỏi sự yếu kém và tổn hai của nó, bảo đảm năng lực hoạt động và uy tín của nó.

Quan điểm loại bỏ sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế một cách thái quá là biện pháp quan trọng để khắc phục chủ nghĩa quan liêu và tham nhũng đã không đem lại kết quả tích cực mà ngược lại còn tạo nên sự khó khăn và phức tạp cho cải cách.

Những cơ chế và hệ thống thị trường được hình thành và hoàn thiện ở các nước phương Tây bằng con đường tự nhiên và trong suốt hàng trăm năm, còn ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây như Nga và Đông Âu phải được tạo ra trong thời gian rất ngắn. Vì thế chúng không thể trở thành sản phẩm của một quá trình lịch sử tự nhiên, chúng xuất hiện do một cuộc cải cách, vai trò của nhà nước là rất quan trọng. Thiếu sự tham gia của nhà nước, thiếu sự can thiệp tích cực của nhà nước vào sự hình thành của nền kinh tế thị trường với mục đích tạo cho nó một định hướng xã hội cần thiết thì thật khó có thể hình thành một nền kinh tế thị trường phát triển ổn định.

Các quan điểm khác nhau về mức độ và biện pháp can thiệp của nhà nước hiện vẫn chưa thống nhất, nhưng sự cần thiết của nó thì ngày càng ít người phủ nhận. Sự phân tích những cuộc cải cách ở các nước Đông Âu ngày càng khẳng định vai trò quyết định của nhà nước trong một loạt lĩnh vực then chốt để ổn định nền kinh tế vĩ mô và xây dựng các thể chế kinh tế thị trường hiện đại. Trước hết, trong việc hình thành một ngân sách lành mạnh, một hệ thống thuế có hiệu quả, một kết cấu hạ tầng ngân hàng và thị trường chứng khoán hiện đại, thi hành một chính sách tiền tệ đúng đắn, thực hiện hệ thống kiểm kê, kiểm tra kế toán hiện đại sẽ chặn đứng sự cạnh tranh không lành mạnh, những thủ đoạn xảo trá tài chính, sử dụng có tính chất vụ lợi nhờ vào địa vị độc quyền trong sản xuất và trên thị trường. Ở Liên bang Nga, một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến khủng hoảng kinh tế thưởng xuyên và sự không ổn định là do thả lỏng vai trò can thiệp, điều tiết của Nhà nước vào trong nền kinh tế suốt thời gian dài. Vì vậy, sau khi Tổng thống Putin lên cầm quyền, trong chính sách kinh tế của mình, ông khăng định tiếp tục thực hiện cải cách kinh tế thị trường nhưng trên cơ sở giữ vững ổn định chính trị để phát triển kinh tế. Nâng cao vai trò điều tiết của Nhà nước vào nền kinh tế ở mức độ cần thiết. Những định hướng xã hội của nền kinh tế thị trường cần thiết để gìn giữ sự hòa hợp và bình yên xã hội, để ngăn chặn những bùng nổ xã hội, trong nhiều trường hợp cần thiết phải có sự can thiệp của nhà nước vì ở một loạt các nước Đông Âu người ta nhận thấy rằng sự tăng cường vai trò của nhà nước trong phân chia thu nhập quốc dân, trong tỷ trọng đầu tư cho việc đáp ứng nhu cầu của toàn xã hội, cho việc giải quyết những vấn đề xã hội và vấn đề sinh thái đang tăng lên. Mặc dù lý luận tự do chủ nghĩa đề nghị giảm phần ngân sách nhà nước trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP), nhưng trên thực tế điều này không xảy ra.

Thực tiễn ở Liên bang Nga hoàn toàn tương phản với kinh nghiệm của các nước thành công ở Đông Âu. Điều này thể hiện ở việc so sánh tỷ trọng chi phí của nhà nước trong GDP của các nước có mức tăng trưởng dương như Ba Lan, Séc, Hungary và các nước tăng trưởng âm như Bungari, Rumani. Trong nhóm nước thứ nhất, chỉ số thường xuyên ở mức cao, trong khi ở nhóm nước thứ hai chỉ số ở mức thấp. Ở Liên bang Nga, chỉ số chi phí của Nhà nước trên GDP trong quá trình chuyển đổi là rất thấp, chẳng hạn vào giữa năm 1999 chỉ số này là -24,4%. Mức thấp báo động gây sự chú ý của các nhà hoạt động của Quỹ Tiền tệ Quốc tế và cả những nhà cải cách kinh tế theo xu hướng tự do hóa mới. Nó thể hiện những nguy cơ liên quan tới việc Chính phủ Nga không có khả năng cung cấp những điều kiện tối thiểu và các điều kiện phúc lợi xã hội cho nhân dân.

Vai trò tham gia tích cực của nhà nước vào việc đưa nền kinh tế chuyển sang giai đoạn phát triển bền vững không chỉ thể hiện ở yếu tố duy trì mức chi phí cho ngân sách cao trong các nước, mà sau một thời gian ngắn của quá trình chuyển đổi bắt đầu có sự tăng trưởng, cơ cấu chi tiêu ngân sách có ý nghĩa quan trọng. Những nước có mức tăng trưởng dương là những nước có chỉ tiêu lớn hơn vào khoa học, giáo dục. Chẳng hạn ở Hunggari, Séc và Ba Lan đều duy trì được tỷ lệ chi tiêu cho giáo dục trong GDP suốt những năm 1990 như trước đây thì ở Bungari lại giảm đi hai lần. Chi phí cho khoa học và công nghệ có liên quan tới quy mô và phương hướng phát triển nền kinh tế.

Những biện pháp hành chính của sự tác động của nhà nước đến đời sống kinh tế lúc này chủ yếu hạn chế trong lĩnh vực quyền công dân và các cơ quan bảo vệ luật pháp. Ngoài ra còn thực hiện kiểm soát hành chính đối với việc tuân thủ những tiêu chuẩn chất lượng, môi trường và kỹ thuật, kiểm soát giá cả, kiểm soát hoạt động kinh tế đối ngoại và sự xuất hiện của các tổ chức độc quyền... Song trọng tâm tập trung vào các biện pháp thị trường tác động tới nền kinh tế. Trong quá trình sử dụng các biện pháp này nhà nước đã tích luỹ được những kinh nghiệm lớn, hiểu được sắc thái và các đặc điểm công nghệ của vai trò điều chỉnh những công cụ này.

Kết quả của các công cuộc cải cách ở Liên bang Nga và các nước Đông Âu chủ yếu được xác định ở chỗ các cơ quan lập pháp của chính quyền nhà nước đã làm gì cho việc tạo ra cơ sở luật pháp cần thiết cho hoạt động thị trường, các cơ quan lập pháp làm gì trong việc bảo đảm sự vận dụng chúng trong thực tiễn. Mặt khác các cơ quan nhà nước cần phải soạn thảo chính sách cơ cấu và chính sách thu nhập, coi đó như là kế hoạch hóa chỉ dẫn làm điểm định hướng trong quá trình soan thảo chiến lược sản xuất của các xí nghiệp, trong việc tiến hành chính sách ngân sách và tín dụng, trong sự hỗ trợ của nhà nước cho tiến bộ khoa học kỹ thuật, trong việc soạn thảo các chương trình nâng cao khả năng cạnh tranh của từng ngành, từng lĩnh vực sản xuất, trong việc xác định chính sách thuế quan và ngoại tệ.

Nghiên cứu so sánh quy trình cải cách và sự phát triển kinh tế - xã hội ở Nga và Đông Âu cho thấy tính nhạy cảm của quan niệm cạnh tranh để thúc đẩy hoạt động kinh tế trong giai đoạn chuyển đổi từ nền kinh tế chỉ huy sang nền kinh tế thị trường. Có những đánh giá về sự biến động và mức độ phân hóa thu nhập trong các nước này làm cơ sở cho việc đánh giá hiệu quả của pháp luật. Cũng có giả thiết cho rằng liên quan tới mức độ phân hóa thu nhập không chỉ kích thích tăng trưởng kinh tế, mà bắt đầu kìm hãm sự phát triển.

Thứ hai, tự do hóa hoạt động kinh tế là một trong những biện pháp cực kỳ quan trọng để chuyển đổi nên kinh tế kế hoạch tập trung sang nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, cần thiết phải phối hợp biện pháp này đồng bộ với các biện pháp khác mới tạo ra được cơ chế thị trường có hiệu quả. Trước hết, trong quá trình cải cách ở các nước việc cải cách thể chế giữ vị trí rất quan trọng, bao gồm việc thực sự bảo vệ quyền sở hữu cá nhân, bảo đảm sự cạnh tranh bình đẳng, có hệ thống luật pháp hiệu quả bảo đảm sự hoạt động tất cả các lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bảo hiểm..

Trong các nước Đông Âu và Liên bang Nga, tự do hóa được tiến hành khá nhanh chóng trong các quan hệ kinh doanh hàng hóa và dịch vụ. Ở những nước cải cách được coi là thành công như Ba Lan, Séc, Hunggari việc dỡ bỏ các hạn chế với lao động tiền lương, các hoạt động ngoại thương và ngoại hồi, xuất khẩu và nhập khẩu được tiến hành rất thận trọng. Quan điểm về việc tự do hóa hoạt động kinh tế đối ngoại là yếu tố then chốt bảo đảm chuyển sang nền kinh tế thị trường. Việc xây dựng một nền kinh tế mở tham gia hội nhập tích cực vào nền kinh tế thế giới và khu vực là cần thiết đối với các nước, nhưng quá trình từng bước mở cửa phải phủ hợp từng bước với việc xóa bỏ các hạn chế nhằm bảo đảm kiểm soát chặt chẽ quá trình bung ra và các hoạt động của các chủ thể kinh tế, cho phép tránh được những tiêu cực đã xảy ra như ở nước Nga. Chẳng hạn việc tiến tới thực hiện đồng tiền chuyển đổi được các nước Đông Âu tiến hành hết sức thận trọng. Việc xóa bỏ hạn chế về ngoại tệ được thực hiện thận trọng theo từng giai đoạn. Khác với nước Nga, ở các nước khác ngay từ đầu quá trình cải cách đã bắt buộc các doanh nghiệp phải bán lại 100% số ngoại tệ thu được từ xuất khẩu. Chỉ có các biện pháp nhằm củng cố tình trạng ngoại tệ, các doanh nghiệp mới được phép mở tài khoản ngoại tệ ở các ngân hàng thương mại trong nước. Ba Lan. Séc, Hunggari tỏ ra là rất đúng đắn khi cho tự do hóa ngoại hối sau 5-6 năm cải cách (1995-1996). Các nước Đông Âu rất thận trọng khi tiến hành dỡ bỏ các hạn chế về xuất khẩu vốn. Nếu việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là ưu tiên tuyệt đối ở các nước hậu xã hội chủ nghĩa, thì việc xem xét xuất khẩu vốn ra ngoài là rất nghiêm ngặt. Thực tế ở các nước này luôn duy trì một chế độ quản lý nghiêm ngặt các hoạt động mua bất động sản ở nước ngoài, kể cả đầu tư chứng khoán. Ở Ba Lan, Séc, Hunggary đã có sự thông thoáng trong việc đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, nhưng lợi nhuận của những hoạt động này nhất thiết phải chuyển về các ngân hàng thương mại trong nước.

Chính sách bảo hộ cũng đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ thị trường trong nước. Do việc tự do hóa hoạt động kinh tế đối ngoại một cách nhanh chóng lại mâu thuẫn với khả năng cạnh tranh yếu kém của các nhà sản xuất trong nước nên các nước thường duy trì chế độ nhập khẩu chặt chẽ. Những biện pháp như quy định chất lượng hàng hóa nhập khẩu, trách nhiệm bắt buộc cũng được áp dụng. Nhằm hạn chế sự khan hiếm hàng hóa sản xuất trong nước, trên thị trường nội địa những hạn chế hành chính tạm thời về xuất khẩu cũng đã được áp dụng như chế độ giấy phép, hạn ngạch, cấm trực tiếp. Ở đây đặc biệt khuyến khích nhập khẩu đầu tư, miễn trừ các loại thuế hải quan cho việc nhập khẩu các công nghệ tiên tiến.

Thứ ba, những kinh nghiệm rút ra từ việc tư nhân hóa. Ở các nước Đông Âu, tư nhân hóa đã đạt được kết quả đáng kể, đặc biệt việc tiến hành tư nhân hóa một cách khá thận trọng và cân nhắc kỹ. Việc thực hiện tư nhân hóa một cách đại trà, ồ ạt hoàn toàn không phải giải pháp tốt nhất để hình thành chủ thể thị trường thực sự. Hơn nữa, trong một số trường hợp đã dẫn tới việc xuất hiện một hệ thống quản lý doanh nghiệp cực kỳ không hiệu quả, và do đó dẫn tới việc doanh nghiệp hoạt động không theo cơ chế thị trường. Việc tạo ra môi trường thuận lợi cho các hoạt động của khu vực tư nhân trên cơ sở sở hữu cá nhân có ý nghĩa đặc biệt quan trọng bằng cách khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Việc không quan tâm quản lý các tài sản nhà nước sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng, dẫn tới việc thất thoát tài sản nhà nước, tội phạm hóa nền kinh tế. Ý đồ tư nhân hóa liền một mạch và bằng mọi giá đã biến thành sự phân chia tài sản nhà nước một cách tự phát không kiểm soát được và thực tế đã biến thành cuộc bán đổ, bán tháo một số tài sản đó. Khác với ở Nga, ở các nước Đông Âu quá trình này được nhận thức kịp thời và tránh được tình trạng đó. Quá trình tư nhân hóa ở đây được tiến hành thận trọng hơn và trước hết là cho những cải thiện nền kinh tế và xây dựng tính hiệu quả của nó. Liên minh cầm quyền của các lực lượng dân chủ cánh tả ở Ba Lan nhấn mạnh trong các văn kiện cương lĩnh của mình rằng, những quyết định trong lĩnh vực sở hữu cần căn cứ vào tiêu chuẩn hiệu quả kinh tế - xã hội, chứ không phải vào những quan điểm thuyết giao, trong đó thước đo hiệu quả cần phải là mức độ thực hiện lợi ích của toàn xã hội, chứ không phải của một nhóm nhỏ những người chủ sở hữu.

Việc tư nhân hóa các cơ sở công nghiệp lớn diễn ra vô cùng phức tạp và chậm chạp, với hiệu quả thấp, ở cả Liên bang Nga và các nước Đông Âu. Điều đó do thiếu sự dự trữ tiền cần thiết trong dân cư, thu nhập thấp và gánh nặng nợ của các xí nghiệp để tư nhân hoá, các chính phủ không muốn biến tư nhân hóa thành việc thay đổi pháp nhân thuần tuý... kể cả khó khăn trong định giá các loại xí nghiệp này.

Vai trò và vị trí của sở hữu nhà nước trong hệ thống thị trường của các nước Đông Âu vẫn đang là đề tài tranh luận giữa các lực lượng chính trị khác nhau. Khác với những người theo chủ nghĩa tự do cấp tiến, những người thuộc lực lượng cánh tả ở Ba Lan, các xí nghiệp quốc doanh trước hết cần phải quyết định tình hình kinh tế Ba Lan, sự quản lý các xí nghiệp này cần thực hiện thông qua quy chế kho bạc nhà nước, các xí nghiệp làm ăn có hiệu quả hơn trong số đó không thể tư nhân hoá, đây là nguồn thu quan trọng của ngân sách nhà nước. Những người xã hội Bungari cũng bảo vệ đường lối tương tự đối với nền kinh tế nhiều thành phần, sự bình đẳng giữa các hình thức sở hữu khác nhau. Tư nhân hóa ở Séc theo các quan điểm cấp tiến hơn.

Nguyên nhân khách quan của việc không thể tiến hành tư nhân hóa chỉ trên cơ sở phải trả tiền là do sự cần thiết phải phân chia không phải trả tiền một phần đáng kể sở hữu nhà nước cho nhân dân. Theo quan điểm của người dân tư nhân hóa bằng “phiếu” ở Séc, Xlôvakia, Rumani và từ cuối năm 1995 ở Ba Lan có ưu thế hơn so với nước Nga. Do ở mọi nơi phiếu chứng khoán tư nhân hóa là phiếu có ghi tên nên đã hạn chế các thủ đoạn gian lận tài chính đối với các phiếu này. Nhà nước kiểm soát rất chặt chẽ các quỹ đầu tư, đây là những quỹ có vai trò rất lớn trong việc bán tài sản, tài sản nhà nước.

Thực tiễn ở Nga và Đông Âu cho thấy, phương pháp tư nhân hóa đồng loạt có sức hấp dẫn về mặt xã hội, đã giải quyết khá nhanh vấn đề khởi động cho tư nhân hóa nhưng không bảo đảm được sự bổ sung thêm vốn đầu tư thực tế cho sản xuất. Kinh nghiệm của Séc chứng tỏ rằng, làn sóng phá sản của các xí nghiệp được bắt đầu sau khoảng một năm kể từ lúc tư nhân hóa bằng phiếu chứng khoán và sau một năm tiếp theo sẽ dẫn đến sự phá sản một phần của quỹ đầu tư. Sự thật thì có một số cuộc phá sản chỉ là giả tạo nhằm tạo cho những kẻ trục lợi mua được hàng loạt tài sản và ngân phiếu theo giá rẻ mạt.

Hiệu quả tích cực của tư nhân hoá, theo kinh nghiệm của các nước Đông Âu, phần nhiều được xác định ở chỗ trước hoặc trong quá trình từ nhân hóa có tiến hành được hay không sự cơ cấu lại về tài chính và cải tổ về tổ chức của các xí nghiệp. cũng như bảo đảm được hay không những điều kiện tiên quyết để hiện đại hóa kỹ thuật.

Thực tế diễn ra ở Nga và các nước Đông Âu là các xí nghiệp sau tư nhân hóa thường hoạt động có hiệu quả hơn. Hoạt động của các xí nghiệp được tư nhân hóa chỉ ra rằng, bản thân việc thay đổi chủ sở hữu vẫn chưa dẫn đến những mối kích thích bổ sung nhằm nâng cao năng suất lao động. Điều khó khăn hơn cả là việc tìm ra những hình thức tổ chức quản lý công ty cổ phần một cách có hiệu quả, là việc tích luỹ kinh nghiệm làm việc trong điều kiện thị trường của những người tổ chức sản xuất có tài.

Vấn đề tư nhân hóa các ngân hàng được coi là vấn đề cấp bách, tuy nhiên các nước Đông Âu vẫn không vội vã đưa khu vực ngân hàng ra khỏi lĩnh vực tác động trực tiếp của nhà nước. Điều đó cho phép duy trì sự kiểm soát các hoạt động tài chính và lương của các xí nghiệp, giải quyết có hiệu quả hơn vấn đề không trả nợ đã trở nên trầm trọng ngay từ đầu công cuộc cãi cách. Ngoài ra, nhà nước ở các nước này có thể kiểm soát được các quá trình như việc hình thành các Congxocxiom ngân hàng. hợp nhất các ngân hàng, sở hữu giao chéo các cổ phần. Đạt được điều này nhờ có sự bảo đảm của nhà nước, hệ thống bảo hiểm và sự ủng hộ trực tiếp của nhà nước.

Quá trình tư nhân hóa nền kinh tế có tác dụng tích cực tới hoạt động của các chủ thể kinh tế trong trường hợp có sự đồng bộ với chuyển đổi các điều luật cần thiết và có chính sách kinh tế hiệu quả theo xu hướng xây dựng một nền kinh tế thị trường năng động – đó là sự cạnh tranh. Kết quả là tốc độ phát triển kinh tế cao thể hiện ở một loạt các mô hình thực hiện tư nhân hóa khác nhau, cũng như việc hình thành khu vực tư nhân ở các nước này.

Sự phân tích tình hình ở các nước Đông Âu chứng tỏ một điều rằng hiệu quả quản lý của từng xí nghiệp không chỉ phụ thuộc vào hình thức sở hữu mà còn phụ thuộc vào các nhân tố khác. Theo đánh giá của các nhà kinh tế Hungari, đó là cuộc khủng hoảng kinh tế chung, mức nộp thuế cao, nợ đọng lẫn nhau, sự phá sản của các bạn hàng trong nước, giá cả và điều kiện cạnh tranh bị biến dạng, sự mất thị trường do hậu quả của tương lai bất ổn định của các công ty, sự khan hiếm và giá tín dụng cao. Trong số các nhân tố cản trở sự hoạt động có hiệu quả của các xí nghiệp được tư nhân hóa ở Bungari, Rumani, Ba Lan thì sự hạn chế của nhu cầu tiêu dùng là cơ bản.

Thứ tư, những vấn đề liên quan tới chính sách tài chính tiền tệ. Tính bền vững và khó thay đổi của sự ổn định kinh tế vì mô ở một loạt các nước cải cách thị trường không chỉ liên quan tới việc sử dụng những đơn thuốc của chính sách tiền tệ chính thống, giới hạn chỉ trong việc điều tiết lưu thông tiền tệ. Những nhà cải cách ở những nước này khác với Nga ở điểm là, đưa ra những tổng kết rằng sự biến động giá cả trong các nền kinh tế chuyển đổi được xác định không chỉ bởi nhu cầu về hàng hóa và dịch vụ, mà còn bởi hàng loạt các nguyên nhân khác nhau từ phía cung cấp hàng hóa và dịch vụ. Họ cho rằng, lạm phát phụ thuộc không chỉ vào biến động của lượng tiền phát hành mà còn phụ thuộc vào những yếu tố phi tiền tệ. Chính vì vậy họ đã thành công trong việc cắt đứt các vòng luẩn quẩn làm mất giá: “giá cả - thu nhập - giá cả" và "lạm phát - phá giá - lạm phát”. Còn những dự báo chính xác đưa ra được những trình tự và liệu pháp đúng đắn về việc sử dụng các giải pháp đồng bộ ngay từ khi bắt đầu cải cách về việc lưu thông tiền tệ giá cả, thu nhập cá nhân và tỷ giá ngoại tệ.

Các nhà kiến trúc sự cải cách ở các nước Đông Âu lúc đầu chịu ảnh hưởng của những quan điểm tiền tệ đang thống trị trong tư tưởng kinh tế phương Tây và giới thiệu cho các nước này các chế độ tài chính quốc tế. Theo các quan điểm này, các nước Đông Âu cần thêm hai định để không thay đổi và như sau này đã làm rõ, dễ bị tổn thương các nền kinh tế quá độ. Đây là hai định đề của quan điểm chính thống về tiền tệ: mọi sự can thiệp của nhà nước đều có hại cho sự phân bổ có hiệu quả các nguồn dự trữ và mọi sự thay đổi mức giá chung đều là hậu quả của những chuyển biến về phía cung ứng tiền tệ. Từ đây dẫn đến chỗ là ổn định vững chắc nhiều hay ít của nền kinh tế vĩ mô chỉ có thể đạt được bằng chính sách tài chính tiền tệ được hạn chế chặt chẽ.

Trên thực tế ở Séc, Hunggary, Ba Lan và Xlôvakia không phụ thuộc vào những người theo chủ nghĩa tự do hay những người dân chủ xã hội lãnh đạo chính phủ, vẫn đang thực hiện việc điều chỉnh một cách có hệ thống, không chỉ khối lượng tiền tệ mà còn cả một phần giá cả, những thu nhập cá nhân và tỷ giá tiền tệ của nhà nước. Ở các nước nói trên vẫn đang chăm chú theo dõi sự phối hợp chặt chẽ và sự hiệp đồng với nhau của sự tác động của nhà nước theo tất cả bốn hướng đế cuối cùng đạt được hiệu quả ổn định rõ rệt.

Từ kinh nghiệm của Nga và các nước Đông Âu có thể rút ra các bài học khác. Chẳng hạn nó chứng tỏ rằng trong khi các điều kiện khác ngang nhau thì nhịp độ của cái gọi là lạm phát biến đổi cao hơn nhịp độ của lạm phát vốn là đặc tính của nền kinh tế thị trường. Điều này được giải thích bằng tính chất không hoàn thiện của sự hình thành các quan hệ sở hữu mới, bằng tính chất xung đột của các quan hệ phân phối, bằng sự mất cân đối về cơ cấu được thừa hưởng.

Qua thực tế ở Nga và các nước Đông Âu cùng chỉ rõ mối quan hệ trực tiếp giữa sự giảm tốc độ lạm phát và sự hồi phục hoạt động kinh tế. Thực tiễn sản xuất trong nền kinh tế quá độ đã dẫn đến một kết luận là cả việc giảm nhu cầu tiền tệ một cách tổng hợp bằng mọi giá lẫn mở rộng một cách giả tạo đều không bảo đảm cho ổn định nền kinh tế vĩ mô. Sự ổn định đó chỉ có khả năng đạt được kết quả khi các cuộc cải cách hệ thống được quản lý, các biện pháp được sử dụng có tính chất đồng bộ và bổ sung lẫn nhau. Điều quan trọng ở đây cần tránh là: Sự cách biệt không thể chấp nhận về mặt xã hội giữa thu nhập của người giàu với người nghèo, sự dư thừa cũng như sự khan hiếm khối lượng tiền tệ, sự vô chủ của sở hữu nhà nước, sự coi thường khả năng điều chỉnh cục bộ có tính chất hành chính, đặc biệt là các tổ chức độc quyền tự nhiên, sự mở cửa nền kinh tế ra bên ngoài theo liệu pháp sắc, sự coi thường cuộc đấu tranh chống tham nhũng và tội phạm. Kinh nghiệm thành công của Nga và các nước Đông Âu đã ngăn chặn được việc sử dụng rộng rãi các ngoại tệ cứng trong lưu thông trong nước, áp dụng tỷ giá ngoại tệ cố định ngay từ đầu quá trình tự do hóa và coi đó như cái neo để kiềm chế lạm phát.

Nghiên cứu so sánh công cuộc cải cách kinh tế thị trường ở Liên bang Nga và các nước Đông Âu thấy rằng, đây là quá trình diễn ra cực kỳ khó khăn và phức tạp, công cuộc cải cách này được tiến hành một cách toàn diện trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế - xã hội. Mục tiêu nhằm xây dựng nền kinh tế thị trường theo mô hình dân chủ phương Tây.

Nội dung chính của công cuộc cải cách kinh tế là chuyển nền kinh tế kế hoạch tập trung sang nền kinh tế thị trường. Các biện pháp chủ yếu được thực hiện ở các nước về cơ bản là giống nhau đó là những biện pháp cải cách trong lĩnh vực tài chính tiền tệ, cải cách sở hữu và tự do hóa hoạt động kinh tế Tuy nhiên trong mỗi nước các hình thức thực hiện cụ thể không hoàn toàn giống nhau, xuất phát từ điều kiện cụ thể của đất nước và sự lựa chọn biện pháp của Chính phủ.

 


[1] Xem Đỗ Tiến Sâm, Hoàng Thế Anh: Kinh nghiệm cải cách thể chế của Trung Quốc và bài học đối với Việt Nam, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, 2014.

[2] Đỗ Tiến Sâm, Hoàng Thế Anh: Kinh nghiệm của cách thể chế của Trung Quốc và bài học đối với Việt Nam, Sđd.

Đăng ký nhận email

Đăng ký email để có thể có được những cập nhật mới nhất về tải liệu được đăng tải trên website

Tập san đã phát hành