Thứ ba, 08 Tháng 8 2023 02:23

Phân tích sự phát triển thể chế kinh tế thị trường tại một số nước Đông Âu

1. Bối cảnh và giai đoạn phân tích

Vào cuối thập kỷ 1980 đầu thập kỷ 1990, hầu hết các nước Đông Âu đều lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế, chính trị cực kỳ sâu sắc. Trên thực tế đây không chỉ là những khó khăn riêng của các nước Đông Âu, mà là thời kỳ khủng hoảng của cả hệ thống xã hội chủ nghĩa. Cải tổ được tiến hành ở Liên Xô từ năm 1985 không thành công càng đẩy nhanh sự sụp đổ của hệ thống chính trị xã hội ở các nước này.

Bức tường Béclin sụp đổ năm 1989 đã đánh dấu sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu và là giai đoạn chuyển đổi của toàn hệ thống ở các nước này. Ở Ba Lan, tháng 9/1989, Chính phủ mới được thành lập. Tháng 10/1989, chế độ đa đảng được thừa nhận ở Hungari, đến tháng 3/1990 phe đối lập với Đảng Cộng sản đã giành được thắng lợi trong bầu cử. Ở Rumani, tháng 12/1989, chế độ cai trị của Ceausescu đã bị lật đổ, Chính phủ giải phóng dân tộc được thành lập. Ở Xlôvakia, tháng 11/1989, phong trào đấu tranh của nhân dân và sinh viên chống lại Chính phủ mạnh mẽ và đến tháng 6/1990 thắng lợi trong cuộc bầu cử Quốc hội đã không thuộc về Đảng Cộng sản. Ở Bungari, tháng 01/1990 vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản bị bãi bỏ, đến tháng 6/1990 đã tiến hành cuộc bầu cử Quốc hội tự do.

Như vậy, vào cuối những năm 1989 và đầu năm 1990, các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu đã diễn ra những đảo lộn về chính trị - xã hội và các nước này đều chính thức bắt tay vào cải cách nhằm xây dựng xã hội dân chủ, đa đảng, nền kinh tế thị trường.

Xét về mặt thời gian, các nước Đông Âu bắt tay vào công cuộc cải cách thị trường ở các nước này trong những năm 1990 đạt kết quả tốt hơn so với Liên bang Nga. Thực ra, ở các nước Đông Âu đã xuất hiện những cải cách mang tính thị trường từ sớm hơn và được phát triển mạnh mẽ vào cuối những năm 1980. Hungari là nước đầu tiên tiến tới kinh tế thị trường. Luật Phá sản đã được thông qua từ năm 1984, sau đó có một loạt những thay đổi trong lĩnh vực ngân hàng, Luật Công ty thông qua năm 1988 và Luật Chuyển đổi các xí nghiệp quốc doanh thông qua năm 1989. Đặc biệt năm 1988 Hungari cho phép các thành phần kinh tế khác nhau cùng tồn tại, kể cả sở hữu tư nhân. đến ngày 01/01/1989 thừa nhận sở hữu của nước ngoài trong nền kinh tế.

Ở Ba Lan, năm 1989 tình hình nhìn chung rất ảm đạm. Về kinh tế bước đầu hình thành chương trình chuyển đổi thể chế liên quan tới việc phân phối lại đầu tư đối với khu vực hàng hóa tiêu dùng và đầu tư ngân sách đối với khu vực xã hội như nhà ở, đồng thời với việc kiểm soát giá cả chống lạm phát. Tuy nhiên, làm phát tăng nhanh do thâm hụt ngân sách lớn, nợ trong nước quá lớn, sự suy giảm thanh toán hiện hành, mất cân đối giữa cung và cầu. Ngày 01/01/1990, chương trình ổn định đã được soạn thảo và được biết tới dưới tên gọi “liệu pháp sốc”.

Ở Séc và Xlôvakia, công cuộc cải cách tiến hành chậm hơn do tình hình kinh tế thời gian này khá hơn so với các nước khác, song liệu pháp sốc cũng được lựa chọn để thực hiện trong cải cách thị trường ở các nước này. Bungari và Rumani cải cách bắt đầu chậm hơn, được tiến hành năm 1991-1992 và bị cản trở nhiều bởi sự không thống nhất về đường lối cải cách.

Tóm lại, công cuộc cải cách thị trường ở các nước Đông Âu đã có những dấu hiệu từ trước khi các nước này làm vào khủng hoảng. Vào cuối những năm 1989 đầu năm 1990, các nước Đông Âu đều bắt tay vào cải cách toàn diện, triệt để, nhằm chuyển đất nước từ nền kinh tế kế hoạch sang nền. kinh tế thị trường, thông qua những biện pháp cứng rắn nhằm thay đổi tận “gốc rễ” cơ chế quản lý cũ. Dưới đây sẽ tập trung phân tích những cải cách chủ yếu diễn ra ở các nước Đông Âu trên ba lĩnh vực tài chính, tiền tệ, tư nhân hóa và kinh tế đối ngoại.

2. Cải cách trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ

Cải cách trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ là một trong những nội dung quan trọng và là bước đi đầu tiên trong quá trình cải cách thị trường ở các nước Đông Âu cũng như ở Liên bang Nga. Nhìn chung, ở hầu hết các nước Đông Âu đều bắt tay vào cải cách thông qua “liệu pháp sốc” như tự do hóa giá cả, tự do hóa nội ngoại thương, tiến hành tư nhân hóa. Việc áp dụng “liệu pháp sốc" với bước đột phá là tự do hóa giá cả là điểm khởi phát quan trọng trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ. Những năm đầu quá trình cải cách hầu hết các nước Đông Âu đều trong tình trạng tài chính, tiền tệ bất ổn định, thiếu hụt ngân sách, lạm phát cao, hệ thống ngân hàng khủng hoảng.

Về cải cách ngân hàng, nhu cầu cải cách ngân hàng trong cải cách triệt để lĩnh vực tài chính chỉ được thừa nhận khi mà ngân hàng và các tổ chức tài chính hiện có khác đã thực sự rơi vào khó khăn trên con đường chuyển đổi từ nền kinh tế kể hoạch sang nền kinh tế thị trường.

Thứ nhất, hạn chế chủ yếu của cơ cấu tài chính là thiếu nhiều tổ chức tài chính trung gian (quỹ hưu, quỹ cổ phần, tín dụng chuyên ngành và các quỹ tiết kiệm, công ty bảo hiểm, thị trường chứng khoán...) và bị phụ thuộc quá mức vào một số ít khách hàng.

Thứ hai, các ngân hàng mới thành lập không có đủ lực và kinh nghiệm để không cấp tín dụng cho các công ty, tổ chức không có khả năng thanh toán, nhưng do không có sự đổi mới trong các ngân hàng nhà nước nên họ tiếp tục “vết trượt” cũ phân phổi tín dụng. Sự yếu kém về cơ chế kiểm soát của ngân hàng là: Ngân hàng Trung ương các nước Đông Âu đã duy trì một sự tiếp cận khá lý tưởng về chính sách tự do cấp giấy phép kinh doanh của ngân hàng trong sự kết hợp phần trăm tiền đặt cọc cao và (thỉnh thoảng) dòng chảy tín dụng đủ để làm thay đổi hoạt động ngân hàng thương mại.

Thứ ba, có nhiều vụ bê bối tài chính ở các ngân hàng cho thấy chất lượng điều hành ngân hàng, kiểm soát từ ngân hàng trung ương và các cơ quan luật pháp cần phải thực hiện tốt hơn. Những vụ bê bối không chỉ làm lung lay nền tảng của nhiều ngân hàng thương mại và ảnh hưởng tiêu cực đến khách hàng của họ mà còn làm tổn hại đến lòng tin của xã hội vào hệ thống thị trường trong mục tiêu cải cách.

Thứ tư, vấn đề nợ xấu đã từng được thảo luận tích cực ở các nước Đông Âu. Mọi hoạt động và giải pháp lâu dài vấn đề này cần có hai loại sáng kiến. Trước hết phải cắt giảm những khoản đầu tư chứng khoán thua lỗ để thoát khỏi khoản nợ này bằng cách cải tổ lại toàn bộ kế hoạch tài chính. Sau đó không được để tái xuất hiện nợ xấu. Làm gì để thay đổi cơ bản các tổ chức kinh tế. Đó là mục tiêu lâu dài, phải có những bước triệt để trong cơ cấu hoạt động quản lý của ngân hàng và các đơn vị sản xuất.

Về quá trình hình thành và phát triển thị trường tài chính ở các nước Đông Âu, trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung ở các nền kinh tế Đông Âu trước đây không có chỗ cho thị trường tài chính vốn được huy động và phân bổ chủ yếu thông qua các chỉ thị của chính phủ. Khu vực ngân hàng chỉ thực hiện vai trò chủ yếu là các trung gian trong lĩnh vực thanh toán. Việc huy động và phân bổ vốn theo cơ chế này kém hiệu quả. Nó mang nhiều tính chủ quan, vì thế không phản ánh được tính khan hiếm của vốn.

Trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường đòi hỏi phải xây dựng một hệ thống tài chính mới, hoạt động trên cơ sở lãi suất cạnh tranh và giảm bớt các hình thức điều tiết trực tiếp để có thể phản ánh được tính khan hiếm của vốn. Đây là nhiệm vụ cấp thiết. Hiệu quả của nền kinh tế thị trường phụ thuộc vào hiệu quả của thị trường tài chính bởi các thị trường tài chính được coi là mạch máu của nền kinh tế thị trường. Nếu các thị trường tài chính hoạt động kém hiệu quả, các xí nghiệp sẽ không đủ vốn để thực hiện quá trình đầu tư và sản xuất. Ngoài ra, vốn còn cần thiết ở các nước Đông Âu để thực hiện các cải cách cơ cấu ở các xí nghiệp trước khi thực hiện tư nhân hóa chúng.

Sự hình thành và phát triển của các thị trường tài chính ở các nước Đông Âu trong giai đoạn đầu của quá trình cải cách không đi theo mô hình Ăng lô - Vắc xông như của các nước Anh và Mỹ - mô hình mà trong đó vai trò của thị trường chứng khoán phát triển và các trung gian tài chính chuyên nghiệp trong việc cung cấp vốn cho các doanh nghiệp được đề cao. Các nước Đông Âu ngược lại dựa chủ yếu vào các ngân hàng đa năng có quy mô lớn. Với đặc trưng của mô hình thị trường tài chính ở các nước Đông Âu, các vấn đề phải giải quyết trong giai đoạn đầu của quá trình xây dựng một hệ thống tài chính thị trường vững mạnh chủ yếu xoay quanh việc thực hiện các cải cách cơ cấu đối với khu vực ngân hàng.

Về nợ khó đòi của các xí nghiệp và khu vực ngân hàng trong giai đoạn đầu của quá trình chuyển đổi ở các nước Đông Âu, mặc dù các cải cách ngân hàng đóng vai trò quan trọng đối với quá trình chuyển đổi nói chung, trong giai đoạn đầu của công cuộc cải cách ở các nước Đông Âu, các nhà hoạt động chính sách đã ít quan tâm tới việc phát triển khu vực tài chính, mà lại chú trọng hơn tới các cải cách ở các khu vực thực của nền kinh tế. Sự chậm trễ trong việc phát triển thị trường tài chính ở các nước Đông Âu một phần là do ảnh hưởng của học thuyết Mác xít trước đây. Người ta cho rằng, khu vực sản xuất (trong đó vấn để sở hữu và động cơ lao động sản xuất là quan trọng nhất) là yếu tố quyết định đến sự hoạt động của nền kinh tế, còn khu vực trao đổi thì không. Chính vì thế, vấn đề được quan tâm nhất ở các nền kinh tế chuyển đổi Đông Âu trong giai đoạn đầu của quá trình cải cách là vấn đề tư nhân hóa. Các nhà cải cách vào thời gian này cũng không nhận thức một cách đầy đủ rằng, sự phát triển thị trường tài chính là một phần không thể thiếu được của quá trình chuyển đổi và phải được tiến hành ngay từ đầu bởi nó có mối liên hệ chặt chẽ với việc ổn định môi trường kinh tế vĩ mô.

Bởi vậy trong những năm đầu của quá trình chuyển đổi các cải cách thị trường tài chính chỉ giới hạn trong khuôn khổ chuyển đổi hệ thống ngân hàng đơn cấp sang hệ thống ngân hàng hai cấp, thành lập thêm một số ngân hàng tư nhân. Các thị trường chứng khoán cũng được thành lập nhưng chúng không đóng vai trò đáng kê trong việc huy động vốn và phân bổ vốn (ở Ba Lan, thị trường chứng khoán bắt đầu hoạt động từ ngày 02/7/1991).

Do công việc phát triển thị trường tài chính ở các nước Đông Âu được tiến hành muộn, mà hệ thống tài chính của các nước này đã gặp phải một số những vấn đề. Những cải cách nhằm nâng cao chất lượng của hệ thống ngân hàng chỉ diễn ra khi người ta nhận thấy rằng, khu vực tài chính yếu kém đã trở thành một trong những cản trở chính đối với quá trình chuyển đổi.

Vấn đề lớn nhất là sự gia tăng của các khoản nợ khó đòi và kèm theo là khả năng thanh toán yếu kém của ngân hàng. Vấn đề này tồn tại ngay từ những năm tháng đầu tiên của công cuộc cải cách. Các chính phủ đầu tiên đã giải quyết bằng cách xóa nợ nhưng chỉ đem lại những kết quả hạn chế và ngắn hạn. Trong những năm 1992-1994 một cuộc khủng hoảng nợ mới giữa các xí nghiệp với nhau và với các ngân hàng tiếp tục xảy ra.

Sự gia tăng các khoản nợ khó đòi một phần là do các ngân hàng còn thiếu kinh nghiệm, vì thế đã cho các khách hàng không có khả năng trả nợ vay. Các ngân hàng trước đây chưa hề thực hiện vai trò là người thẩm định khả năng thanh toán của các khách hàng. Mức độ phổ cập các nghiệp vụ ngân hàng cho các nhân viên còn thấp. Ngoài ra, các kết cấu hạ tầng pháp lý để kiểm tra, giám sát các khách hàng còn chưa tốt. Các thông tin về lịch sử vay mượn của các xí nghiệp cũng ít bởi các xí nghiệp mới được thành lập.

Các điều kiện kinh tế vĩ mô bất ổn định như lạm phát cao cũng là những nguyên nhân dẫn đến các khoản nợ khó đòi vì chúng gây ra những sai lệch, méo mó về thông tin và ảnh hưởng tiêu cực đến các dự tính của các ngân hàng và các khách hàng.

Nguyên nhân quan trọng hơn là việc thành lập các ngân hàng mới và chính sách cho vay của các ngân hàng không kiểm soát chặt chẽ. Các ngân hàng trung ương của các nước Đông Âu cho rằng, chỉ cần lãi suất cao và trần tín dụng là đủ để thay đổi hành vi của ngân hàng. Tuy nhiên, nhiều ngân hàng vẫn hoạt động trong điều kiện ngân sách mềm. Do các ngân hàng này được chính phủ trợ giúp khi xuất hiện các khoản thiếu hụt, chúng không có trách nhiệm trong việc mở rộng tín dụng và thực hiện các khoản cho vay có độ rủi ro cao bởi chúng không sợ phá sản.

Tuy nhiên, cần phải thấy rằng, sự tồn tại của một phần các khoản nợ khó đòi là hậu quả tất yếu đối với quá trình chuyển đổi. Trong khi nền kinh tế còn tồn tại các xí nghiệp với khả năng cạnh tranh thấp so với các công ty nước ngoài và bị thua lỗ thì các khoản nợ khó đòi là không thể tránh khỏi. Hơn nữa, việc các xí nghiệp này do ảnh hưởng của cơ chế cũ, coi các khoản tín dụng không như các khoản nợ và sử dụng chúng vô trách nhiệm, là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến các khoản nợ khó đòi.

Một vài chính sách của chính phủ cũng là nguyên nhân gây nên các khoản nợ khó đòi. Việc áp dụng liệu pháp sốc với chính sách tiền tệ thắt chặt ở nhiều nước đã làm vấn đề trở nên trầm trọng hơn. Phương án cải cách này đã thu hẹp tổng cầu một cách đáng kể và đẩy các xí nghiệp và cùng với chúng là các ngân hàng vào tình trạng khó khăn. Thêm vào đó, các ngân hàng còn phải chịu gánh nặng tài trợ cho những cải cách cơ cấu ở các xí nghiệp để chuẩn bị cho quá trình tư nhân hóa, cấp tín dụng cho các doanh nghiệp được coi là tầm chiến lược theo yêu cầu của chính phủ.

Đi cùng với các khoản nợ khó đòi là lãi suất cho vay cao và sự hạn chế tín dụng đối với nhiều doanh nghiệp. Điều này xảy ra là do phản ứng của các ngân hàng thương mại để tự bảo vệ mình khỏi những rủi ro tiếp theo. Lãi suất cao còn do mức đòi hỏi dự trữ lớn đã nâng chi phí đối với những khoản đi vay của các ngân hàng, các khoản vay trên thị trường của chính phủ để tài trợ cho thâm hụt ngân sách. Các ngân hàng cũng đã đặt ra các đòi hỏi cao về tài sản thế chấp mà nhiều doanh nghiệp không thể đáp ứng. Các ngân hàng muốn cho chính phủ vay hơn là cho các công ty vay.

Chính khả năng nhận được tín dụng trong nước thấp, các công ty đã tiếp cận với các nguồn vốn nước ngoài với giá rẻ hơn và nợ nước ngoài của các công ty tăng mạnh. Ngoài ra, hiện tượng tham nhũng, lạm dụng quyền hạn của các nhà quản lý ngân hàng cũng tạo nên những hậu quả nhất định. Các vụ bê bối trong khu vực ngân hàng của các nước như Hunggari, Ba Lan, Séc... thường xuyên xảy ra. Tuy nhiên, cơ sở pháp lý, hệ thống khuyến khích các nhà quản lý ngân hàng vẫn còn yếu kém.

Đối với cải cách cơ cấu và việc giải quyết khoản nợ khó đòi ở các nước Đông Âu, về mặt lý thuyết có ba cách giải quyết vấn đề nêu trên. Các phương án này chỉ khác nhau ở điểm cơ bản là: ai là người được xóa nợ.

Việc xóa nợ cho các xí nghiệp chỉ có thể làm được khi chúng chiếm một phần nhỏ trong cơ cấu tài sản có của các ngân hàng. Trong trường hợp ngược lại sẽ gây nên một cuộc khủng hoảng ngân hàng theo phản ứng dây chuyền. Phương án thứ hai là tuyên bố các xí nghiệp mắc nợ bị phá sản. Phương án này gặp khó khăn ở các nước Đông Âu do số lượng các xí nghiệp này quá lớn. Nếu phương án này được áp dụng, những thiệt hại về sản lượng và việc làm sẽ là một cái giá quá lớn về chính trị xã hội. Cách giải quyết thứ ba (ít cấp tiến hơn) là sự can thiệp trực tiếp của chính phủ thông qua ngân sách trong khuôn khổ chương trình cơ cấu lại nợ. Trên thực tế, cả ba cách giải quyết được áp dụng ở các nước Đông Âu nhưng với các mức độ khác nhau tùy vào hoàn cảnh của mỗi nước. Mặc dù vậy, phương án thứ ba được áp dụng rộng rãi ở nhiều nước.

Các khoản cứu trợ của chính phủ, mặc dù chưa đủ do ngân sách có hạn và không phải lúc nào cũng theo tiêu chí đáng tin cậy, đã có những tác động tích cực tới việc cơ cấu lại các xí nghiệp để chuẩn bị cho quá trình tư hữu hóa. Chính sách này đặc biệt có vai trò lớn ở các nước mà các ngân hàng của nó không thể tự cơ cấu hóa được do những khó khăn riêng của mình.

Tuy nhiên, chính sách cứu trợ cũng chứa đựng nhiều vấn đề cần giải quyết, trong đó chủ yếu là sự ỷ lại và lạm dụng của các ngân hàng và các xí nghiệp. Ở Hungari, các ngân hàng sau khi nhận được trợ giúp vẫn không xóa các khoản thua lỗ ngay lập tức. Ở Bungari, các nguồn trợ giúp của Chính phủ không kèm theo yêu cầu hạn chế mở rộng tín dụng, do đó, khi các khoản trợ giúp không còn nữa, các ngân hàng lại rơi vào khó khăn chống chất. Điều này buộc Chính phủ Bungan phải tiến hành biện pháp cứng rắn như ngừng cứu trợ cho 12 ngân hàng thương mại lớn nhất, thu hẹp trợ cấp cho 60 công ty nhà nước, đóng cửa hơn 100 xí nghiệp quốc doanh.

Các cải cách cấp tiến theo phương án thứ nhất và thứ hai, ngoài Bungari cũng được áp dụng ở nhiều nước khác. Chính phủ Hungari và Ba Lan đã cố gắng sử dụng cơ chế phá sản ở quy mô lớn. Tuy nhiên, cơ chế này không giải quyết được vấn đề do thủ tục phá sản quá đơn giản. Trong Luật Phá sản của các nước này đã đề cao tầm quan trọng của việc tự thỏa thuận trực tiếp giữa các con nợ và chủ nợ mà không cần đến tòa án. Điều này khó được thực hiện bởi các ngân hàng chủ nợ thường có quan hệ chặt chẽ với các xí nghiệp hoặc trực tiếp là người điều hành chúng. Thêm vào đó, các chính phủ không thể cho phép các xí nghiệp được coi là có tầm chiến lược, mặc dù chúng là những con nợ lớn nhất.

Phương án cơ cấu lại các ngân hàng được tiến hành mạnh mẽ nhất ở Ba Lan và Bungari. Theo phương án này, các cải cách tài chính, nhân sự, cơ sở vật chất... do các ngân hàng đam nhiệm.

Ở Bungari trước khi áp dụng các cải cách này là quá trình sáp nhập các ngân hàng, tăng vốn của chúng và đưa vào thực thi các quy tắc điều tiết hoạt động của các ngân hàng. Tuy nhiên, do các cải cách không được tiến hành triệt để, khủng hoảng ngân hàng đã xảy ra vào đầu năm 1996 mặc dù trước đó chúng đã đem lại một số kết quả tích cực.

Cải cách cấp tiến được tiến hành mạnh nhất ở Ba Lan do các đạo luật kinh tế và thị trường chứng khoán của nước này phát triển hơn cả. Các khoản nợ vì thế có thể đổi lấy một phần cổ phần của các xí nghiệp mắc nợ hoặc bán trên thị trường chứng khoán.

Vấn đề các khoản nợ khó dài ở các nước Đông Âu (Bungari, Hungari và Xlôvakia) còn được giải quyết thông qua việc lôi kéo các xí nghiệp lớn và có khả năng cạnh tranh cao vào quá trình cơ cấu bằng cách dóng cửa và tư nhân hóa thật nhanh các xí nghiệp không có triển vọng.

Như vậy, việc giải quyết các khoản nợ khó đòi ở các nước Đông Âu là một quá trình lâu dài, phức tạp với nhiều hình thức xử lý có tính chất bổ sung nhau. Những nỗ lực của các chính phủ, các ngân hàng và các xí nghiệp đều quan trọng Kinh nghiệm cải cách của các nước Đông Âu cũng cho thấy rằng, người có lỗi chính trong việc tạo ra các khoản nợ khó đòi không chỉ là các xí nghiệp mà còn có cả ngân hàng. Bởi vậy, các cải cách ở khu vực này cũng phải được tiến hành ngay từ đầu quá trình chuyển đổi. Một hệ thống ngân hàng lành mạnh với khả năng thu hút tiết kiệm của dân chúng cao sẽ là điều kiện thuận lợi để thực hiện quá trình cai cách cơ cấu các xí nghiệp sản xuất. Mặc dù vậy, không thể phủ nhận rằng, sự lành mạnh của các ngân hàng cũng phụ thuộc vào hiệu quả của các xí nghiệp.

Đối với những vấn đề cải cách thị trường tài chính trong giai đoạn sau của chuyển đổi tại các nước Đông Âu, các biện pháp giai quyết vấn đề nợ khó đòi nói trên, mặc dù rất cần thiết, chỉ là các biện pháp ngắn hạn. Chúng liên quan tới các khoản nợ đã và đang tồn tại. Tuy nhiên, thị trường tài chính ở các nước Đông Âu chỉ có thể lành mạnh khi không còn phát sinh thêm các khoản nợ khó đòi mới. Điều này chỉ có thể đạt được khi các quyết định về tín dụng được đưa ra trên cơ sở các luận chứng kinh tế vững chắc.

Muốn vậy, công việc đầu tiên sau khi giải quyết tạm ổn các khoản nợ khó đòi cũ là phải xây dựng được một cơ chế khuyến khích hiệu quả đối với các nhà quản lý ngân hàng để họ làm việc vì quyền lợi của ngân hàng chứ không phải vì quyền lợi riêng của mình. Tư nhân hóa các ngân hàng là phương án mà theo nhiều người cho rằng, sẽ đem lại các động cơ đúng đắn để các nhà quản lý ngân hàng làm việc tích cực theo hướng này. Tuy nhiên, công việc này đòi hỏi nhiều thời gian. Quá trình tự nhân hóa các ngân hàng gặp nhiều khó khăn hơn quá trình từ nhân hóa các xí nghiệp sản xuất.

Khó khăn thứ nhất nằm ở việc định giá các tài sản của các ngân hàng, đặc biệt là ở các ngân hàng mà các xí nghiệp nợ chúng lại chuẩn bị tư nhân hóa. Khó khăn thứ hai là vấn đề vốn để mua các ngân hàng quá lớn. Vốn ở trong nước ít vì quá trình tích lũy mới bắt đầu. Sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài lại hạn chế, một phần là do các lý do chính trị, phần khác là do họ cho rằng khó có thể hội nhập vào hệ thống tài chính ở các nước Đông Âu bởi các luật lệ khác nhau. Các nhà đầu tư nước ngoài muốn mở các chi nhánh của mình hơn là mua những ngân hàng đang hoạt động với chồng chất khó khăn.

Thị trường tài chính ở các nước Đông Âu trong giai đoạn đầu của quá trình cải cách dựa nhiều vào các ngân hàng đa năng có quy mô lớn và có vị thế độc quyền. Tuy nhiên, trong tương lai hiệu quả của việc thu hút và phân bổ vốn sẽ phụ thuộc vào chính sách thúc đẩy cạnh tranh của chính phủ. Sự gia tăng của cạnh tranh sẽ bảo đảm mức lãi suất hợp lý và mức tín dụng tối đa. Khuynh hướng hạn chế cạnh tranh tổn tại ở tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế. Đối với các ngân hàng khuynh hướng này thường mạnh hơn. Danh tiếng là một trong các yếu tố quan trọng mang lại lợi nhuận cho các ngân hàng bởi chúng hoạt động trên cơ sở lòng tin. Nhưng để có được danh tiếng đòi hỏi phải hạn chế số lượng các ngân hàng có khả năng cạnh tranh. Chính sách thúc đẩy cạnh tranh đòi hỏi phải hạ bớt rào cản đối với việc thành lập các ngân hàng mới. Tuy vậy, điều này có thể gây nên sự bất ổn định khi các ngân hàng mới không đủ độ tin cậy. Chính phủ của các nước Đông Âu vì thế phải lựa chọn mức độ thích hợp.

Điều kiện tiếp theo để bảo đảm sự hoạt động có hiệu quả của các ngân hàng nói riêng và hệ thống tài chính nói chung là phải có một hệ thống các thể chế vững chắc. Điều này rõ ràng là thiếu ở các nước Đông Âu. Thị trường tài chính ở các nước này mới chỉ là thị trường đang phát triển và cuộc kháng hoang ở các nước châu Á, Nga, Braxin cho thấy tầm quan trọng của các thể chế tài chính thị trường này. Trong giai đoạn hiện tại, các nước Đông Âu cần phải tiếp tục củng cố lại các cơ sở pháp lý (các đạo luật về phá sản, các quy tắc về an toàn tín dụng, công tác kiểm toán, kế toán...). Các quy tắc này sẽ giúp các chính phủ thực hiện hiệu quả quá trình kiểm soát sự hoạt động của các ngân hàng. Chúng cho phép các cơ quan kiểm soát sớm phát hiện ra yếu kém của các tổ chức tài chính và áp dụng các biện pháp xử lý kịp thời.

Một công việc không kém phần quan trọng trong việc xây dựng và phát triển thị trường tài chính vững mạnh mà các nước Đông Âu phải làm là thiết lập và hoàn hiện cơ chế bảo hiểm tín dụng. Cơ chế này là điều kiện tiên quyết để ngăn ngừa khủng hoảng vì chúng giúp cho việc giữ vững lòng tin của những người gửi tiết kiệm đối với hệ thống tài chính, mặc dù nó cũng có những mặt tiêu cực như giảm động cơ giám sát của những người gửi tiền, tăng mức rủi ro đạo đức mà các tổ chức tiền gửi có thể gây ra...

Phát triển các loại hình trung gian tài chính cũng là việc mà các nước Đông Âu đang làm để nâng cao hiệu quả của các thị trường tài chính. Mặc dù các nước này trong giai đoạn đầu của quá trình cải cách không đi theo mô hình Ăng lô-Xắc xông, nhưng họ cũng nhận thấy rằng theo mô hình Ăng lô-Xắc xông này tận dụng được các lợi thế mà quá trình chuyên môn hóa đem lại. Chẳng hạn, các quỹ tương hỗ quan tâm nhiều đến vấn để phân tán rủi ro, các ngân hàng đầu tư lại thực hiện chức năng chủ yếu là lựa chọn những người vay có khả năng trả được nợ...

Như vậy, thị trường tài chính ở các nước thông Âu trong giai đoạn ban đầu của chuyển đổi đã hoàn thiện những thể chế quan trong, tạo nên tảng đô thị trưởng tài chính các nước này hoạt đông hiệu quả. Tuy nhiên, ở các mức độ khác nhau, các nước đã có những vấp váp, khó khăn nhất định và trong giai đoạn sau của chuyển đổi, chính phủ các nước Đông Âu còn phải làm nhiều việc để thị trường tài chính của các nước này trở nên có hiệu quả và vững chắc (cả việc giải quyết các hậu quả mà quá trình chuyển đổi mang đến lẫn việc xây dựng các nền tảng của hệ thống tài chính mới theo cơ chế thị trường).

3. Tư nhân hóa ở các nước Đông Âu

Sau khi bức tường Bélin sụp đổ vào cuối năm 1989, ở tất cả các nước Đông Âu đều chuyển sang giai đoạn phát triển mới - Giai đoạn cải cách kinh tế triệt để và chuyển sang nền kinh tế thị trường. Một trong những nội dung cơ bản của công cuộc cải cách này là tiến hành tư nhân hóa.

Từ cuối những năm 1980, các nước ở Đông Âu rơi vào khủng hoảng kinh tế, chính trị - xã hội sâu rộng. Các đảng cầm quyền khởi xướng cải cách chuyển nền kinh tế sang cơ chế thị trường hiện đại theo mô hình các nước phương Tây. Thời điểm tiến hành tư nhân hóa khác nhau ở từng nước, Hungari bắt đầu từ năm 1989. Ba Lan bắt đầu năm 1990, Séc và Xlôvakia bắt đầu năm 1990. Sự phân tích quá trình tư nhân hóa ở các nước Đông Âu chứng minh một điều rằng, trong lĩnh vực này đang đạt được những tiến bộ không nhỏ, đặc biệt là ở những nước xem xét việc tiến hành tư nhân hóa một cách thận trọng. Trên thực tế, quá trình tư nhân hóa nhỏ được thực hiện một cách gọn nhẹ bao nhiêu thì tư nhân hóa lớn lại khó khăn và phức tạp bấy nhiêu. Chỉ trong vòng 1 - 2 năm các nước này đã hoàn thành về cơ bản việc chuyên giao cho tư nhân các cửa hàng, cửa hiệu bán lẻ, các xí nghiệp quy mô nhỏ. Tư nhân hóa lớn diễn ra hết sức chậm chạp mặc dù các chính phủ đã có những nỗ lực to lớn để thúc đẩy quá trình này. Có nhiều lý do dẫn đến sự chậm trễ này, trong đó phải kể đến sự thận trọng cần thiết của các chính phủ trong việc tìm kiếm những giải pháp cụ thể, thích hợp vì nếu nóng vật có thể dẫn đến những hậu quả kinh tế - xã hội không lường trước được bắt nguồn từ tính chất phức tạp của bản thân văn để. Nếu như tư nhân hóa các xí nghiệp công ở các nước phát triển chỉ là sự chuyển việc xuất vốn từ nhà nước sang tư nhân thì ở các nước Đông Âu vấn đề không chỉ dừng lại ở đó mà còn phải giải quyết hàng loạt những vấn đề có liên quan đến chính sách vĩ mô, đến việc tạo lập những yếu tố của kinh tế thị trường mà hiện thời ở nhiều nước mới đang trong giai đoạn bắt đầu. Mặt khác, số lượng những xí nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ không phải là ít, mà việc tư nhân hóa những xí nghiệp này, đặc biệt dưới dạng cổ phần hóa là rất khó khăn. Trên thực tế, những quan niệm đầu tiên về khả năng thay đổi sở hữu nhà nước một cách nhanh chóng và khắp mọi lĩnh vực đã không thực hiện được. Ý định tư nhân hóa ồ ạt, bằng mọi giá đã biến thành sự phân chia tài sản nhà nước một cách tự phát không kiểm soát được và thực tế đã biến thành bán tháo tài sản đó. Những vấn đề này đã được các nước Đông Âu nhận thức kịp thời.

Tư nhân hóa nhỏ đã được tiến hành rất có hiệu quả, các doanh nghiệp thương mại, ăn uống công cộng và các lĩnh vực đặch vụ phần lớn đã được bán lấy những “đồng tiền tươi" để bố sung cho ngân sách trung ương và địa phương. Tư nhân hóa nhỏ được thực hiện có chú ý đến lợi ích của người tiêu dùng hơn ở Nga. Ví dụ để ngăn ngừa chuyển hướng hoạt động của cơ sở được mua sang hoạt động có lợi nhuận cao nhưng ít có ý nghĩa về mặt xã hội hơn, thì trong luật về tư nhân hóa nhỏ ở Séc và Xlôvakia đã đưa vào một chương riêng về nghĩa vụ của chủ mới. Trong đó quy định rằng, người chủ sở hữu của các cô sở tư nhân hóa trong vòng hai năm chỉ có thể bán nó cho công dân của nước mình. Nếu như một cửa hàng thực phẩm được mua trong cuộc bán đấu giá thì hoạt động của nó cần được khôi phục lại trong vòng 7 ngày kể từ khi mua và chuyên môn hóa được giữ lại tối thiểu là 2 năm.

Do những nguyên nhân đã nói ở trên, việc tư nhân hóa lớn ở các nước Đông Âu diễn ra hết sức chậm chạp và với hiệu quả thấp hơn mong đợi. Không thể có số liệu chính xác về số lượng các xí nghiệp được tư nhân hoá, ngoại trừ Hungari, bởi vì ở mọi nơi các xí nghiệp thương mại hóa đều được thống kê vào đây, tức là gồm các xí nghiệp vẫn còn thuộc sở hữu nhà nước hay sở hữu nhà nước chiếm ưu thế nhưng đã được chuyển sang hình thức cổ phần và sang hình thức tự bù phí tổn. Mặt khác, do việc rót vào các khoản có của công ty quốc doanh sang các công ty tư nhân một cách phi chính thức không điều chỉnh được và không thống kê được nên tỷ trọng của các công ty tư nhân lớn hơn nhiều số lượng thống kê được thừa nhận chính thức.

Theo ý đồ của các kiến trúc sư, cải cách tư nhân hóa ở các nước Đông Âu cần góp phần thúc đẩy việc đầu tư trực tiếp của người nước ngoài vào kinh tế. Thực tế đã chỉ ra rằng, việc bảo đảm quyền sở hữu tư nhân là điều kiện cơ bản nhưng không phải là điều kiện duy nhất cho quá trình này. Bên cạnh việc hiện có những tiền để pháp luật cần thiết và sự ổn định của các đạo luật, hành vi của các nhà đầu tư còn được xác định bởi tình hình chính trị và kinh tế chung ở trong nước. Tính bền vững của các cơ cấu chính trị, việc định trước các đường lối. Họ nổi động của hoạt động kinh tế đang làm giảm bớt sự mạo hiểm và nâng cao lợi ích cho sự đầu tư vốn. Điều này đã làm cho nguồn đầu tư nước ngoài vào Hungari, Ba Lan, Séc tăng lên.

Khi thừa nhận vai trò tích cực của vốn đầu tư nước ngoài nói chung vào hiện đại hóa sản xuất và hợp lý hóa cơ cấu kinh tế ở một loạt nước Đông Âu tất nhiên không thể tránh khỏi sự gia tăng kiểm soát của nước ngoài trong các lĩnh vực quan trọng của đời sống kinh tế, gạt bỏ những đối thủ cạnh tranh ở Đông Âu.

Hoạt động của các xí nghiệp được tư nhân hóa chỉ ra rằng, bản thân việc thay đổi chủ sở hữu vẫn chưa mang lại động lực để có thể nâng cao năng suất lao động. Điều khó khăn hơn cả là việc tìm ra những hình thức tổ chức và quản lý các công ty cổ phần một cách có hiệu quả, là việc tích luỹ kinh nghiệm làm việc trong điều kiện thị trường của những người sản xuất có tài.

Hình thức tư nhân hóa thông qua việc chuyển các xã nghiệp nhà nước thành những xí nghiệp cổ phần của công nhân các xí nghiệp đó cùng đảng lưu ý. Ở Séc và Hungari rất thận trọng đối với hình thức tư nhân hóa này bởi vì chế độ tự quần trước đây có rất nhiều nhược điểm. Tuy nhiên, cần tính đến kinh nghiệm của các công ty mà sở hữu của công nhân chiếm ưu thế ở Tây Âu và Mỹ. Loại công ty này chiếm số lượng lớn, nhưng trong các công ty đã được thành lập, người công nhân không sử dụng các quyền kiểm soát ở mức độ đáng kể và đại diện của họ thường không nằm trong hội đồng giám đốc của công ty. Các chức năng quản lý và kiếm soát được giao cho những người quản lý ở Bungari và Ba Lan lại khuyến khích các công ty thuộc sở hữu cổ phần của các công nhân và những người quản lý. Những người xã hội chủ nghĩa nắm quyền hiện nay ở Bungari muốn biến một phần tài sản quốc gia thành sở nay hữu cổ phần của công nhân.

Trong số các xí nghiệp cổ phần ở Đông Âu được tư nhân hóa thông qua phiêu từ nhân hoá, tỷ lệ vốn của công nhân. chiếm rất lớn. Việc giảm đến mức tối thiểu tỷ lệ này là vấn đề đối với người quản lý bởi vì chờ đợi vốn đầu tư trong một cơ cấu vốn như thế này là điều không thực tế. Người quản lý của công ty trong một thời gian dài phối hợp chức năng của người sở hữu (cổ đông) và của người quản lý. Điều này gây trở ngại cho việc quản lý công ty một cách có hiệu quả. Công việc đòi hỏi phải có sự phân chia giữa người sở hữu và người quản lý cụ thể là sau sự củng cố đầu tiên về quyền sở hữu bắt đầu một giai đoạn kéo dài không muốn thu hút những nhà đầu tư bên ngoài muốn tham gia vào công việc quản lý. Điều đó làm khó khăn cho việc bổ sung nguồn vốn đầu tư thực tế.

Nhìn chung ở các nước Đông Âu có những ý kiến khác nhau căn bản về tính tất yếu của tư nhân hóa nhưng những vấn đề thực tiễn nảy sinh trong quá trình thực hiện lại để ra các tranh cãi kịch liệt. Các nước này chuyển sang kinh tế thị trường từ các cơ sở trình độ phát triển khác nhau, đồng thời chiến lược cải cách kinh tế theo khuynh hướng cũng có nét khác nhau kể cả chiến lược tư nhân hóa. Do đó, mục tiêu và các phương pháp thực hiện cũng không giống nhau.

Tóm lại, công cuộc tư nhân hóa ở các nước Đông Âu đã trải qua một giai đoạn phát triển đầy phức tạp và khó khăn. Tuy nhiên quá trình này được kiểm định là không thể đảo ngược được và một số nước Đông Âu đã đạt được thành quả rất tích cực trong quá trình chuyển đổi.

4. Cải cách trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại ở các nước Đông Âu

Đồng thời với các biện pháp cải cách trong các lĩnh vực tài chính, tiền tệ, thực hiện tư nhân hoá, tự do hóa hoạt động kinh tế đối ngoại được coi là một biện pháp hữu cơ quan trọng trong tổng thể các biện pháp cải cách thị trường ở các nước Đông Âu. Cơ chế quản lý hoạt động kinh tế đối ngoại ở các nước Đông Âu được hình thành theo mô hình của Liên Xô trước đây. Độc quyền nhà nước về ngoại thương là nguyên tắc quan trọng nhất, quy định toàn bộ cơ chế quản lý hoạt động kinh tế đối ngoại của các nước này.

Thực tiễn cải cách ở các nước Đông Âu đều đã khẳng định tự do hóa hoạt động kinh tế đối ngoại là một trong những bước đi đầu tiên để chuyển từ nền kinh tế kế hoạch tập trung sang nền kinh tế thị trường. Tự do hóa hoạt động kinh tế đối ngoại đóng vai trò quan trọng, có tính chiến lược, kết quả cuối cùng là kích thích quá trình hình thành các quan hệ thị trường.

Bước triển khai đầu tiên trong việc thực hiện tự do hóa hoạt động kinh tế đối ngoại là trong hoạt động ngoại thương cho phép sự tham gia của tất cả các loại công ty như công ty tư nhân, công ty liên doanh và công ty quốc doanh. hết quả là số lượng các công ty tham gia hoạt động ngoại thương tăng lên nhanh chóng. Trên thực tế cũng có những tác động tiêu cực từ vấn đề này vì nhiều công ty trong số này đã không đủ vốn và kinh nghiệm để tham của hoạt động ngoại thương, dẫn đến hiệu quả hoạt động kinh tế đối ngoại thấp.

Tự do hóa trong chính sách ngoại thương gắn liền với việc xóa bỏ hạn chế về ngoại tệ và tỷ giá của đồng nội tệ. Vai trò then chốt ở đây là chính sách ngoại tệ. Trong các nước Đông Âu, những nước ngay từ đầu đã thực hiện việc điều tiết tập trung chính sách ngoại tệ bằng cách định hình hoặc thiết lập “hành lang ngoại tệ” như ở Hungari, Ba Lan và Séc đã đem lại kết quả tốt hơn so với những nước ngay từ đầu đã để sự hình thành chính sách ngoại tệ cho các lực lượng thị trường tự do chi phối như ở Bungary và Rumani. Chính sách định hình, điều tiết tập trung thực hiện vai trò của cái neo kiềm chế sự tăng giá trong nước trong những khuôn khổ nhất định.

Ở các nước Đông Âu, việc xóa bỏ những hạn chế ngoại tệ mang tính chất dần dần, từng bước. Ngay từ đầu quá trình cải cách, phần lớn các nước này đã thực hiện quy định bắt buộc phải bản 100% ngoại tệ thu được do xuất khẩu cho các ngân hàng và các xí nghiệp được trả một lượng nội tệ có giá trị tương đương. Trong thời kỳ đầu các tư cách pháp nhân không được phép có tài khoản ngoại tệ riêng.

Ở Ba Lan và Hungari, mặc dù tình hình quản lý ngoại tệ đã được củng cố một cách rõ nét, song quy định trên vẫn có hiệu lực như trước. Ở Séc và Xlôvakia, chỉ sau khi tình hình quản lý ngoại tệ được củng cố, các xí nghiệp của các nước này mới được quyền mở tài khoản ngoại tệ ở các ngân hàng thương mại quốc gia. Quan điểm xóa bỏ từng bước những hạn chế về ngoại tệ được cân nhắc kỹ lưỡng đã cho phép các nước Đông Âu ngăn chặn được việc sử dụng rộng rãi các ngoại tệ mạnh trong lưu thông thanh toán trong nước. Điều đó hạn chế được những rối loạn về tiền tệ do khả năng chưa thích ứng kịp thời với cơ chế thị trường của các doanh nghiệp và nền kinh tế.

Khi vấp phải một số hậu quả tiêu cực của chính sách tự độ hóa hoạt động kinh tế đối ngoại, tài chính - ngoại tệ, phần lớn các nước Trung và Đông Âu bắt đầu tìm đến các hình thức khác để bảo vệ thị trường trong nước, một mặt không chỉ nhà sự trợ giúp của thuế xuất nhập khẩu, mà họ còn luôn khuyến khích xuất khẩu, duy trì tỷ giá thấp của nội tế, bỏ thuế xuất khẩu cho các nhà xuất khẩu vay với lãi suất ưu đãi. Mối tương quan trong việc áp dụng các biện pháp tác động trực tiếp phí biểu suất (hạn ngạch, giấy phép xuất nhập khẩu) và sự điều tiết biểu suất gián tiếp trao đổi ngoại thương ở các nước là không giống nhau.

Nói chung, chính sách làm cho nền kinh tế các nước Đông Âu cởi mở hơn đối với thị trường thế giới đã dẫn đến một loạt các kết quả khả quan. Khối lượng xuất khẩu tăng, chủng loại hàng hóa được mở rộng, chất lượng hàng hóa đưa vào thị trường trong nước được nâng cao, hàng hóa ngày một nhiều thêm.

Đăng ký nhận email

Đăng ký email để có thể có được những cập nhật mới nhất về tải liệu được đăng tải trên website

Tập san đã phát hành