Thứ hai, 16 Tháng 10 2023 03:09

Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về quản lý nhà nước trong lĩnh vực thương mại điện tử

1. Khái quát chung quản lý nhà nước về thương mại điện tử

Quá trình phát triển của thương mại điện tử gắn liền với sự phát triển của công nghệ thông tin và internet, sau này là các thiết bị di động. Bắt đầu từ năm 1995 khi thuật ngữ “electronic – commerce” được hãng máy tính IBM sử dụng thì những nghiên cứu về thương mại điện tử mới chính thức được đề cập đến nhiều.

Theo Cục Thống kê Hoa Kỳ: thương mại điện tử là việc hoàn thành bất kỳ một giao dịch nào thông qua một mạng máy tính làm trung gian mà bao gồm việc chuyển giao quyền sở hữu hay quyền sử dụng hàng hoá và dịch vụ.

Trên phương diện kinh tế thì thương mại điện tử được hiểu là việc thực hiện một phần hay toàn bộ hoạt động kinh doanh theo đó là các hoạt động như tiếp thị, bán hàng, phân phối và thanh toán thông qua các phương tiện điện tử- internet.

Thương mại điện tử nhìn nhận dưới góc độ quản lý nhà nước gồm các hoạt động như: thông điệp dữ liệu, quy tắc cơ bản, quy tắc đặc thù theo lĩnh vực và các ứng dụng chứa đựng hoạt động thương mại đó.

Khái niệm thương mại điện tử theo góc độ quản lý nhà nước có hai điều đáng quan tâm. Mô hình này là cơ sở để các chính phủ có thể xác định các nội dung cần có nhằm tạo ra một môi trường thích hợp cho sự phát triển của thương mại điện tử. Dựa trên mô hình này, các tổ chức quốc tế có thể xác định phương hướng góp phần xây dựng hệ thống các hướng dẫn, các điều luật, các tiêu chuẩn, các quy định để thương mại điện tử toàn cầu ngày càng hoàn thiện hơn.

Thương mại điện tử có nhiều điểm khác với thương mại truyền thống, do đó cần hiểu rõ các đặc trưng của thương mại điện tử để có được những chính sách quản lý hiệu quả. Một số đặc trưng chính của thương mại điện tử cần chú ý như:

Không tiếp xúc trực tiếp khi tiến hành thương mại điện tử. Đối với hoạt động giao dịch thương mại điện tử đều có sự tham gia của ít nhất ba chủ thể, theo đó có một có thêm một bên tham gia là người cung cấp dịch vụ mạng, các cơ quan chứng thực.

Đối với thương mại truyền thống, mạng lưới thông tin chỉ là phương tiện để trao đổi dữ liệu, còn đối với thương mại điện tử thì mạng lưới thông tin là thị trường.

Theo OECD, hiện nay trên thế giới đang có các mô hình thương mại điện tử, đó là: Thương mại điện tử giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp (Business to Business - B2B). Thương mại điện tử giữa doanh nghiệp và người tiêu dùng (Business to Consumer - B2C), Thương mại điện tử giữa người tiêu dùng với người tiêu dung (Consumer to Consumer - C2C).

Thương mại điện tử giữa doanh nghiệp với chính phủ (Business to Government - B2G). Thương mại điện tử giữa chính phủ với công dân (Government to Citizen - G2C). Thương mại điện tử giữa công dân với chính phủ (Citizen to Government - C2G). Thương mại điện tử giữa người tiêu dùng với doanh nghiệp (Consumer to Business - C2B). Thương mại điện tử giữa chính phủ với chính phủ (Government to Government - G2G).

Từ khái niệm về thương mại điện tử cho thấy thương mại điện tử chỉ khác hoạt động thương mại truyền thống ở phương thức tiến hành các hoạt động thương mại. Thương mại điện tử không phải là một lĩnh vực hoạt động riêng biệt mà là phương thức tiến hành hoạt động kinh doanh thương mại trên môi trường điện tử. Như vậy, quản lý nhà nước về thương mại điện tử chính là hoạt động quản lý nhà nước về thương mại gắn với các đặc trưng của thương mại điện tử như đã nêu ở trên.

Với quan điểm này, quản lý nhà nước về thương mại điện tử được hiểu là quá trình nhà nước sử dụng các công cụ quản lý của mình để tác động lên hoạt động thương mại trong môi trường điện tử nhằm đạt được các mục tiêu phát triển thương mại điện tử đã đặt ra.

Quản lý nhà nước về thương mại điện tử là một bộ phận của quản lý nhà nước về kinh tế, do đó các nội dung quản lý nhà nước về thương mại điện tử cũng xuất phát từ các nội dung quản lý nhà nước về kinh tế, theo hướng tiếp cận từ quá trình quản lý, quản lý nhà nước về thương mại điện tử bao gồm các nội dung:

  • Xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển thương mại điện tử bao gồm: chiến lược thương mại điện tử; kế hoạch chi tiết hóa chiến lược phát triển thương mại điện tử.
  • Xây dựng chính sách và ban hành pháp luật và thương mại điện tử bao gồm: chính sách thương nhân, chính sách phát triển nguồn nhân lực, chính sách bảo vệ người tiêu dùng và chính sách thuế trong thương mại điện tử, chính sách phát triển hạ tầng công nghệ; xây dựng và ban hành pháp luật về thương mại điện tử.
  • Tổ chức thực hiện kế hoạch, chính sách phát triển thương mại điện tử bao gồm: truyền thông và tư vấn; triển khai các chương trình, dự án phát triển thương mại điện tử vận hành các quỹ; phối hợp hoạt động.
  • Kiểm soát thương mại điện tử bao gồm: hoạt động kiểm soát nhằm bảo đảm việc chấp hành chính sách, pháp luật của Nhà nước về thương mại điện tử.

2. Kinh nghiệm quốc tế trong quản lý nhà nước về thương mại điện tử

Thương mại điện tử đã phát triển từ rất lâu tại một số quốc gia trên thế giới. Đối với một số quốc gia có nền kinh tế phát triển thì thương mại điện tử luôn đóng một vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế. Là một quốc gia đi sau, việc nghiên cứu các kinh nghiệm trong quản lý nhà nước về thương mại điện tử của các quốc gia có nền thương mại điện tử phát triển mà xuất phát điểm có nhiều nét tương đồng với Việt Nam như: Hàn Quốc, Singapore và Trung Quốc sẽ giúp cho Việt Nam thành công trong quá trình phát triển thương mại điện tử của mình.

2.1. Kinh nghiệm của Hàn Quốc

Hàn Quốc là một trong những nước có khu vực thương mại điện tử phát triển nhất trên thế giới. Về xây dựng chiến lược phát triển thương mại điện tử, từ năm 2001 Hàn Quốc đã đưa vào thực hiện một chương trình rộng lớn để phát triển thương mại điện tử với 44 vấn đề và kết thúc vào năm 2005. Tư tưởng chung của chương trình này là Nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong phát triển thương mại điện tử quốc tế, chính phủ khuyến khích phát triển thương mại điện tử và coi thương mại điện tử là phương tiện hữu hiệu giúp các doanh nghiệp Hàn Quốc chuyển đổi cơ cấu và tăng cường năng lực cạnh tranh.

Về xây dựng chính sách, ban hành văn bản pháp luật về thương mại điện tử: Chính phủ Hàn Quốc đã chuẩn bị một loạt các đạo luật thương mại điện tử và liên tục nâng cao khung khổ pháp lý thương mại điện tử bằng cách chỉnh sửa luật hiện hành, ban hành luật mới. Dưới đây là thống kê các đạo luật chính liên quan đến thương mại điện tử đã được ban hành tại Hàn Quốc.

Luật khung về thương mại điện tử: Ban hành năm 1999, sửa đổi năm 2002, 2005, 2009 và 2014; Luật Bảo vệ người tiêu dùng trong thương mại điện tử: ban hành năm 2002 và sửa đổi năm 2005, 2010 và 2014; Luật Chữ ký điện tử: ban hành năm 1998, sửa đổi năm 2001, 2005 và 2011; Luật Phát triển ngành đào tạo điện tử: ban hành năm 2004 và sửa đổi năm 2012; Luật Phát triển ứng dụng mạng công nghệ thông tin, truyền thông và bảo vệ thông tin: ban hành năm 1999, sửa đổi năm 2002, 2004, 2005, 2008 và 2013.

Chính phủ Hàn Quốc có nhiều chính sách khuyến khích và tạo điều kiện cho thương mại điện tử phát triển. Chính sách phát triển nhân lực thương mại điện tử: Để hỗ trợ phát triển nhân lực thương mại điện tử, năm 2000 Chính phủ Hàn Quốc đưa ra “Kế hoạch phát triển nhân lực thương mại điện tử” và tiếp đó là một loạt chương trình hỗ trợ chia thành 2 loại: Nâng cao hệ thống và mở rộng kết cấu hạ tầng phát triển nhân lực thương mại điện tử; Hỗ trợ các môn học thương mại điện tử. Các chương trình này có thể kể đến: hỗ trợ đại học xây dựng giáo trình thương mại điện tử, đào tạo nhân lực thương mại điện tử cho địa phương, xây học viện ảo cho phụ nữ tham gia thương mại điện tử, hỗ trợ học thạc sĩ thương mại điện tử tại Đại học Carnegie Mellon (Mỹ)...

Chính phủ Hàn Quốc còn củng cố các dịch vụ công sử dụng công nghệ thông tin như xây dựng hệ thống G4B - cổng dịch vụ một cửa của chính phủ dành cho doanh nghiệp, hệ thống giao tiếp G4F - cổng dịch vụ một cửa với người nước ngoài, thành lập hệ thống thương mại phi giấy tờ...

Bên cạnh đó, để khuyến khích thương mại điện tử phát triển, Chính phủ Hàn Quốc đã đưa ra một số chính sách như:

Chính sách bảo vệ khách hàng

Bảo vệ khách hàng thực sự là một cuộc cạnh tranh lành mạnh. Bảo vệ khách hàng chính là giải quyết tranh chấp liên quan đến thương mại điện tử. Trong môi trường cạnh tranh lành mạnh này, những vấn đề chính như đưa sai các thông tin hoặc quảng cáo phóng đại trên internet, tranh chấp tên miền, kết nối mạng gian lận, cạnh tranh không công bằng xuất phát từ các hành động không công bằng khác được giải quyết. Để giải quyết vấn đề này Hàn Quốc đã lập ra Uỷ ban Điều đình thương mại điện tử.

Sở hữu trí thức

Thủ tướng Hàn Quốc đã ra Sắc lệnh thi hành các đạo luật về thương mại điện tử bao gồm cả vấn đề sở hữu vào ngày 27-3-2001. Trong đạo luật mới được sửa đổi này, Bộ Văn hoá và Du lịch Hàn Quốc đã chỉ rõ phạm vi sao chép trên mạng. sách và các giao diện trên màn hình. Ngoài ra còn có sắc lệnh bổ sung chỉ ra những vấn đề cụ thể về bản quyền trong các chương trình máy tính vào ngày 16-7-2001 do Bộ trưởng Bộ Thông tin và Viễn thông Hàn Quốc ký. Do có quá nhiều các tranh chấp thường xuyên về tên miền, Chính phủ Hàn Quốc đã thành lập Văn phòng Giải quyết các tranh chấp tên miền vào tháng 8-2001.

Bảo mật và chứng nhận

Tại Hàn Quốc, đạo luật cơ bản về thương mại điện tử và chữ ký điện tử có quy định chi tiết về bảo mật và chứng nhận. Trong luật cơ bản về thương mại điện tử, Chính phủ Hàn Quốc cũng đã đưa ra các quy định cụ thể trong việc trao đổi tài liệu điện tử trong thương mại điện tử. Chữ ký điện tử được chấp nhận chính thức kể từ tháng 02-1999, nó được công nhận như một phương tiện bảo đảm tính xác thực tài liệu điện tử.

Trung tâm Cấp chứng nhận Hàn Quốc (Korea Certification Authority Central http://www.rootca.or.kr) là nơi chỉ đạo việc quản lý chứng chỉ chữ ký điện tử trong việc sử dụng.

Chính sách hỗ trợ doanh nghiệp

Hầu hết các doanh nghiệp nhỏ và vừa Hàn Quốc (SMB) gặp nhiều khó khăn trong ứng dụng thương mại điện tử do thiếu vốn, nhân sự và chiến lược dài hạn. Vì vậy, Chính phủ Hàn Quốc đã triển khai chương trình thông tin hóa cho SMB từ năm 2001 và trong 3 năm, chương trình này đã tư vấn và hỗ trợ tin học hóa sản xuất, kinh doanh cho hơn 30.000 SMB, Năm 2003, Hàn Quốc còn thành lập Trung tâm Hỗ trợ xuất khẩu về thương mại điện tử để hỗ trợ doanh nghiệp tham gia thị trường thế giới thông qua thương mại điện tử[1].

Để giúp các doanh nghiệp thuận lợi hơn khi triển khai thương mại điện tử, Chính phủ Hàn Quốc đã xây dựng Chỉ số thương mại điện tử Hàn Quốc (gọi tắt là KEBIX) nhằm giúp doanh nghiệp đánh giá khả năng sẵn sang thực hiện thương mại điện tử của mỗi ngành nghề thông qua 5 yếu tố: mỗi trưởng, con người, nguồn lực và kết cấu hạ tầng, quy trình và giá trị. KEBIX được Bộ Thương mại và Công nghiệp Hàn Quốc triển khai vào năm 2002, từ đó giúp doanh nghiệp đưa ra chiến lược thương mại điện tử cho mình và cũng giúp Chính phủ Hàn Quốc đưa ra các chính sách hỗ trợ phù hợp với từng ngành nghề.

2.2. Kinh nghiệm của Singapore

Về xây dựng chiến lược phát triển thương mại điện tử, Chính phủ Singapore đã đề ra chiến lược phát triển thương mại điện tử với các mục tiêu như sau: phát triển kết cấu hạ tầng thương mại điện tử theo tiêu chuẩn quốc tế; phát triển Singapore trở thành trung tâm thương mại điện tử; khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp sử dụng thương mại điện tử; tăng cường các hoạt động thương mại điện tử ở nơi công cộng và trong thương mại; đưa ra các chính sách sách và luật thích hợp với giao dịch ngoài quốc gia.

Căn cứ vào các mục tiêu này, Chính phủ Singapore đã lần lượt triển khai các giải pháp cụ thể để phát triển thương mại điện tử, biến Singapore thành trung tâm thương mại điện tử của châu Á. Singapore đã đạt được nhiều tiến bộ trong việc cải thiện kết cấu hạ tầng số hóa, qua đó thúc đẩy tăng cường năng lực và mở rộng ứng dụng số hóa trong các hộ gia đình và doanh nghiệp. Tiêu biểu có thể kể đến sự phát triển của hệ thống cáp quang và mạng 4G, nhờ đó tăng đáng kể tốc độ truyền tải thông tin. Nhờ mạng cáp quang, tốc độ kết nối internet trung bình của Singapore đã tăng từ 5,4 megabit mỗi ngày (Mbps) năm 2012 lên 20 Mbps năm 2016, ngang với Nhật Bản và Phần Lan. Tương tự như vậy, Singapore cũng nằm trong nhóm đầu các quốc gia có tốc độ kết nối 4G nhanh nhất thế giới, một phần nhờ liên tục đầu tư cải thiện hạ tầng mạng. Tổng lượng đăng ký băng thông rộng cáp quang và đăng ký 4G tại Singapore đã tăng gấp đôi trong vòng 5 năm qua.

Trong giai đoạn đầu, Singapore xác định 5 lĩnh vực then chốt đối với bất cứ công dân nào và toàn xã hội mà công nghệ số có thể tham gia gồm: giao thông, nhà ở và môi trường, hiệu quả kinh doanh, y tế và các dịch vụ công. Chính phủ Singapore cam kết sẽ tạo điều kiện về hạ tầng, chính sách để mọi sáng kiến, ý tưởng đều có cơ hội hình thành và thử nghiệm, kể cả những rủi ro có thể xảy ra.

Công nghệ thông tin được xác định là cốt lõi để thực hiện mục tiêu quốc gia thông minh, trong đó tập trung vào ba ưu tiên: công nghệ hỗ trợ xã hội; di động và giao thông thông minh; môi trường dữ liệu an toàn. Chính phủ Singapore cũng cam kết hằng năm đầu tư khoảng 1% GDP cho nghiên cứu và phát triển.

Có thể nói, Singapore là thị trường thanh toán điện tử phát triển mạnh nhất trong các nước ASEAN, với tỷ lệ dân số sử dụng internet khoảng 80% năm 2015, chỉ số thanh toán điện tử của nước này ở khoảng 56-57%. Singapore là nước nhanh chóng tiếp thu công nghệ mới với số người sử dụng ví điện tử đã tăng gấp đôi trong năm 2015 và chiếm tới 23% trong tổng dân số của nước này, hay chiếm hơn 41% trong tổng số người mua sắm trực tuyến[2].

Chủ trương biến Singapore thành một xã hội không tiền mặt được nhất trí là cần đơn giản hóa và hợp nhất các hệ thống thanh toán khác nhau. Để đẩy nhanh lộ trình, cơ quan quản lý tiền tệ Singapore đã triển khai sáng kiến 2.000 hệ thống POS (các máy chấp nhận thanh toán thẻ để khách hàng quẹt thẻ) thanh toán đồng nhất tại hơn 650 cửa hàng bán lẻ trên toàn đất nước Singapore[3].

Thêm nữa, Chính phủ Singapore đang lập kế hoạch phát triển một hệ thống thanh toán nhanh, sử dụng một mã QP chung (một dạng mã có thể được quét bằng điện thoại thông minh) để thực hiện ví điện tử trên toàn quốc. Nhóm công tác chịu trách nhiệm về vấn đề này do Ủy ban Tiền tệ Singapore và Ủy ban Phát triển Truyền thông thông tin Singapore (Infocomm Media Development Authority) điều phối và bao gồm các bên liên quan như ngân hàng, chương trình thanh toán, các nhà cung cấp dịch vụ thanh toán QR và các cơ quan chính phủ. Trên thực tế mã QR cung cấp một giải pháp thay thế rẻ hơn và ít kết cấu hạ tầng hơn so với các chương trình thẻ ghi nợ và thẻ tín dụng. Do vậy, hiện nay mã QR ngày càng được sử dụng nhiều trong ví điện tử, góp phần thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt.

Singapore phát triển ngành công nghệ thông tin - truyền thông (ICT) làm động lực nền tảng cho phát triển nền kinh tế số. ICT bao gồm 12 phân ngành sản xuất hoặc thúc đẩy sự phát triển hàng hóa và dịch vụ số (bao gồm phần cứng, viễn thông, dịch vụ công nghệ thông tin, phần mềm, trò chơi, dịch vụ trực tuyến, in ấn, bưu điện và chuyển phát nhanh, xuất bản, phát thanh truyền hình, phim ảnh và video, âm nhạc), qua đó đóng một vai trò quan trọng trong việc tạo điều kiện áp dụng số hóa giữa các hộ gia đình và các doanh nghiệp tại Singapore.

2.3. Kinh nghiệm từ Trung Quốc

Trung Quốc hiện là nước sử dụng lớn về công nghệ số lớn cả ở thị trường nội địa và toàn cầu. Báo cáo của Viện Nghiên cứu toàn cầu McKinsey (MGI, 2017) khẳng định, Trung Quốc hiện là cường quốc công nghệ số với tiềm năng tăng trưởng khổng lồ.

Ba trụ cột chính nâng đỡ sự phát triển hết sức nhanh chóng của Trung Quốc trong lĩnh vực công nghệ số là: thị trường khổng lồ và “trẻ trung” cho phép thương mại hóa nhanh chóng các mô hình kinh doanh số; hệ sinh thái số phong phú đang mở rộng vượt trên tầm một số “người khổng lồ”; Chính phủ Trung Quốc tạo điều kiện và không gian để các doanh nghiệp số thử nghiệm, đồng thời vừa là nhà đầu tư, vừa là người tiêu dùng các công nghệ số.

Trung Quốc đã phát triển mạnh mẽ kinh tế số hóa để đáp ứng nhu cầu của lượng dân số trực tuyến rất lớn, đặc biệt là nhu cầu về tìm kiếm thông tin, truyền thông và thương mại trong giai đoạn đầu. Nền kinh tế số hóa của Trung Quốc đặc trưng bởi sự phát triển mạnh mẽ của truyền thông số và thương mại điện tử với sự hiện diện của ba nhà cung ứng nội địa khổng lồ bao gồm Alibaba (thương mại điện tử), Tencent (game trực tuyến và mạng xã hội) và Baidu (công cụ tìm kiếm). Chính phủ Trung Quốc khẳng định sẽ khuyến khích tiêu dùng trực tuyến trong những năm tới.

Trong một sáng kiến nhằm hỗ trợ các nhu cầu tài chính của các doanh nghiệp nhỏ, năm 2014, Ủy ban Quản lý ngân hàng Trung Quốc (CBRC) phê duyệt Kế hoạch thí điểm thành lập 5 ngân hàng tư nhân. Một trong 5 ngân hàng thí điểm - Ngân hàng WeBank - đã khai trương hoạt động vào tháng 01 năm 2015 với tư cách là ngân hàng internet thuần túy với số vốn đăng ký là 3 tỷ nhân dân tệ, các cổ đông chính bao gồm Tencent (30% cổ phần), Baiyeyuan (20% cổ phần) và Liye (20% cổ phần). Tiếp theo là Tập đoàn Alibaba cũng thành công khi trở thành một cổ đông của ngân hàng thí điểm Mybank thông qua công ty con Ant Financial với 30% cổ phần liên danh cùng với Fosun International (25% cổ phần) và Wanxiang Group (18% cổ phần)[4].

Tháng 8 năm 2004, Trung Quốc đã thông qua Luật Chữ ký điện tử để điều chỉnh chữ ký điện tử, thiết lập hiệu lực pháp lý của chữ ký điện tử nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của tất cả các bên liên quan.

3. Kinh nghiệm áp dụng tại Việt Nam

Hiện nay, các quốc gia đều thừa nhận những lợi ích của thương mại điện tử đối với toàn xã hội như: thương mại điện tử có thể nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế đồng thời mang lại khả năng cải thiện môi trường hành chính và môi trường đầu tư. Thương mại điện tử cũng khiến chính phủ các nước phải cải cách trên rất nhiều phương diện - từ phương diện quản lý, hoạch định chính sách như: thuế quan, hải quan, phân phối thu nhập, quản lý doanh nghiệp, chính sách thương mại quốc tế... tới việc điều chỉnh phương hướng phát triển các ngành kinh tế quốc gia trong thời đại “số hóa” đang ngày càng mở rộng. Thương mại điện tử sẽ tạo tiền đề để có thể sớm tiếp cận nền kinh tế số hóa hay nền kinh tế tri thức. Thương mại điện tử trực tiếp kích thích sự phát triển của ngành công nghệ thông tin - một trong những ngành mũi nhọn trong nền kinh tế hiện đại, một ngành căn bản của “xã hội thông tin” hay “kinh tế tri thức”, đóng vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế.

Tuy nhiên, đối với các nước đang phát triển như Việt Nam nếu không có một chiến lược thích hợp sẽ suy giảm sức cạnh tranh, ngày càng tụt hậu. Khía cạnh này mang tính tiềm tàng, ảnh hưởng trực tiếp tới chính sách công nghệ và tính chiến lược phát triển mà các nước đang phát triển cần quan tâm và phải đề ra một chiến lược kịp thời và phù hợp. Nếu nắm bắt được cơ hội, một nước đang phát triển có thể tạo ra một bước nhảy vọt, tiến kịp các nước đi trước trong thời gian ngắn hơn, nếu không nguy cơ tụt hậu sẽ trở nên không thể cứu vãn.

Với dân số hơn 100 triệu người, Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia có tốc độ phát triển kinh tế số ở mức khá trong khu vực ASEAN. Việt Nam đã ghi nhận sự xuất hiện xu hướng số hóa ở nhiều lĩnh vực, ngành kinh tế, từ thương mại, thanh toán cho đến giao thông, giáo dục, y tế... Ngoài ra, thị trường thương mại điện tử cũng đang phát triển nhanh và quy mô thị trường quảng cáo trực tuyến của Việt Nam cũng đang có xu hướng tăng nhanh. Tỷ lệ người dân sử dụng internet thông qua điện thoại thông minh hiện là vài chục triệu người và người Việt cũng được xếp vào nhóm những người thích công nghệ.

Qua kinh nghiệm thực tiễn phát triển thương mại điện tử của một số nước, có thể rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam là:

Một là, đối với việc xây dựng chiến lược phát triển thương mại điện tử, Việt Nam cần luôn chú trọng đến việc xây dựng chiến lược phát triển thương mại điện tử quốc gia với các mục tiêu mang tính định hướng lâu dài cho sự phát triển của thương mại điện tử. Chiến lược phát triển thương mại điện tử quốc gia được xây dựng độc lập với các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội khác của đất nước.

Hai là, xây dựng hoàn thiện khung chính sách pháp lý về thương mại điện tử. Về xây dựng khung pháp lý cho sự phát triển của thương mại điện tử. Để thúc đẩy thương mại điện tử, các quốc gia đều phải xây dựng một khung khổ pháp lý cụ thể. Thừa nhận tính pháp lý của giao dịch thương mại điện tử và xác định cơ sở pháp lý để có thể giải quyết những vấn đề phát sinh trong giao dịch thương mại điện tử. Đơn giản hóa thủ tục đăng ký của chữ ký điện tử và chữ ký số hóa. Chú trọng bảo vệ người tiêu dùng trong các giao dịch thương mại điện tử, đặc biệt là bảo vệ các thông tin cá nhân của khách hàng khi họ thực hiện các giao dịch thương mại điện tử. Xây dựng cơ sở pháp lý để giải quyết tranh chấp, trách nhiệm của bên thứ ba trong giao dịch (nhà cung cấp dịch vụ internet, dịch vụ kết nối, dịch vụ chứng thực, xác nhận...).

Mặt khác cần bảo vệ pháp lý các thanh toán điện tử (bao gồm cả việc pháp chế hoá các cơ quan phát hành các thẻ thanh toán).

Quy định pháp lý đối với các dữ liệu có xuất xứ từ Nhà nước, nhằm vừa có thể bảo đảm tính công khai hóa, vừa bảo đảm bảo mật.

Bảo vệ pháp lý đối với mạng thông tin, chống tội phạm xâm nhập với các mục đích bất hợp pháp như thu thập tin tức mật, thay đổi thông tin trên các trang web, thâm nhập vào các dữ liệu, vi phạm bản quyền các phần mềm, truyền virus phá hoại, v.v..

Về xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng cho sự phát triển của thương mại điện tử. Chính phủ các quốc gia đóng một vai trò quan trọng trong phát triển kết cấu hạ tầng cho sự phát triển thương mại điện tử. Chính phủ các nước đặc biệt chú trọng đến hạ tầng công nghệ thông tin, hạ tầng thanh toán, hạ tầng nguồn nhân lực cho phát triển thương mại điện tử. Chính phủ Việt Nam cũng cần quan tâm đầu tư phát triển hạ tầng thương mại điện tử, như:

Về hạ tầng về công nghệ thông tin. Để thương mại điện tử phát triển thì Chính phủ phải mở rộng, hiện đại hoá mạng lưới viễn thông - internet; xây dựng phát triển nhiều dịch vụ và ứng dụng trên internet; tạo điều kiện truy cập internet được dễ dàng với chất lượng tốt, giá cả phù hợp. Đồng thời, khai thác sử dụng tối đa năng lực và dịch vụ của các thể chế hiện có liên quan đến thu thập, phổ biến thông tin, dữ liệu và các chương trình mục tiêu để tăng cường sử dụng các công nghệ thông tin và truyền thông. Ví dụ: như các nghiên cứu đánh giá sự tham gia nhiều hơn của các doanh nghiệp có quy mô quốc gia, địa phương vào các chương trình phát triển đầu tư và thương mại.

Về hạ tầng nguồn nhân lực. Trong thời gian đầu triển khai thương mại điện tử, cần coi trọng công tác tuyên truyền, phổ biến các lợi ích của thương mại điện tử cho toàn bộ xã hội. Tập trung giáo dục những kiến thức cơ bản về sử dụng máy tính và internet giúp người dân hiểu biết về các lợi ích internet trong học tập, nghiên cứu, kinh doanh, từ đó tham gia tích cực vào việc ứng dụng và phát triển thương mại điện tử. ngoại

Về hạ tầng thanh toán. Thanh toán trực tuyến là một trong những vấn đề cốt yếu của thương mại điện tử. Thiếu hạ tầng thành toán, chưa thể có thương mại điện tử theo đúng nghĩa của nó. Do đó để đẩy mạnh thương mại điện tử, Chính phủ cần chú trọng đến việc phát triển đa dạng các loại hình thanh toán trực tuyến như: thanh toán qua thẻ, sử dụng ví điện tử, tiền mặt điện tử.

Ba là, tổ chức thực hiện chiến lược, kế hoạch, chính sách phát triển thương mại điện tử. Trong quá trình triển khai thương mại điện tử, Chính phủ cần xây dựng các trung tâm hỗ trợ doanh nghiệp triển khai thương mại điện tử. Nhiệm vụ của các trung tâm này là phải tìm ra được những mô hình thương mại điện tử tiên tiến và phù hợp nhất để có thể áp dụng và triển khai trong các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, trong quá trình triển khai thương mại điện tử. Chính phủ có vai trò vô cùng quan trọng trong việc tạo lập và hoàn thiện môi trường cho sự phát triển của thương mại điện tử. Vai trò của Chính phủ là xúc tiến và tạo thuận lợi cho sự hình thành và sự tiếp nhận thương mại điện tử bằng cách như:

  • Tạo ra một môi trường thuận lợi, bao gồm cả cá khía cạnh pháp lý và điều tiết, có tính khả thi, rõ ràng và nhất quán.
  • Tạo ra một môi trường có tác dụng xúc tiến niềm tin giữa những người tham gia thương mại điện tử.
  • Xúc tiến sự vận hành có hiệu quả của thương mại điện tử trên bình diện quốc tế bằng việc xây dựng các tiêu chuẩn trong thương mại điện tử quốc gia tương thích với các chuẩn mực và thực tiễn quốc tế đang diễn ra.
  • Trở thành người sử dụng tiên phong nhằm mục đích tạo ra các động lực để khuyến khích các phương tiện điện tử được sử dụng rộng rãi hơn nữa.

Như vậy, có thể thấy rằng ưự phát triển của thương mại điện tử trên thế giới đã làm thay đổi phương thức kinh doanh, thay đổi mạnh mẽ các giao dịch truyền thống và đem lại những lợi ích to lớn cho các doanh nghiệp, cho người tiêu dùng và cho toàn xã hội. Đối với các doanh nghiệp Việt Nam, việc ứng dụng thương mại điện tử vào hoạt động sản xuất kinh doanh đã làm tăng khả năng cạnh tranh, mở rộng thị trường, tạo ra nhiều cơ hội kinh doanh cho các doanh nghiệp. Nhà nước với vai trò là chủ thể quản lý đã tạo ra những tiền đề cơ bản cho việc ứng dụng và triển khai thương mại điện tử trong các doanh nghiệp. Bằng các công cụ quản lý của mình, Nhà nước đã đóng vai trò định hướng, tạo lập môi trường cho sự phát triển của thương mại điện tử.

 


[1] Ministry of Commerce, Industry and EnergyRepublic of Korea (2002), Ecommerce in Korea, http://unpan1.un.org

[2] Sam Lube & Johanna Maria van Heerden (2003), The Economic and Social Impacts of E-Commerce, Idea Group Publishing

[3] Sam Lube & Johanna Maria van Heerden (2003), The Economic and Social Impacts of E-Commerce, Idea Group Publishing

[4] MengXia (2018), E-Commerce Legal Framework Country Report.

Đăng ký nhận email

Đăng ký email để có thể có được những cập nhật mới nhất về tải liệu được đăng tải trên website

Tập san đã phát hành