Thứ hai, 13 Tháng 11 2023 03:12

Xúc tiến thương mại làng nghề trong bối cảnh phát triển thương mại điện tử ứng dụng công nghệ 4.0

Thủ công mỹ nghệ là một mặt hàng thế mạnh của Việt Nam trong xuất khẩu. Hiện nay mặt hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam đã có chỗ đứng trên thị trường thế giới, được xuất khẩu trên 163 quốc gia, vùng lãnh thổ. Thời gian qua, mặt hàng thủ công mỹ nghệ đã có những đóng góp lớn cho việc tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu, chuyển dịch cơ cấu kinh tế-xã hội nông thôn và những lợi ích kinh tế khác nhưng hiện nay, làng nghề thủ công đang còn đối mặt với rất nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm, mở rộng và phát triển thị trường. Thời gian qua, Nhà nước ta đã áp dụng nhiều các giải pháp từ quản lý, ban hành chính sách pháp luật để phát triển thị trường thủ công làng nghề Việt Nam, tuy nhiên giai đoạn hiện nay khi kinh tế số và công nghệ 4.0 đã phủ khắp hoạt động kinh doanh thương mại, chúng ta cần xem xét thúc đẩy thương mại điện tử, coi đây là một giải pháp quan trọng nhằm hoàn thiện những chính sách xúc tiến thương mại, thực hiện việc phát triển làng nghề thủ công mỹ nghệ nước ta.

1. Sự cần thiết của thương mại điện tử trong việc xúc tiến thương mại tại làng nghề

Làng nghề thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam có lịch sử phát triển hàng nghìn năm. Theo nhiều tài liệu khảo cổ học, sản phẩm của các làng nghề thủ công mỹ nghệ của Việt Nam bắt đầu xuất khẩu từ những năm đầu thế kỷ XI và phát triển mạnh trong thế kỷ XIII.

Sản phẩm thủ công mỹ nghệ làng nghề hàm chứa tinh hoa văn hóa và trở thành di sản văn hóa của dân tộc. Nhiều làng nghề truyền thống vẫn tồn tại và phát triển trong cuộc sống hiện đại ngày nay như: mây tre đan, gốm sứ, đồ gỗ, thêu ren, sơn mài, chạm khắc đá... Hiện nay, nước ta có khoảng 2.700 làng nghề, trong đó làng nghề thủ công mỹ nghệ chiếm gần 40%. Làng nghề ở Việt Nam được hình thành và phát triển ở cả ba miền Bắc, Trung và Nam với 53 nhóm nghề, trên 200 các sản phẩm trên thị trường[1].

Chính sách là một phương tiện nhằm đạt được các mục tiêu của doanh nghiệp. Chính sách bao gồm các văn bản hướng dẫn, các quy tắc, thủ tục được thiết lập để hậu thuẫn cho các hành động. Như vậy, chính sách xúc tiến thương mại có thể được hiểu là một hệ thống các chỉ dẫn, dẫn dắt doanh nghiệp trong quá trình đưa ra và thực hiện các quyết định chiến lược về xúc tiến thương mại.

Thương mại điện tử là công cụ quan trọng để hoạt động xúc tiến thương mại có hiệu quả giữa các thành viên của tổ chức và giữa công ty với khách hàng mà sự vận động của nhu cầu và hàng hóa xích lại gần nhau. Thương mại điện tử là công cụ quan trọng giúp cho cung và cầu gặp nhau nhanh hơn, giảm thiểu những chi phí không cần thiết cũng như rủi ro trong kinh doanh. Mặt khác, với các công cụ của thương mại điện tử, các doanh nghiệp không chỉ bán được nhiều hàng mà qua đó có thể tác động và làm thay đổi cơ cấu tiêu dùng cho phù hợp với sự thay đổi của khoa học kỹ thuật cũng như để gợi mở nhu cầu tiềm ẩn trong khách hàng.

Xúc tiến thương mại làm cho bán hàng được thuận lợi, đưa hàng vào kênh phân phối và thiết lập các kênh phân phối hợp lý, từ đó tạo ra những lợi thế về giá bán. Trong đó, thương mại điện tử không chỉ là một trong những biện pháp hỗ trợ cho các công cụ khác của marketing tổng hợp mà còn thúc đẩy quá trình thực hiện các công cụ đó.

Trong xu thế hội nhập thì các giao dịch thương mại điện tử ngày càng phát triển trên thế giới và cả Việt Nam. Sự phát triển của kinh tế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp ngoài việc triển khai một sản phẩm tốt, định giá hấp dẫn, cách tiếp cận thuận lợi với khách hàng mục tiêu còn cần phải có một chính sách xúc tiến thương mại phù hợp, trong đó thương mại điện tử là công cụ hiệu quả, hiện đại và phù hợp với xu thế toàn cầu.

Thương mại điện tử hiện là kênh xúc tiến rẻ tiền nhất mà lại có điều kiện tiếp cận thị trường rộng, hiệu quả cao. Bởi lẽ hiện nay, ở thị trường nào cũng thế, cứ cần mua sản phẩm gì thì người tiêu dùng đều lên mạng để tìm kiếm.

Mặc dù tại các làng nghề ra đời nhiều công ty mới, đẩy mạnh các chương trình xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm trên thị trường quốc tế nhưng chưa thực sự mang lại hiệu quả cao do chưa hiểu hết vai trò của thương mại điện tử để xây dựng một chính sách riêng cho các làng nghề. Như vậy, giải pháp đẩy mạnh thương mại điện tử trong chính sách xúc tiến thương mại là một điểm nút trọng yếu của marketing tổng hợp. Vì vậy các doanh nghiệp, cơ sở làng nghề cần có ưu tiên phát triển thương mại điện tử. Tuy nhiên, việc này cần có những chính sách khuyến khích cũng như hỗ trợ phù hợp.

2. Thực trạng các chính sách xúc tiến thương mại về phát triển làng nghề thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam

Phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta. Hiện nay, một trong những nội dung quan trọng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là phát triển các làng nghề. Trong việc xây dựng các chính sách về phát triển ngành nghề nông thôn, chủ trương chung của Đảng và Nhà nước được thể hiện rõ ở hệ thống các chính sách như:

  • Chính sách ngành nghề nông thôn; quy hoạch phát triển ngành nghề nông thôn; công nhận nghề truyền thống, làng nghề, làng nghề truyền thống;
  • Chính sách đầu tư kết cấu hạ tầng và xử lý môi trường làng nghề, cụm cơ sở ngành nghề nông thôn;
  • Chính sách về đầu tư, tín dụng;
  • Chính sách về hoạt động thương mại;
  • Chính sách về khoa học - công nghệ;
  • Chính sách về đào tạo nghề;
  • Chính sách hỗ trợ hoạt động khuyến nông, khuyến công, khuyến ngư

Đặc biệt, trong thời gian qua, Nhà nước cũng đã ban hành nhiều chính sách thương mại nhằm khuyến khích, tạo điều kiện mở rộng lưu thông hàng hóa, phát triển dịch vụ thương mại mà pháp luật không cấm. Một số chính sách thương mại đã góp phần phát triển ngành nghề nông nghiệp, nông thôn, trong đó có làng nghề thủ công mỹ nghệ như Quyết định số 23/2010/QĐ-TTg ngày 06-01-2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Phát triển thương mại nông thôn giai đoạn 2010-2015 và định hướng đến năm 2020". Quyết định số 72/2010/QĐ-TTg ngày 15-11-2010 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Quy chế xây dựng, quản lý và thực hiện Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia. Thông tư số 171/2014/TT-BTC ngày 14-11-2014 của Bộ Tài chính hướng dẫn cơ chế tài chính hỗ trợ từ ngân sách nhà nước để thực hiện chương trình xúc tiến thương mại quốc gia.

Đặc biệt, các chính sách của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và của Tổng cục Du lịch tập trung cho phát triển du lịch, xúc tiến thương mại làng nghề như Quyết định số 3455/QĐ- BVHTTDL ngày 20-10-2014 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch về việc Phê duyệt “Chiến lược marketing du lịch đến năm 2020”.

Nhìn chung, một số chính sách xúc tiến thương mại nhà nước ban hành đã góp phần tạo môi trường thuận lợi cho việc phát triển ngành nghề nông thôn nói chung và các làng nghề thủ công mỹ nghệ nói riêng. Để đáp ứng được nhu cầu phát triển của làng nghề thì những chính sách đó cần phải hoàn thiện, bổ sung trong thời gian tới.

Từ việc nghiên cứu lý luận về chính sách xúc tiến thương mại, các công trình liên quan đến chính sách làng nghề và đặc trưng chính sách làng nghề có thể thấy có nhiều tiêu chí để đánh giá chính sách. Dựa trên đặc điểm của chính sách xúc tiến thương mại đối với sự phát triển làng nghề thủ công mỹ nghệ, các tiêu chí đánh giá được đề cập đến bao gồm: tính minh bạch, tính phù hợp, tính ổn định, tính thống nhất (dựa trên thang đo Likert là: 1: hoàn toàn không đồng ý; 2: không đồng ý; 3: bình thường; 4; đồng ý; 5: hoàn toàn đồng ý), qua điều tra cho kết quả như sau:

Tính minh bạch của chính sách Tính phù hợp của chính sách Tính thống nhất của chính sách Tính ổn định của chính sách
N Valid 86 86 86 86
Mean (Điểm trung bình) 3,70 3,76 3,19 2,76
Std, Deviation
(độ lệch chuẩn)
.959 .796 .901 .839
Variance (Phương sai) .919 .634 .812 .704

Nguồn: Nguyễn Thị Thu Hường Chính sách nhà nước về phát triển làng nghề thủ công mỹ nghệ Việt Nam, Nxb. Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội, 2019.

Tính minh bạch của chính sách: Từ kết quả nghiên cứu cho thấy, các doanh nghiệp đều đồng ý sự minh bạch của các chính sách xúc tiến thương mại đối với phát triển làng nghề thủ công mỹ nghệ hiện nay (điểm đánh giá trung bình (mean) là 3,7). Điều đó cho thấy, đây là thành tựu của chính sách cần được tiếp tục phát huy trong thời gian tới.

Tính phù hợp của chính sách: Sự phù hợp của các biện pháp chính sách cũng có thể được đánh giá bởi mức độ mà chính sách có thể thích nghi được với sự thay đổi của thị trường, công nghệ, kiến thức, xã hội, điều kiện chính trị và môi trường... Từ kết quả nghiên cứu cho thấy, sự phù hợp của chính sách nhìn chung được doanh nghiệp đánh giá cao hơn các tiêu chí khác (điểm đánh giá trung bình (mean) là 3,76). Điều đó cho thấy, các chính sách xúc tiến thương mại về phát triển làng nghề được đánh giá là phù hợp trong giai đoạn hiện nay.

Tính thống nhất của chính sách: Điểm đánh giá trung bình (mean) là 3,19 thể hiện tỷ trọng các doanh nghiệp đánh giá mức độ “bình thường” về tính thống nhất của chính sách. Điều đó cho thấy, mặc dù các doanh nghiệp đánh giá các chính sách xúc tiến thương mại về phát triển làng nghề thủ công mỹ nghệ hiện nay là có tính thống nhất, song đây cũng là tiêu chí mà Nhà nước cần chú ý hơn trong thời gian tới để nâng cao được vai trò của chính sách.

Tính ổn định của chính sách: Từ kết quả nghiên cứu cho thấy, các doanh nghiệp đánh giá sự ổn định của các chính sách xúc tiến thương mại đối với phát triển làng nghề thủ công mỹ nghệ là không cao (điểm đánh giá trung bình (mean) là 2,76). Điều đó cho thấy, sự không ổn định là hạn chế của chính sách xúc tiến thương mại hiện nay.

Ngoài ra, các hoạt động ứng dụng thương mại điện tử để xúc tiến thương mại còn gặp phải một số tồn tại và nguyên nhân sau:

          Các làng nghề còn gặp một số khó khăn, vướng mắc trong quá trình phát triển, đặc biệt là trong việc tìm đầu ra tiêu thụ sản phẩm.

          Các làng nghề còn nhiều hạn chế về quảng bá, giới thiệu sản phẩm nên việc cạnh tranh còn yếu so với nhiều sản phẩm thủ công của các nước khác. Vì vậy, việc các doanh nghiệp làng nghề đẩy mạnh phát triển thương mại điện tử là sự cần thiết để giới thiệu cũng như tìm kiếm khách hàng cả trong nước và quốc tế.

          Hiện nay, các làng nghề đang còn gặp nhiều khó khăn về ứng dụng công nghệ thông tin do chủ yếu là mô hình hộ sản xuất nhỏ lẻ. Vì vậy cần có thêm các hỗ trợ kịp thời, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất làng nghề tham gia thương mại điện tử.

          Chưa chú trọng việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền hướng dẫn doanh nghiệp, cơ sở làng nghề ứng dụng internet để khai thác thông tin thị trường, cập nhật chính sách, luật pháp thương mại trong nước và quốc tế.

          Những làng nghề đã ứng dụng thương mại điện tử vào việc giới thiệu và tìm kiếm khách hàng, cho rằng hiệu quả từ kênh bán hàng này chưa thực sự như mong đợi. Thông tin đưa lên những cửa hàng bán lẻ trực tuyến còn đơn điệu và chưa sát với thực tế sản phẩm cũng như nhu cầu của khách hàng. Ngoài ra, khi đã có khách hàng muốn thương lượng và thương lượng xong về sản phẩm thì nhiều doanh nghiệp vẫn không giữ được khách do bộ phận làm giá lại đưa ra giá không thực tế.

          Mặc dù hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam đã xuất khẩu sang những thị trường khó tính như EU, Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc... nhưng việc mở rộng thị trường vẫn khó khăn.

          Đào tạo nhân lực tại làng nghề để ứng dụng thương mại điện tử còn nhiều vướng mắc. Thực tế cho thấy, trình độ tay nghề lao động còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu công việc; kỹ năng làm việc của lao động chưa đáp ứng xu thế thị trường. Trình độ tay nghề lao động hạn chế ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm, uy tín của làng nghề và ảnh hưởng đến sự phát triển của làng nghề. Kỹ năng ứng dụng công nghệ thông tin còn hạn chế để làm việc liên quan đến các hoạt động như thiết kế mẫu mã sản phẩm, nghiên cứu thị trường, marketing, giao tiếp với khách hàng... Các sản phẩm của làng nghề đa số chưa có thương hiệu hàng hoá, mẫu mã, kiểu dáng thay đổi chậm nên sức cạnh tranh kém. Kỹ năng kinh doanh, bí quyết trong marketing, kế hoạch tài chính, tổ chức công ty, trình độ ngoại ngữ... vẫn còn yếu kém.

3. Thúc đẩy thương mại điện tử - giải pháp quan trọng nhằm hoàn thiện chính sách xúc tiến thương mại tại các làng nghề thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam

Chính sách xúc tiến thương mại đóng vai trò quan trọng trong hệ thống các chính sách về phát triển làng nghề thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam. Từ việc tìm hiểu các chính sách xúc tiến thương mại, đặc biệt thông qua việc đánh giá các tiêu chí chính sách, ta đã phân tích được thực trạng các chính sách xúc tiến thương mại hiện nay. Đây sẽ là cơ sở để hoàn thiện chính sách, giúp cho các chính sách xúc tiến thương mại được minh bạch hơn, phù hợp hơn, thống nhất hơn và ổn định hơn. Các doanh nghiệp, cơ sở làng nghề khi ứng dụng thương mại điện tử sẽ đem lại nhiều hiệu quả thiết thực như tăng doanh thu, giảm chi phí, đem đến dịch vụ tốt hơn cho khách hàng, có thể làm marketing toàn cầu và đem lại lợi thế cạnh tranh lớn. Các doanh nghiệp tại các làng nghề nên xây dựng những trang thương mại điện tử riêng. Điều đó không chỉ có tác dụng tiếp cận và mở rộng thị trường, trang thương mại điện tử còn tập hợp được sức mạnh của các sản phẩm làng nghề, do đó công tác quảng bá thương hiệu sẽ thuận lợi hơn rất nhiều. Vì vậy, thúc đẩy thương mại điện tử là giải pháp quan trọng để hoàn thiện hơn các chính sách xúc tiến thương mại, sẽ góp phần phát triển làng nghề thủ công mỹ nghệ Việt Nam, các giải pháp cụ thể là:

Một là, hoàn thiện quảng bá các sản phẩm chủ lực và xây dựng thương hiệu cho sản phẩm làng nghề qua trang thương mại điện tử. Để củng cố tính phù hợp trong chính sách của Nhà nước trong thời gian tới nhằm phát triển, quảng bá các sản phẩm chủ lực cho các làng nghề, các cơ sở sản xuất phải “đáp ứng” được nhu cầu của khách hàng. Muốn vậy, từ các chính sách của Nhà nước, các cơ sở sản xuất tại làng nghề phải đầu tư nghiên cứu thị trường đối với từng đối tượng khách hàng để sản xuất ra những sản phẩm có mẫu mã, màu sắc phù hợp. Việc khảo sát có thể thực hiện online để tiết kiệm chi phí và thu được thông tin nhanh chóng.

Đa dạng hóa sản phẩm làng nghề, tập trung sản xuất các mặt hàng có giá trị nghệ thuật, phù hợp với thị hiếu của khách hàng. Ví dụ với đối tượng là khách du lịch thì nhìn chung hầu hết du khách khi đi du lịch ít khi mua các sản phẩm có kích thước và trọng lượng lớn. Họ thường có xu hướng mua các sản phẩm vừa và nhỏ, độc đáo, lạ mắt, có giá trị nghệ thuật để làm đồ lưu niệm hoặc làm quà cho người thân. Do vậy, các làng nghề cần tìm hiểu nắm bắt được nhu cầu này của khách du lịch để tạo ra các sản phẩm phù hợp, đưa sản phẩm lên cổng thương mại điện tử tại địa phương để khách hàng tham khảo và lựa chọn sản phẩm.

Đối với một số làng nghề, khi khách du lịch tới tham quan các cơ sở sản xuất có thể hướng dẫn họ tự làm một số sản phẩm đơn giản; du khách thường tìm hiểu quy trình sản xuất, cách làm và đặc biệt thích tự tay mình làm được một sản phẩm nào đó dù rất đơn giản dưới sự hướng dẫn của các nghệ nhân hay những người thợ ở đây. Khi đó những trải nghiệm mà du khách có được sẽ càng có giá trị và ấn tượng mạnh mẽ về chuyến đi. Nó cũng sẽ tạo nên sự khác biệt, điểm nhấn độc đáo của chuyến tham quan. Quá trình này sẽ được đăng tải trên website để thu hút khách du lịch đến với làng nghề thông qua sự độc đáo của các hoạt động.

Trên thực tế, các chính sách của Nhà nước nhằm xúc tiến, quảng bá cho sản phẩm của các làng nghề thủ công mỹ nghệ Việt Nam đã được thực thi từ nhiều năm. Tuy nhiên, việc áp dụng thương mại điện tử chưa được khai thác hiệu quả. Do vậy, Nhà nước và người dân cần phải có sự thay đổi trong cách thức quảng bá, bán hàng, tập trung xây dựng, phát triển những sản phẩm chủ lực, ứng dụng thương mại điện tử để nâng cao thế mạnh sản phẩm của mình.

Hai là, hoàn thiện chính sách về thông tin và tiếp thị.

Để hoàn thiện chính sách thông tin và tiếp thị cần có sự phối hợp của các cơ quan chức năng. Các cơ quan này cần tăng cường khả năng tiếp cận và mở rộng thị trường trong nước và thị trường nước ngoài thông qua hình thức quảng cáo, triển lãm, hội chợ trong nước và quốc tế, tổ chức nghiên cứu, nắm bắt và cung cấp thông tin về thị trường như các thông tin hàng hóa, chất lượng và giá cả hàng hóa, khách hàng và điều kiện mua bán của khách hàng, phương thức mua bán và thị hiếu người tiêu dùng.

Việc nghiên cứu và dự báo thị trường cũng phải được coi trọng, nhất là những dự báo dài hạn và trung hạn đối với các loại sản phẩm. Điều này không chỉ có ý nghĩa đối với người sản xuất trong việc xác định chiến lược kinh doanh thích ứng, mà còn có ý nghĩa đối với các ngành, các cấp khi xây dựng kế hoạch và chính sách kinh tế vĩ mô. Hình thành các tổ chức xúc tiến thương mại là một việc cần thiết cả về trước mắt cũng như lâu dài. Các tổ chức này có nhiệm vụ cung cấp các thông tin về thị trường, hỗ trợ các cơ sở sản xuất tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm.

Quy định các cơ chế phối hợp giữa hệ thống xúc tiến thương mại với các hệ thống khuyến khích xúc tiến tư vấn, đầu tư, hệ thống khuyến nông, khuyến lâm... để cung cấp thông tin online; dự báo thị trường trong và ngoài nước đối với những mặt hàng của các làng nghề. Thành lập các điểm thông tin thị trường tại các chợ đầu mối ở nông thôn, các trung tâm sản xuất ngành nghề ở các làng nghề: tiếp tục thực hiện mở rộng đối tượng, hình thức, nâng cao mức hỗ trợ của các hoạt động hội chợ, triển lãm, hội thảo... trong và ngoài nước. Tuyên truyền cho doanh nghiệp về chính sách, giải pháp liên quan đến việc triển khai thương mại điện tử, nâng cao năng lực cạnh tranh và xuất khẩu; đồng thời cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp về giải pháp thương mại điện tử mới nhất, giúp doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả và giảm chi phí. Các doanh nghiệp, cơ sở làng nghề nên chủ động tham gia thương mại điện tử về mọi mặt, từ cơ sở vật chất đến nguồn lực. Cần nhân rộng giải pháp thiết thực đã áp dụng như: Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đã ký kết thỏa thuận hợp tác với Hiệp hội Làng nghề về chương trình “Hỗ trợ doanh nghiệp thuộc Hiệp hội Làng nghề Việt Nam ứng dụng thương mại điện tử phục vụ xuất khẩu”; hỗ trợ mở các lớp đào tạo tập huấn, tổ chức các hội thảo, hội nghị để tuyên truyền cũng như giải đáp các thắc mắc của doanh nghiệp về xây dựng thương mại điện tử...

Ba là, đổi mới chính sách xuất - nhập khẩu và hội nhập kinh tế quốc tế. Xây dựng hoàn chỉnh cơ chế điều hành xuất - nhập khẩu hàng hóa ổn định, lâu dài trong thời gian tới trên cơ sở chính sách pháp luật hiện có, lộ trình đã cam kết trong hội nhập quốc tế và tình hình thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh xuất - nhập khẩu thời gian qua. Đặc biệt là việc tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính trong lĩnh vực thương mại: xóa bỏ thủ tục phiền hà, công khai, minh bạch, ổn định môi trường pháp lý, bảo hộ hợp lý có chọn lọc những mặt hàng lợi thế bằng các công cụ phù hợp với các cam kết quốc tế. Các thủ tục về xuất - nhập khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ và các sản phẩm khác có thể đăng ký trực tuyến để tạo thuận lợi cho các bên tham gia trao đổi hàng hóa. Hoàn thiện các chính sách tạo thuận lợi và bảo hộ cho các doanh nghiệp trong nước nói chung và các làng nghề nói riêng. Ban hành các chính sách hỗ trợ xuất khẩu phù hợp với quy định về trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp nông nghiệp nhằm giúp các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh ở các làng nghề trong các khâu đào tạo nguồn nhân lực, nghiên cứu khoa học, công nghệ mới, xúc tiến thương mại, v.v… Các chính sách hỗ trợ xuất khẩu được tuyên truyền sâu rộng trên cổng thông tin điện tử địa phương và có thể gửi email đến các đối tượng liên quan đến chính sách.

Bốn là, xây dựng chính sách phù hợp để phát triển mối quan hệ chặt chẽ giữa các công ty du lịch với các làng nghề. Để phát triển du lịch làng nghề đòi hỏi phải có sự kết nối sâu rộng hơn giữa các làng nghề, khai thác triệt để những tiềm năng còn bỏ ngỏ. Đây còn là phương thức nhân lên sức mạnh thương hiệu, góp phần giải quyết mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển làng nghề trong hội nhập quốc tế và đó cũng là cách để xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm cho các làng nghề.

Chính sách của Nhà nước cần đề cập nhiều hơn nữa đến vấn đề liên kết xây dựng mối quan hệ chặt chẽ với các công ty du lịch của các tỉnh và các địa phương để xây dựng sản phẩm, thường xuyên cập nhật thông tin và có nguồn khách hàng ổn định. Các đơn vị kinh doanh lữ hành cần ứng dụng các phương hướng, biện pháp nhằm phát triển du lịch làng nghề ở nước ta là một vấn đề lớn, không chỉ là trách nhiệm của cơ quan quản lý ngành du lịch, mà còn cần sự phối hợp của nhiều ban, ngành như các cơ quan quản lý văn hóa, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Bộ Tài nguyên và Môi trường; Bộ Công thương...

Nâng cao hoạt động của các làng nghề gắn với hoạt động du lịch: lựa chọn một số làng nghề đang thu hút khách để định hướng đầu tư các dịch vụ du lịch, hình thành nên các phòng trưng bày (hay bảo tàng làng nghề), các trạm thông tin điện tử và hướng dẫn du lịch. Ưu tiên việc đầu tư các thiết chế văn hóa thể thao để duy trì và tăng cường các hoạt động sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng làng nghề phục vụ khách du lịch. Tích cực tuyên truyền văn hóa du lịch tới từng hộ dân để từng bước đẩy mạnh hoạt động du lịch cộng đồng tại làng nghề, hướng đến tự các làng nghề tổ chức và điều hành các hoạt động du lịch.

Thực hiện tốt công tác tuyên truyền, quảng bá trên trang web và cổng thông tin điện tử về du lịch làng nghề như tổ chức tham gia các hội chợ triển lãm, hội chợ du lịch trong nước và quốc tế. Giới thiệu thông tin chi tiết về các sản phẩm làng nghề trên các trang thương mại điện tử, trên các mạng xã hội, tạp chí, các phương tiện thông tin đại chúng, các sách báo, ấn phẩm mà khách du lịch thường quan tâm theo dõi. Đẩy mạnh việc trưng bày, giới thiệu sản phẩm ở các thành phố, đô thị lớn là nơi tập trung nhiều du khách. Phối hợp với cơ quan quản lý nhà nước tổ chức tốt các tour du lịch làng nghề để thông qua du khách có thể quảng bá sản phẩm bằng hình thức truyền miệng từ người này sang người khác.

Năm là, hoàn thiện tổ chức và quản lý các hiệp hội ngành nghề.

Nhà nước cần xây dựng cơ sở pháp lý cho hoạt động của các hiệp hội ngành nghề từ việc cụ thể hóa quyền xác lập thành lập, sáp nhập, giải thể, quyền và nghĩa vụ pháp lý của hiệp hội, cũng như thể chế hóa các mối quan hệ phối hợp giữa các hiệp hội làng nghề với các cơ quan chính quyền, thúc đẩy các hình thức liên kết doanh nghiệp, cung cấp các dịch vụ hỗ trợ thâm nhập, phát triển thị trường, tạo điều kiện cho doanh nghiệp thông qua các hiệp hội tham gia xây dựng và hoàn thiện cơ chế, chính sách.

Chính quyền địa phương cần có chính sách tạo điều kiện cho các hiệp hội phát huy được vai trò của họ như giao hàng hoặc đặt hàng trực tuyến; cho các hiệp hội tham gia tích cực hơn vào các chương trình phát triển kinh tế - xã hội nói chung và ngành nghề, làng nghề nói riêng; tham gia tư vấn, phản biện, xây dựng, đóng góp cho các chính sách liên quan thông qua các kênh trực tuyến để kịp thời xây dựng và điều chỉnh chính sách phù hợp.

Sáu là, đào tạo nguồn nhân lực phù hợp nhu cầu của xu thế thương mại điện tử.

Tăng cường đào tạo và bồi dưỡng để nâng cao trình độ văn hoá, quản lý và kỹ thuật, ứng dụng thương mại điện tử của các doanh nghiệp, hộ sản xuất và người lao động, thông qua các chương trình khuyến công, các trung tâm đào tạo dạy nghề của Trung ương và địa phương. Đào tạo cho các chủ cơ sở sản xuất hay doanh nghiệp về kiến thức pháp luật, kiến thức quản trị doanh nghiệp và thị trường, nâng cao năng lực về khoa học - kỹ thuật, về công nghệ thông tin thông qua các hình thức đào tạo đa dạng: các lớp ngắn hạn trực tiếp hoặc qua hệ thống e-learning.

Việc đổi mới mẫu mã theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại cần phải được quan tâm hàng đầu. Việc giảng dạy tạo mẫu sản phẩm, khuyến khích các cơ quan thông tin đại chúng quảng bá rộng rãi trên trang thương mại điện tử những thành tựu mới, sáng tạo mới về mẫu mã.

Thông qua ưu thế của công nghệ thông tin, cần tăng cường hơn nữa công tác đào tạo nghề theo hình thức truyền nghề, nhân cấy nghề, xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ đặc biệt để khuyến khích các nghệ nhân (nghệ nhân nhân dân, nghệ nhân ưu tú) và thợ giỏi tham gia đào tạo, chú trọng đến các nghề truyền thống, cổ truyền như: xây dựng chương trình, viết sách, giảng viên để tránh thất truyền nghề. Thực hiện quy chế thường xuyên tổ chức phong tặng danh hiệu nghệ nhân, thợ giỏi, bàn tay vàng cho lao động làng nghề, tổ chức các cuộc thi tay nghề cho thợ thủ công. Xây dựng chính sách tôn vinh, ưu đãi, trọng dụng các nghệ nhân, khuyến khích họ truyền nghề, dạy nghề cho lớp trẻ.

Bên cạnh đó, các làng nghề cần đào tạo nhân lực có trình độ sử dụng công nghệ thông tin để thực hiện việc nghiên cứu thị trường, nghiên cứu tâm lý hành vi tiêu dùng, nghiên cứu nhu cầu của khách hàng về sản phẩm thủ công mỹ nghệ Việt Nam bằng E-commerce. Việc nghiên cứu này có thể thực hiện ở các thị trường khác nhau, kể cả trong nước và nước ngoài để cung cấp các sản phẩm thủ công mỹ nghệ vừa có tính truyền thống, vừa có tính thời đại nhằm nâng cao sức cạnh tranh, thu hút khách hàng và nâng cao hiệu quả của hoạt động làng nghề truyền thống của thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0.

Tóm lại, để có được chính sách xúc tiến thương mại thực sự phù hợp, minh bạch, thống nhất và ổn định đòi hỏi phải có sự đồng tình, hợp tác chặt chẽ của nhiều tổ chức, ban, ngành và bản thân các làng nghề. Nhà nước phải luôn đóng vai trò định hướng, dẫn dắt thì việc thực thi các chính sách mới thực sự mang lại hiệu quả lâu dài và ổn định. Đổi mới cơ chế, chính sách phát triển thương mại thị trường có ý nghĩa quan trọng đối với sự tồn tại, phát triển hay suy vong của các làng nghề. Đặc biệt, trong xu thế hội nhập quốc tế hiện nay, việc ứng dụng thương mại điện tử cho các sản phẩm làng nghề sẽ trở thành kênh quảng bá, xúc tiến thương mại mang lại hiệu quả cao, để đưa các mặt hàng này vươn xa hơn ra thị trường trong nước và quốc tế.

 


[1] Nguyễn Thị Thu Hường: Chính sách nhà nước về phát triển làng nghề thủ công mỹ nghệ Việt Nam (Sách chuyên khảo), Nxb. Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội, 2015

Đăng ký nhận email

Đăng ký email để có thể có được những cập nhật mới nhất về tải liệu được đăng tải trên website

Tập san đã phát hành