Thứ hai, 11 Tháng 12 2023 07:55

Phát triển về nhận thức lý luận về mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất trong điều kiện kinh tế thị trường

Trong giai đoạn trước năm 1986, nền kinh tế Việt Nam chịu tác động của nhiều nhân tố đặc thù. Xét về điều kiện trong nước, đó là nền kinh tế trong điều kiện có chiến tranh. Xét về bối cảnh thế giới, hệ thống các quốc gia xã hội chủ nghĩa thực hiện cơ chế kế hoạch hóa tập trung cao độ, động lực cho sản xuất suy giảm, năng suất lao động xã hội của các quốc gia trong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa ít được cải thiện. Trong khi đó, với các nước tư bản, giai đoạn từ thập kỷ 60 đến thập kỷ 90 của thế kỷ XX là thời kỳ tăng trưởng tốt, thậm chí là thời kỳ tăng trưởng vàng đối với nhiều nước tư bản phát triển. Năng suất lao động, quy mô và tốc độ tăng trưởng của các nước tư bản liên tục được nâng lên.

Là một quốc gia thuộc hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế Việt Nam chịu tác động của nền tảng phát triển về thức hệ và lý luận chung của các nước xã hội chủ nghĩa, trong đó có mô hình kinh tế Xôviết - được coi là hình mẫu cho các quốc gia xã hội chủ nghĩa tiếp thu. Xét về mặt lịch sử, kinh tế Việt Nam trước Đổi mới (1986) là thể chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung.

Về đường lối phát triển lực lượng sản xuất thông qua phát triển công nghiệp, trong suốt thời kỳ trước đổi mới, đường lối cho sự phát triển công nghiệp được thể hiện đặc trưng trong điều kiện nền kinh tế vận hành dưới sự tác động của chiến tranh. Các ngành sản xuất một mặt vừa đảm bảo đáp ứng nhu cầu cho tiêu dùng, vừa đảm bảo dự trữ và phục vụ nhu cầu của nhiệm vụ chiến đấu và bảo vệ Tổ quốc. Về cơ bản những thành tựu nổi bật trong phát triển công nghiệp thời kỳ trước đổi mới được sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, trong đó chủ yếu là Liên Xô và một số ít là sự giúp đỡ của Trung Quốc.

Về hoàn thiện quan hệ sản xuất, tương ứng với cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan hệ sản xuất được nhấn mạnh gồm có ba mặt, quan hệ sở hữu, quan hệ tổ chức quản lý, quan hệ phân phối; trong đó, quan hệ sở hữu được nhấn mạnh đặc biệt. Thậm chí, có thời điểm đẩy quan hệ sở hữu vượt trước cả trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Về phương châm hoàn thiện quan hệ sản xuất, chỉ nhấn mạnh vai trò pháp lý của sở hữu mà chưa thấy rõ vai trò kinh tế của sở hữu, càng chưa thấy được rằng quan hệ sở hữu chỉ là tiền đề để thực hiện các lợi ích. Bản thân sở hữu không trực tiếp đem lại lợi ích mà còn phải thông qua quan hệ quản lý, phân phối và lưu thông. Đây là hạn chế căn bản về nhận thức cũng như tổ chức thực hiện giải quyết mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất trước đổi mới.

Cùng với đó, quan hệ phân phối được nhấn mạnh mang tính bao cấp, thực hiện theo kế hoạch và Nhà nước quản lý toàn diện quá trình phân phối cả thu nhập cũng như nguồn lực thông qua công cụ là Ủy ban Kế hoạch nhà nước. Sự hạn chế trong quan hệ phân phối như vậy đã dẫn đến sự trì trệ do các chủ thể kinh tế (cả trong nông nghiệp cũng như trong công nghiệp, thương mại thiếu động lực).

Trước năm 1960, vấn đề tiền lương của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được quy định trong các sắc lệnh: Sắc lệnh về việc tạm thời áp dụng các văn bản pháp luật của chế độ cũ để lại; Sắc lệnh số 29/SL ngày 12/3/1947 quy định quan hệ giữa chủ với công nhân Việt Nam. Sau hòa bình lập lại, những yêu cầu đặt ra trong việc sửa đổi chế độ tiền lương đối với người lao động tại miền Bắc Việt Nam lần đầu tiên được đưa ra vào năm 1957 và chính thức được triển khai vào năm 1960, sau khi hoàn thành cải tạo kinh tế - xã hội chủ nghĩa. Trong đợt cải cách này, mức tiền lương cụ thể cho từng loại công việc, thời gian trả, hình thức trả lương, nâng bậc lương và các vấn đề khác liên quan đều do Nhà nước định sẵn thông qua hệ thống các bậc lương và phụ thuộc vào ngân sách nhà nước. Vấn đề tiền lương tối thiểu được Chính phủ giới hạn trực tiếp bằng việc quy định cụ thể các mức lương trong các ngành. Trong mỗi ngành đều có mức lương thấp nhất (mức lương bậc một - mức lương khởi điểm) được trả cho người lao động ứng với công việc đòi hỏi trình độ và cường độ lao động thấp nhất.

Ngày 05/7/1960, Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định số 25/CP quy định chế độ lương thuộc khu vực hành chính sự nghiệp. Theo đó, chế độ lương của cán bộ, viên chức công tác ở các cơ quan hành chính sự nghiệp được thực hiện theo nguyên tắc: mức lương của cán bộ lãnh đạo cao hơn mức lương của cán bộ, nhân viên; mức lương của chức vụ có yêu cầu cao về kỹ thuật, nghiệp vụ, cao hơn mức lương của chức vụ mà kỹ thuật, nghiệp vụ đơn giản hơn; mức lương của lao động trong điều kiện khó khăn, hại sức khỏe, cao hơn mức lương của lao động trong điều kiện bình thường; cán bộ, viên chức đang làm chức vụ gì thì xếp lương theo chức vụ ấy, khi chức vụ thay đổi thì bậc lương cũng thay đổi theo.

Một trong những điểm nhấn của chính sách cải cách tiền lương ở Việt Nam trong giai đoạn 1960 - 1984 là hướng tới mục tiêu chiếu cố toàn diện, cân nhắc kỹ lưỡng giữa yêu cầu và khả năng, kết hợp nguyên tắc với thực tế để vận dụng đúng đắn nguyên tắc phân phối theo lao động vào tình hình thực tế đất nước (...), chống chủ nghĩa bình quân, phải chống xu hướng đòi công bằng hợp lý một cách tuyệt đối, không phù hợp với hoàn cảnh thực tế của đất nước.

Như vậy, việc giải quyết mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất ở Việt Nam giai đoạn trước đổi mới thể hiện đặc thù của một nền kinh tế có chiến tranh, thoát khỏi sự đô hộ của chế độ thực dân, tiến lên xã hội xã hội chủ nghĩa.

Đại hội VI của Đảng (năm 1986) đánh dấu bước ngoặt về đổi mới tư duy lý luận, mặc dù trước đó một số nỗ lực tìm tòi đổi mới cả lý luận về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất đã được thể nghiệm. Tuy nhiên, phải đến Đại hội VI, đường lối đổi mới chính thức được tuyên bố. Đại hội đã thẳng thắn chỉ ra những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm trong chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện, trong đó có sai lầm và thiếu sót trong nhận thức và chỉ đạo về việc vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phải phủ hợp với trình độ phát triển lực lượng sản xuất. Đại hội chỉ rõ: “Trong nhận thức cũng như hành động, chúng ta... chưa nắm vững và vận dụng đúng quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất”[1].

Trên cơ sở nhận thức lại lý luận, Đảng ta đã có những đổi mới quan trọng trong tư duy nhận thức về vấn để giải quyết quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất thông qua thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm từng bước phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sở hữu và các thành phần kinh tế, thừa nhận sự tồn tại khách quan của nhiều hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế. Coi đó là sự thể hiện trên thực tế về mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất.

Trên cơ sở đó, việc hoàn thiện quan hệ sản xuất, mặc dù sự mới tiếp cận ở trình độ nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, đã có những chủ trương cụ thể về thay đổi cơ chế quản lý và cơ chế phân phối, chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, từ cơ chế phân phối bình quân sang cơ chế phân phối theo lao động và tài sản đóng góp. Đồng thời, đã nhận thức rõ hơn về quan hệ sở hữu qua các quyền của sở hữu như: quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyển thừa kế, quyển chuyển nhượng, quyền định đoạt, quyền hưởng lợi. Đại hội đã xác định: “nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ và chỉ rõ các thành phần kinh tế ở Việt Nam là: “Kinh tế xã hội chủ nghĩa bao gồm khu vực quốc doanh và khu vực tập thể, cùng với bộ phận kinh tế gia đình gắn liền với thành phần đó. Các thành phần kinh tế khác gồm: kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa (thợ thủ công, nông dân cá thể, những người buôn bán và kinh doanh dịch vụ cá thể); kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức, mà hình thức cao là công tư hợp doanh; kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc trong một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên và các vùng núi cao khác”[2]. Đại hội đã điều chỉnh mục tiêu và yêu cầu cải tạo xã hội chủ nghĩa, coi đây là bước chuyển lý luận quan trọng về giải quyết mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất: “Trong mỗi bước đi của quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa, phải đẩy mạnh việc xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, tạo ra lực lượng sản xuất mới; trên cơ sở đó tiếp tục đưa quan hệ sản xuất lên hình thức và quy mô mới thích hợp để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển”[3].

Trong những năm đầu Đổi mới, giải quyết mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất thông qua phát triển các thành phần kinh tế, nhìn chung tư tưởng về các thành phần kinh tế mới chỉ được phác thảo ở những đường nét khái quát và ít nhiều vẫn bị ảnh hưởng bởi tư duy củ ể chủ nghĩa xã hội khi quy định rõ thành phần “kinh tế - xã hội chủ nghĩa” và “các thành phần kinh tế khác”, tức là ngầm định các thành phần kinh tế - xã hội chủ nghĩa và các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa. Hơn nữa, trong khi chỉ rõ “đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, với những hình thức và bước đi thích hợp, làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, luôn luôn có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất”[4], Đại hội cũng nhấn mạnh: “điều quan trọng nhất là củng cố và phát triển kinh tế - xã hội chủ nghĩa, trước hết là làm cho kinh tế quốc doanh thật sự giữ vai trò chủ đạo, chi phối được các thành phần kinh tế khác”. Tư duy đổi mới này mặc dù mới ở bước đầu song đã đánh dấu một bước chuyển biến quan trọng trong lý luận của Đảng về phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất. Thay vì chỉ tập trung vào phát triển công nghiệp nặng, coi công nghiệp nặng là cứu cánh của quá trình phát triển lực lượng sản xuất và do đó toàn bộ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Từ đó làm cho việc sản xuất hàng hóa tiêu dùng không đủ nguồn lực để thực hiện. Việc nhấn mạnh hoàn thiện quan hệ sản xuất nhằm thúc đẩy sự phát triển lực lượng sản xuất là bước tiến về tư duy, thể hiện sự nhận thức đúng đắn mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất.

Đại hội VII của Đảng năm 1991 đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Một trong những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa được xác định trong Cương lĩnh là: “Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu”[5]. Cương lĩnh nêu rõ phương hướng: “phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu. Phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân...” Cương lĩnh cũng xác định phương hướng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa: kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và mở rộng; kinh tế cá thể có phạm vi tương đối lớn, từng bước đi vào con đường làm ăn hợp tác trên cơ sở nguyên tắc tự nguyện, dân chủ và cùng có lợi; tư bản tư nhân được kinh doanh trong những ngành nghề có lợi cho quốc kế dân sinh do luật pháp quy định; phát triển kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức; kinh tế gia đình được khuyến khích phát triển mạnh, nhưng không phải là một thành phần kinh tế độc lập; các hình thức sở hữu hỗn hợp và đan kết với nhau hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng; các tổ chức kinh tế tự chủ và liên kết, hợp tác và cạnh tranh trong sản xuất và kinh doanh. Cương lĩnh khẳng định: “Mọi người được tự do kinh doanh theo pháp luật, được bảo hộ quyền sở hữu và thu nhập hợp pháp”[6].

Trên nền tảng các luận điểm của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, các đại hội Đảng tiếp theo đã cụ thể hóa các chủ trương về phát triển các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế và các hình thức tổ chức kinh tế trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Đại hội VIII của Đảng (năm 1996) tổng kết và rút ra các bài học từ mười năm thực hiện công cuộc đổi mới; trong đó có bài học: “Xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường phải đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái”. Đại hội chỉ rõ “Để phát triển sức sản xuất, cần phát huy khả năng của mọi thành phần kinh tế, thừa nhận trên thực tế còn có bóc lột và sự phân hóa giàu nghèo nhất định trong xã hội, nhưng phải luôn quan tâm bảo vệ lợi ích của người lao động, vừa khuyến khích làm giàu hợp pháp, chống làm giàu phi pháp, vừa coi trọng xóa đói, giảm nghèo, từng bước thực hiện công bằng xã hội, tiến tới làm cho mọi người, mọi nhà đều khá giả”. Đại hội cụ thể hóa các luận điểm của Cương lĩnh, xác định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, làm rõ hơn quan niệm về chặng đường đầu tiên và chặng đường tiếp theo. Đại hội cũng xác định rõ: “Mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh[7]”. Đại hội khẳng định tính nhất quán, lâu dài của chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Coi giải phóng sức sản xuất, động viên tối đa mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao hiệu quả kinh tế và xã hội, cải thiện đời sống của nhân dân làm mục tiêu hàng đầu trong việc khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế và các hình thức tổ chức kinh doanh. Đại hội cũng xác định rõ chủ trương đối với từng thành phần kinh tế

Trên cơ sở tinh thần chung của Đại hội, các Hội nghị Trung ương đã cụ thể hóa về đường lối đẩy mạnh thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa để phát triển lực lượng sản xuất. Nghị quyết về đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà trọng tâm là công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn đã cho thấy bước tiến tiếp theo trong việc giải quyết mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất thích hợp với điều kiện kinh tế thị trường, ít nhất là về mặt đường lối. Bước tiến thể hiện ở chỗ, việc giải quyết quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất từ một nước nông nghiệp lạc hậu từ các Đại hội trước chưa được hình dung một cách mạch lạc phải gắn với bối cảnh kinh tế thị trường. Đến Đại hội VIII, đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa để phát triển lực lượng sản xuất, coi sự phát triển lực lượng sản xuất là tiêu chí phản ánh sự phù hợp của quan hệ sản xuất trong điều kiện kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Có được nhận thức lý luận như vậy, Đảng ta đã phải trải qua hơn một thập kỷ tổng kết thực tiễn sự phát triển kinh tế trong nước và tình hình thế giới.

Đại hội IX của Đảng (năm 2001) đã thông qua Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010; trong đó tư tưởng về giải quyết mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất tiếp tục được nhấn mạnh. Chiến lược xác định các nhiệm vụ phát triển trọng tâm gắn với thúc đẩy kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế. Về phương thức giải quyết mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất, Đại hội khẳng định lại tư tưởng trong thời kỳ quá độ, có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, nhiều thành phần kinh tế, “chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Đại hội cũng xác định một tư tưởng hết sức quan trọng là: “Chế độ sở hữu công cộng (công hữu) về tư liệu sản xuất chủ yếu từng bước được xác lập và sẽ chiếm ưu thế tuyệt đối khi chủ nghĩa xã hội được xây dựng xong về cơ bản. Xây dựng chế độ đó là một quá trình phát triển kinh tế - xã hội lâu dài qua nhiều bước, nhiều hình thức từ thấp đến cao. Phải từ thực tiễn tìm tòi, thử nghiệm để xây dựng chế độ sở hữu công cộng nói riêng và quan hệ sản xuất mới nói chung với bước đi vững chắc. Tiêu chuẩn căn bản để đánh giá hiệu quả xây dựng quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa là thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện công bằng xã hội”. Đại hội nêu rõ: “Từ các hình thức sở hữu cơ bản: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân hình thành nhiều thành phần kinh tế với những hình thức tổ chức kinh doanh đa dạng, đan xen, hỗn hợp”[8]. Các thành phần kinh tế được xác định trong kỳ Đại hội này là: kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể; kinh tế cá thể và tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Đại hội cũng làm rõ hơn mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: “Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản lý và phân phối”.

Đại hội X của Đảng (năm 2006) đã tổng kết 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, làm rõ hơn định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở nước ta. Đại hội đã có sự điều chỉnh nhất định về đặc trưng kinh tế của xã hội xã hội chủ nghĩa: “Có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất”. Tuy nội hàm về lực lượng sản xuất phát triển cao chưa được giải thích cụ thể, song về cơ bản, tinh thần lấy sự phát triển về lực lượng sản xuất, coi giải phóng nguồn lực để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội được xem là tư duy lý luận phù hợp với tinh thần lý luận nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất. Không những thế, việc chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế đã đem lại tư duy mới về vấn đề tiếp nhận hoạt động của tư bản đầu tư nước ngoài vào để góp phần phát triển lực lượng sản xuất. Về quan hệ sản xuất, xét riêng đối với vấn đề sở hữu, Đại hội khẳng định: “Phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân”. Không coi sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân là các hình thức sở hữu, Đại hội X xác định: “Trên cơ sở ba chế độ sở hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân), hình thành nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài”[9]. Lần đầu tiên, kinh tế tư nhân được xác định là "một trong những động lực của nền kinh tế. Thay vì đề cập phương hướng chung phát triển các thành phần kinh tế, Đại hội đã nêu ra định hướng phát triển các loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh: doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể và doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

Đại hội XI của Đảng (năm 2011) tiếp tục cho thấy sự chuyển biến tích cực về việc vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất trong điều kiện nền kinh tế tiểu nông, đa số lực lượng lao động nằm ở khu vực nông thôn, nông nghiệp, trình độ khoa học - công nghệ còn thấp kém. Đại hội nhấn mạnh phương thức thực hiện giải quyết mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất trong điều kiện tích cực, chủ động hội nhập quốc tế là: “Đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nhanh, bền vững”.

Về phát triển các thành tố cấu thành lực lượng sản xuất, Đại hội XI nhấn mạnh: “Phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao”; trong đó lấy đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa; đổi mới chương trình, nội dung và cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên, tập trung nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo, coi trọng giáo dục đạo đức, kỹ năng. Đây là điểm mới về lý luận khi xác định phát triển cấu thành quan trọng bậc nhất của lực lượng sản xuất là nâng cao trình độ nguồn nhân lực. Điểm mới này cũng thể hiện sự phù hợp giữa đường lối với bối cảnh lực lượng sản xuất thế giới những năm đầu thế kỷ XXI.

Về phát triển khoa học - công nghệ, Đại hội XI coi khoa học. công nghệ làm động lực nâng cao năng suất, chất lượng hiệu quả, phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế.

Về khía cạnh hoàn thiện quan hệ sản xuất, Đại hội XI xác định lấy thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển là một chủ trương lớn, nhất quán của Đảng và Nhà nước, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa.

Về phương thức giải quyết mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất đảm bảo tính định hướng xã hội chủ nghĩa, Đại hội XI nhấn mạnh chủ trương mới về mặt lý luận so với các kỳ đại hội trước đó là: “Để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, phải tiếp tục đổi mới toàn diện, mạnh mẽ với chất lượng và hiệu quả cao hơn; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức; phát triển kinh tế thị trường gắn với giải quyết hài hòa các vấn đề xã hội, môi trường; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng tinh thần của xã hội; đảm bảo vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia; thực hiện đường lối đối ngoại, độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”[10].

Đại hội XII của Đảng (năm 2016), lý luận về mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất được tiếp tục bổ sung, trong đó trọng tâm nhấn mạnh vào việc đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế. Coi đây là khâu trung tâm của việc giải quyết mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất trong điều kiện tác động mới nhất của kinh tế tri thức. Đại hội nhấn mạnh đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Về mặt lý luận, mục tiêu này có sự điều chỉnh so với tính thần của Cương lĩnh năm 1991. Tuy nhiên, sự điều chỉnh này là phù hợp với trình độ phát triển của Việt Nam. Về khía cạnh phát triển lực lượng sản xuất, Đại hội xác định: “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong giai đoạn tới là tiếp tục đẩy mạnh thực hiện mô hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế gắn với phát triển kinh tế tri thức, lấy khoa học - công nghệ, tri thức và nguồn nhân lực chất lượng cao làm động lực chủ yếu”[11]. Về công nghiệp, Đại hội XII chủ trương phát triển có chọn lọc một số ngành công nghiệp chế tạo, chế biến, công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp sạch, công nghiệp năng lượng, cơ khí, điện tử, hóa chất, công nghiệp xây dựng, xây lắp, công nghiệp quốc phòng an ninh. Đây là chủ trương khá sát với điều kiện kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập.

Về mặt hoàn thiện quan hệ sản xuất, Đại hội xác định: “Tiếp tục hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp”. Thực hiện thể chế hóa quyền tài sản bao gồm quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt và hưởng lợi từ sử dụng tài sản của Nhà nước, tổ chức và cá nhân đã được quy định trong Hiến pháp năm 2013. Mọi doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đều phải hoạt động theo cơ chế thị trường, bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật. Hoàn thiện thể chế bảo vệ nhà đầu tư, quyền sở hữu và quyền tài sản. Hoàn thiện pháp luật về phá sản theo cơ chế thị trường.

Trên tinh thần cơ bản đó, về phương thức giải quyết mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất, Đại hội chủ trương về mặt lý luận, tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, đẩy mạnh đổi mới kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác, khuyến khích các loại hình sản xuất kinh doanh với sở hữu hỗn hợp, nhất là các doanh nghiệp cổ phần. Hoàn thiện đồng bộ các yếu tố thị trường và cơ chế thị trường. Hoàn thiện cơ chế bảo vệ người tiêu dùng, phát huy đầy đủ, đúng đắn vai trò của người tiêu dùng. Về mặt nội hàm, việc xác định hoàn thiện các thể chế nêu trên coi như là phương thức hiện thực hóa mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất trong điều kiện kinh tế thị trường là phù hợp với nội dung của quy luật và thích ứng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường trong điều kiện thế giới hiện nay. Với sự bổ sung và phát triển về nhận thức nêu trên, Hội nghị lần thứ năm, Ban Chấp hành Trung ương khóa XII đã đi đến khẳng định, kinh tế tư nhân trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế quốc dân và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường tiếp tục được cụ thể hóa nhằm giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất trong điều kiện kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, nội dung Văn kiện Đại hội XII chưa đề cập tới sự phát triển của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và sự hình thành nền kinh tế số và lực lượng sản xuất số trong điều kiện kinh tế thị trường hiện đại trên thế giới.

Đại hội XIII của Đảng (năm 2021) đã xác định chủ trương: “Hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo môi trường thuận lợi để huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, thúc đẩy đầu tư, sản xuất kinh doanh. Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng và phát triển đô thị; phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới; ưu tiên nguồn lực phát triển hạ tầng nông thôn miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia; phát triển kinh tế số trên nền tảng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo; gắn kết hài hòa, hiệu quả thị trường trong nước và quốc tế; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế”[12].

Nhận thức về mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất trong đường lối của Đảng thể hiện tập trung ở việc hoàn thiện hệ thống thể chế. Hệ thống thể chế này trên thực tế, có tác động tích cực đối với thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội đất nước thời kỳ đổi mới.

 


[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 47, tr. 357

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006

[7] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006

[8] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006

[9] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006

[10] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr. 186-187.

[11] Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.89

[12] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.1, tr.114-115

Đăng ký nhận email

Đăng ký email để có thể có được những cập nhật mới nhất về tải liệu được đăng tải trên website

Tập san đã phát hành