1. Kinh nghiệm của một số quốc gia
1.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc
Triết lý trung tâm của hoàn thiện thể chế kinh tế giải quyết mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất của Trung Quốc hiện đại xuất phát từ tư tưởng cơ bản của Đặng Tiểu Bình về việc đặt ra mục tiêu là “cùng giàu có”[1].
Chủ nghĩa xã hội của Trung Quốc không chỉ là chủ nghĩa xã hội đất nước giàu mạnh, mà còn là chủ nghĩa xã hội nhân dân giàu có. Đó là biểu hiện tập trung tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội, là nguồn gốc sức sống mãnh liệt của chủ nghĩa xã hội, cũng là mục đích trong việc lấy phát triển lực lượng sản xuất làm nhiệm vụ căn bản trong giai đoạn xã hội chủ nghĩa.
Sau khi đã xác định nhiệm vụ căn bản trong giai đoạn xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất xã hội, thì tiếp ngay sau đó một vấn đề quan trọng được đặt ra là làm cách nào để phát triển lực lượng sản xuất. Đây chính là lôgíc cốt lõi của quá trình hoàn thiện thể chế giúp cho việc giải quyết quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất của Trung Quốc.
Cách thức thực hiện hoàn thiện thể chế từ nền kinh tế kế hoạch sang nền kinh tế thị trường chính là thực hiện cải cách, mở cửa sâu rộng, thực hiện phát triển các đặc khu để thu hút các nguồn lực, thực hiện chiến lược một nước hai chế độ để duy trì sự năng động của cơ chế thị trường trong huy động và phân bổ nguồn lực. Vấn đề trung tâm trong cải cách ở Trung Quốc là cải cách thể chế kinh tế. Bước đầu tiên của cải cách thể chế được bắt đầu từ nắm chắc nông nghiệp cuối năm 1970 đầu năm 1980, khi đó thể chế khoán đến sản phẩm cuối cùng được đã thu được thắng lợi đầu tiên, đặt cơ sở cho sự hình thành thể chế kinh tế thị trường của Trung Quốc sau này.
Vào những năm 1990, căn cứ vào kinh nghiệm hiện đại hóa của nước ngoài và kinh nghiệm cải cách của Trung Quốc tại một số vùng nông nghiệp tiên tiến trong nước, Trung Quốc đã đề ra tư tưởng kinh doanh nông nghiệp với quy mô vừa phải, đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, đưa nông thôn Trung Quốc từng bước cùng giàu có.
Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Trung Quốc để ra đường lối cơ bản về xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc, trên cơ sở đó, hàng loạt các thể chế kinh tế mới theo yêu cầu của nền kinh tế thị trường đã được Trung Quốc chú ý xây dựng. Ở Trung Quốc, thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa kết hợp với chế độ cơ bản của chủ nghĩa xã hội. Về mặt chính trị, chế độ cơ bản của chủ nghĩa xã hội có nghĩa là Đảng Cộng sản lãnh đạo, về mặt kinh tế thì lấy công hữu làm chủ thể. Cả hai mục tiêu đều nhằm mục tiêu xã hội là cùng giàu có. Về mặt kinh tế, nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa vận hành trong điều kiện nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế tư nhân là động lực. Đại hội XIV của Đảng Cộng sản Trung Quốc để ra việc xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa.
Việc hoàn thiện thể chế kinh tế giải quyết quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất của Trung Quốc trong suốt thập kỷ 90 của thế kỷ XX được tập trung vào cải cách hệ thống quản lý vì mô theo nguyên tắc chủ thể điều tiết vì mô phải là nhà nước. Do đó, Trung Quốc xác định hoàn thiện thể chế kinh tế phải làm cho “Trung ương phải có quyền uy". “Trung ương không có quyền uy thì không kiểm soát được tình hình”[2]. Hoàn thiện thể chế kinh tế theo nghĩa như vậy bảo đảm ổn định chế độ chính trị. Theo nguyên tắc trên, hoàn thiện thể chế kinh tế, trước hết là hoàn thiện thể chế kinh tế vĩ mô của Trung Quốc đã tập trung vào cải cách chế độ thuế, chuẩn mực hóa quan hệ kinh tế giữa trung ương và địa phương, tăng cường chức năng điều tiết kinh tế ở tầm vĩ mô. Chủ yếu ban đầu là thay đổi chế độ khoản ngân sách bằng chế độ phân chia thuế trên cơ sở quyền hạn trung ương và địa phương, tách quyển thu thuế của trung ương và của địa phương. Các loại thuế cần thiết cho sự bảo vệ quyền lợi của quốc gia và để thực hiện điều tiết vĩ mổ thì trung ương thu; các loại thuế có liên quan tới kinh tế địa phương mà không có ảnh hưởng ở tầm vĩ mô thì địa phương thu. Mục đích của cải cách thể chế về thuế là nhằm chuẩn mực hóa quan hệ kinh tế giữa trung ương và địa phương, vừa nhằm động viên tính tích cực của địa phương, vừa nhằm tăng cường năng lực điều tiết kinh tế vĩ mô của trung ương.
Tiếp theo là hoàn thiện thể chế tài chính ngân hàng, lập ra hệ thống tài chính ngân hàng lấy ngân hàng trung ương làm trung tâm, các ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính ngoài ngân hàng làm cơ sở. Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc không làm nhiệm vụ tài chính ngân hàng nói chung nữa. Từng bước hoàn thiện thể chế lãi suất nhằm tạo sự linh hoạt trong thị trường tín dụng.
Cùng với hoàn thiện thể chế tài chính, Trung Quốc đẩy mạnh cải cách sâu sắc thể chế đầu tư xây dựng chế độ phân phối thu nhập có hiệu quả, công bằng và chế độ bảo hiểm xã hội.
Về chế độ phân phối, thể chế phân phối ở Trung Quốc từng bước được hoàn thiện theo nguyên tắc lấy phân phối theo lao động làm chủ thể, đồng thời cho phép các hình thức phân phối khác cùng tồn tại. Quan điểm của Trung Quốc về vấn đề phân phối là ưu tiên hiệu suất, chú ý công bằng. Việc ưu tiên hiệu suất là để thúc đẩy tăng trưởng, nhưng không vì hiệu suất mà xem nhẹ công bằng, mà ưu tiên hiệu suất song song chú ý công bằng. Đó là nguyên tắc phân phối thu nhập, đồng thời cũng là nguyên tắc hoàn thiện thể chế bảo hiểm xã hội của Trung Quốc.
Trên cơ sở sự hoàn thiện thể chế ở giai đoạn đầu cải cách mở cửa đã đem lại thành tựu về kinh tế của Trung Quốc nổi bật trên thế giới trong suốt 3 thập kỷ gần đây. Hoàn thiện thể chế kinh tế đã đưa nền kinh tế Trung Quốc vươn lên hàng thứ hai thế giới về quy mô. Nhờ thành tựu kinh tế rất rõ đó mà chế độ chính trị Trung Quốc đã được giữ vững và không ngừng được đổi mới.
Gần đây nhất, trong đường lối phát triển kinh tế tại Đại hội XIX Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tiếp tục khẳng định phương châm giải quyết mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất là lấy thị trường làm căn cứ để phân bổ nguồn lực, nhà nước có vai trò chủ thể trong giải quyết quan hệ giữa nhà nước và thị trường.
Cùng với đó, để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, từ những năm đầu của thế kỷ XXI, Trung Quốc đã xây dựng chiến lược phát triển khoa học - công nghệ và phát triển nhân tài đặc biệt.
Về chiến lược phát triển khoa học - công nghệ, hàng loạt các chương trình đầu tư lớn với số lượng nguồn lực tài chính khổng lồ đã được Chính phủ Trung Quốc đưa vào hệ thống các chương trình “bó đuốc”. Hệ thống chương trình này bao hàm các chương trình phát triển khoa học - công nghệ mà Trung Quốc ưu tiên như: khoa học vũ trụ, khoa học số, khoa học vật liệu mới, khoa học năng lượng mới, công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ can thiệp sức khỏe con người, công nghệ quốc phòng. Nhờ đó mà hiện nay những thành tựu khoa học - công nghệ của Trung Quốc đã vươn lên tầm thế giới và tiếp cận ngôi vị các quốc gia có trình độ phát triển khoa học hàng đầu.
Về chiến lược phát triển nhân tài, Trung Quốc cũng là quốc gia thành công trong việc xây dựng thể chế và thực hiện thể chế phát triển nhân tài, thu hút đội ngũ khoa học hàng đầu trên khắp các trung tâm khoa học lớn của thế giới trở về cống hiến tại Trung Quốc. Cùng với đó, Trung Quốc tiến hành thực hiện chiến lược mở rộng đào tạo nhân lực tại nước ngoài để có được nguồn nhân tài trong tương lai.
Đó là những kinh nghiệm thành công của Trung Quốc về phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất trong điều kiện kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế.
1.2. Kinh nghiệm của Hàn Quốc
Kinh nghiệm về phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất của đất nước Hàn Quốc có thể được quan sát từ những thập kỷ hoàng kim của Hàn Quốc dưới sự lãnh đạo của Park Chung Hee.
Thứ nhất, hoàn thiện thể chế xác lập vai trò kinh tế của nhà nước, thúc đẩy đầu tư, thiết lập công cụ điều tiết thị trường là các Tập đoàn kinh tế mạnh, tập trung nguồn lực kinh tế để tạo tiền đề cho phát triển tăng tốc.
Để có thể thực hiện chuyển dần chính quyền quân sự sang Chính quyền dân sự hợp pháp, Park Chung Hee thành lập Hội đồng tối cao tái thiết quốc gia, thành lập thiết chế cơ quan tình báo quốc gia để huy động tuyển mộ những tài năng sáng giá nhất bên trong và bên ngoài bộ máy nhà nước cho nhiệm vụ xây dựng nhà nước và hiện đại hóa đất nước.
Đi liền với việc chuẩn bị xây dựng bộ máy, chính quyền Park Chung Hee xây dựng chiến lược phát triển kinh tế theo đường hướng của chủ nghĩa dân tộc kinh tế với sự kết hợp vai trò của biện pháp bảo hộ nhập khẩu, chính sách công nghiệp, và thúc đẩy xuất khẩu để chuyển đổi nền công nghiệp sơ khai thành một cỗ máy tăng trưởng cạnh tranh toàn cầu[3]. Biểu hiện của quá trình này chính là những thể chế kinh tế đầu tiên mang tính lựa chọn chính sách công nghiệp thúc đẩy liên kết thượng nguồn (liên kết với nhà cung cấp) và liên kết hạ nguồn (liên kết với khách hàng). Thông qua lựa chọn tổ hợp ngành thép làm điểm đột phá của Park Chung Hee về lĩnh vực công nghiệp và Phong trào Saemaul Undong để giải phóng sức sản xuất ở nông thôn đã trở thành thể chế kinh tế mang đậm dấu ấn của kỷ nguyên Park Chung Hee với sự tăng trưởng thần kỳ của Hàn Quốc những năm 70 của thế kỷ XX. Những đạo luật ban đầu được ban hành như Luật công nghiệp Hàn Quốc năm 1967 đã thúc đẩy gia tăng công nghiệp cơ khí; tiếp đến là Luật công nghiệp điện tử năm 1969 cho thấy thể chế kinh tế của Hàn Quốc đã bắt nhịp với Cách mạng công nghiệp lần thứ ba vào đúng thời điểm bình minh của nó đã đưa đến những thành công kinh tế của tăng trưởng dựa trên định hướng xuất khẩu của Hàn Quốc.
Năm 1966, Hàn Quốc ban hành Luật thu hút vốn đầu tư nước ngoài để thu hút vốn, khoa học, công nghệ phát triển đất nước. Đi liền với đó, Park Chung Hee không chủ trương thu hút đầu tư bằng mọi giá, quá trình thu hút đầu tư đó phải đảm bảo mục đích nuôi dưỡng các cheabol thành các doanh nghiệp độc tôn và kiểm soát dòng vốn nước ngoài cho các mục tiêu độc lập kinh tế của Park[4]. Rất nhiều ngành công nghiệp đã trở thành cấm địa với đầu tư nước ngoài trong hệ thống danh mục được nhập khẩu cho đến đầu những năm 1980 và hoạt động địa phương của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài cũng bị hạn chế trầm trọng. Bên cạnh những hạn chế, các thể chế bảo hộ cho sự phát triển của các cheabol những năm đầu là tiền để để kinh tế Hàn Quốc tăng trưởng, từ đó duy trì sự ổn định của chế độ chính trị Hàn Quốc trong suốt những thập kỷ tăng trưởng mạnh mẽ. Để lôi kéo các cheabol tham gia vào các kế hoạch phát triển kinh tế, chính quyền của Park Chung Hee khi thì công khai, lúc ngấm ngầm hỗ trợ cho các tập đoàn phát triển.
Thứ hai, kết hợp phát huy vai trò thể chế thị trường và vai trò của nhà nước để vượt qua khủng hoảng, duy trì tăng trưởng và sức cạnh tranh của nền kinh tế Hàn Quốc những năm 2000.
Khủng hoảng kinh tế ở Hàn Quốc đã xảy ra trong bối cảnh khủng hoảng tài chính năm 1997. Tuy nhiên, với sự điều chỉnh thể chế kinh tế linh hoạt phù hợp, vừa phát huy vai trò của nhà nước, vừa phát huy vai trò của thị trường nên đã sớm đưa nền kinh tế khắc phục được khủng hoảng, duy trì được sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Hàn Quốc là nước Đông Á tiến hành các biện pháp mạnh mẽ nhất để tổ chức lại hệ thống tài chính bằng các thể chế như đóng cửa, sáp nhập và dừng hoạt động đối với nhiều tổ chức tài chính. Đồng thời Hàn Quốc cũng tăng cường quản lý và giám sát hệ thống tài chính những năm 1998-1999.
Về thể chế đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước:
Việc đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước ở Hàn Quốc được thực hiện từ năm 1984. Hệ thống đánh giá hiện tại dựa trên Luật quản lý các tổ chức công trong năm 2007. Theo để xuất của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD), Ban quản lý tổ chức công thuộc Bộ Chiến lược và Tài chính (MOSF) đã được thành lập để thống nhất quản lý tất cả các tổ chức công. Ủy ban bao gồm các quan chức chính phủ và các chuyên gia bên ngoài được để xuất bởi người khai thác của MOSF. Nó chịu trách nhiệm về các vấn đề nhân sự và đánh giá hiệu quả cũng như việc thành lập các tổ chức công. Tuy nhiên, trong trường hợp của các tổ chức bán chính phủ, cả ủy ban và bộ chỉ huy duy trì quyền kiểm soát với nhau. Dựa trên kết quả đánh giá thực hiện của ủy ban, MOSF quyết định thù lao và tiền thưởng của các CEO cũng như quyết định bổ nhiệm của các CEO.
Bảng: Chỉ số đánh giá hiệu quả tại Hàn Quốc
Chỉ số định lượng
|
Các chỉ số không định lượng
|
|
Hoạt động tài chính
|
Tỷ lệ nợ, tỷ lệ chỉ trả lãi suất, năng suất lao động. năng suất vốn chủ sở hữu, tỷ lệ giá trị gia tăng, lợi nhuận trên tài sản |
Quản lý rủi ro, thực hành minh bạch ngân sách
|
Hoạt động phi tài chính
|
Kết quả khảo sát sự hài lòng của khách hàng, mức độ thành tích chính sách của chính phủ, mức độ thành tích mục tiêu kinh doanh cốt lõi
|
Thực tiễn trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, chính sách bình đẳng giới, cải thiện điều kiện lao động, công bố thông tin kinh doanh, chính sách quản lý đối với công nhân hợp đồng |
Nguồn: OECD: State-owned Enterprise in Asia: National Practices for Performance Evaluation and Management, 2016.
Các yếu tố thành công và thất bại của cải cách doanh nghiệp nhà nước của Hàn Quốc:
Các yếu tố thành công quan trọng nhất trong việc cải thiện hiệu quả và tính minh bạch của SOE là hiệu quả của việc đánh giá hiệu suất và công khai thông tin. Hiệu quả của nó là do các ưu đãi được thiết kế tốt: mối liên hệ giữa kết quả đánh giá hiệu suất và các ưu đãi, liên kết giữa vi phạm công khai và hình phạt.
Tuy nhiên, để tăng cường cải cách doanh nghiệp nhà nước hơn nữa, sự độc lập và quyền tự chủ của Ban quản lý thể chế công phải được đảm bảo. Ủy ban chịu ảnh hưởng lớn của Bộ Chiến lược và Tài chính (MOSF). Các quan chức chính phủ từ MOSF và các bộ có liên quan của doanh nghiệp nhà nước có xu hướng được sử dụng bởi doanh nghiệp nhà nước và kết nối giữa doanh nghiệp nhà nước, chính phủ và Ủy ban bởi các quan chức chính phủ cũ có khả năng ảnh hưởng đến các quyết định của Ủy ban.
Ngoài ra, sự can thiệp liên tục của chính phủ trong việc bổ nhiệm các CEO và quản lý doanh nghiệp nhà nước là những yếu tố thất bại chính trong cải cách doanh nghiệp nhà nước của Hàn Quốc, cản trở việc cải thiện doanh nghiệp nhà nước. Để đẩy nhanh hiệu quả và trách nhiệm giải trình của doanh nghiệp nhà nước, việc quản lý tự chủ cần được đảm bảo và do đó Hàn Quốc cần cải thiện quản trị doanh nghiệp nhà nước bằng cách giảm ảnh hưởng của chính phủ. Chi tiết về các yếu tố thành công và thất bại được trình bày dưới đây:
* Liên kết hiệu quả giữa đánh giá hiệu quả và ưu đãi. Hiệu quả của hệ thống đánh giá hiệu năng trong việc cải thiện hiệu quả và trách nhiệm giải trình của doanh nghiệp nhà nước phụ thuộc vào kết quả của nó như thế nào có thể được sử dụng như là ưu đãi cho doanh nghiệp nhà nước và nhân viên có liên quan.
* Thông qua công nghệ thông tin để công khai và đánh giá hiệu quả.
Công khai và đánh giá hiệu quả cải thiện và tính minh bạch của doanh nghiệp nhà nước đã được nhấn mạnh hơn sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997. Hệ thống Alio (Tất cả thông tin công khai trong một[5]) là hệ thống xuất bản hợp nhất bao gồm tất cả các thông tin liên quan đến doanh nghiệp nhà nước như: tình trạng chung của doanh nghiệp nhà nước, hoạt động, hiệu quả quản lý, đánh giá và thông báo nội bộ và bên ngoài. Ngoài ra, luật về quản lý các tổ chức công (AMPI) trong năm 2007 yêu cầu doanh nghiệp nhà nước tương ứng xuất bản thông tin của họ như báo cáo hằng năm, báo cáo tài chính, báo cáo phát triển bền vững và kết quả đánh giá hiệu suất trên trang web của riêng họ.
Hơn nữa, chính phủ đã đưa ra Hệ thống đánh giá dịch vụ công cộng tích hợp điện tử (e-IPSES) vào năm 2007 rằng mỗi cơ quan có thể tích hợp thông tin đánh giá hiệu suất theo thời gian thực.
Hệ thống này rất có lợi cho cả người đánh giá và SOE bằng cách nâng cao hiệu quả và độ chính xác.
Can thiệp của Chính phủ trong quản trị và quản lý doanh nghiệp nhà nước.
Hàn Quốc có quyền sở hữu tập trung của các doanh nghiệp nhà nước. Bộ Chiến lược và Tài chính (MOSF) thực hiện chức năng sở hữu. Nó xem xét báo cáo tài chính của doanh nghiệp nhà nước, phê duyệt chiến lược, bổ nhiệm thành viên hội đồng quản trị, đánh giá hiệu suất, và quyết định chính sách cổ tức. Trong khi đó, mỗi bộ ngành thực hiện chính sách công nghiệp cho doanh nghiệp nhà nước tương ứng và điều chỉnh chúng.
Theo MOSF, Ban quản lý các tổ chức công (PIMC) được thành lập năm 2007 và giải quyết các vấn đề liên quan đến việc chỉ định các tổ chức công, quản lý, bổ nhiệm các CEO, đánh giá và giám sát doanh nghiệp nhà nước.
Trong giai đoạn đầu (1963 - 1978), chính quyền Park Chung Hee đã cổ phần hóa 12 doanh nghiệp nhà nước bao gồm một số doanh nghiệp nhà nước quy mô lớn như: Tập đoàn Công nghiệp Máy móc Hàn Quốc, Tập đoàn Korea Express, Tập đoàn Hàng không Hàn Quốc và Tổng công ty Đóng tàu Hàn Quốc.
Trong giai đoạn thứ hai (1979 - 1986), chính quyền Chun Doo - hwan đã tư nhân hóa bốn ngân hàng thương mại trên toàn quốc để tăng tính tự chủ của ngành ngân hàng và nâng cao tính minh bạch, hiệu quả thông qua các giá thầu mở cạnh tranh ngoài. Tuy nhiên, các giới hạn cổ phần đã được đặt ở mức 5% cho các công ty và 5.000 cổ phiếu cho các cá nhân. Ngoài ra, một cổ đông duy nhất có giới hạn được thiết lập ở mức 8% sau khi danh sách không thể tham gia vào quản lý trong khi chính phủ đã liên tục tham gia và kiểm soát thực tế. Vì vậy, việc tư nhân hóa bốn ngân hàng thương mại đã được đánh giá là tư nhân hóa không thành công.
Trong giai đoạn thứ ba (1987 - 1992), chính quyền Roh Tae-woo đã đưa ra tư nhân hóa hệ thống và chính thức bằng cách thành lập một ủy ban xúc tiến tư nhân hóa SOE nhưng kết thúc trong việc tư nhân hóa một phần chỉ có 3 doanh nghiệp nhà nước, ít hơn kế hoạch. Các doanh nghiệp nhà nước như Pohang Iron and Steel (POSCO), Tổng công ty Điện lực Hàn Quốc (KEPCO) và Ngân hàng Kookmin (KEB) đã được tư nhân hóa một phần hoặc chào bán công khai hoặc chương trình chia sẻ của mọi người. Tuy nhiên, bằng cách đặt ưu tiên cho thu nhập của chính phủ và sự hình thành tầng lớp trung lưu, việc cải thiện hiệu quả các doanh nghiệp nhà nước bị bỏ quên. Ngoài ra, nguồn cung cổ phiếu khổng lồ dưới sự cấm tham gia vốn cổ phần nước ngoài đã gây ra sự suy giảm của thị trường chứng khoán Hàn Quốc.
Trong giai đoạn thứ tư (1993 - 1996), chính phủ Kim Young Sam theo đuổi chính sách kinh tế mới và tuyên bố một chương trình nhỏ của chính phủ. Một dự án tư nhân hóa 58 doanh nghiệp nhà nước và tái cơ cấu 11 doanh nghiệp nhà nước hoàn thành việc tư nhân hóa chỉ có 22 doanh nghiệp nhà nước.
Trong giai đoạn thứ năm (1997-2002), chính quyền Kim Dae- jung có nhiều doanh nghiệp nhà nước được tư nhân hóa hơn so với kế hoạch của Ủy ban thực hiện tư nhân hóa doanh nghiệp nhà nước chịu trách nhiệm về mọi vấn đề từ việc lập kế hoạch hành động đến giám sát để thực hiện tư nhân hóa. Nhu cầu tài chính của chính phủ để phục hồi các định chế tài chính sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997 đã thúc đẩy tư nhân hóa. Đó là, ở một mức độ nào đó, cú sốc bên ngoài của cuộc khủng hoảng Quỹ tiền tệ quốc tế là một động lực cho việc tư nhân hóa. Tuy nhiên, đà bị mất trong giai đoạn sau của chính quyền Kim Dae-jung cùng với Các cuộc đình công của các công đoàn lao động.
Bảng: Tư nhân hóa Công ty Gang thép Pohang (POSCO)
Năm
|
Tỷ lệ sở hữu của nhà nước
|
Tỷ lệ cổ phần sở hữu bởi chủ thể nước ngoài
|
Phần còn lại
|
Phương pháp tư nhân hóa
|
1990
|
100,0
|
0,0
|
0,0
|
Chương trình chia sẻ của Người thứ nhất thất bại |
1991
|
100,0
|
0,0
|
0,0
|
Chương trình chia sẻ của Người thứ hai thất bại |
1993
|
71,2
|
0,03
|
28,8
|
Đã từ chối bán 49% nhưng cuối cùng lại bán được 28,8% |
1998
|
71,2
|
0,03
|
28,5
|
Đã xác định đầy đủ, nhưng tư nhân dần dần |
1999
|
59,0
|
18,7
|
22,3
|
Phát hành biên lai lưu ký toàn cầu (14,5%) |
2000
|
59,0
|
19,4
|
21,6
|
Sửa đổi Luật kinh doanh viễn thông và bãi bỏ Luật doanh nghiệp viễn thông |
2001
|
40,2
|
37,2
|
22,6
|
Bản cho bên thứ ba bằng cách đấu giá (1,1%) |
2002
|
0,0
|
41,64
|
58,36
|
Tăng giới hạn sở hữu nước ngoài từ 33% lên 49% theo Đạo luật kinh doanh viễn thông sửa đổi |
2017
|
0,0
|
48,9
|
51,1 |
Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo của KOICA: Establishment and Improvement of Market Economy System for State Capacity and Sustainable Development in Vietnam, 2018.
Trong những năm 2000, tìm kiếm, khám phá các ngành công nghiệp động cơ tăng trưởng mới ngày càng trở nên quan trọng với sự đổi mới. Là một chiến lược phát triển quốc gia, chính quyền Roh Moo-hyun (2003-2008) theo đuổi sự tăng trưởng cân bằng và phát triển mạng lưới đối mới khu vực của tổ chức nghiên cứu công nghiệp - đại học với các cụm doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME) trong các lĩnh vực công nghệ. Chính quyền Lee Myung-bak (2008-2012) theo đuổi chiến lược tăng trưởng xanh tập trung vào các vấn đề năng lượng và môi trường. Hoàn thiện thể chế tổ chức quản lý qua phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa và các chính sách liên quan:
Chính phủ Hàn Quốc đã thành lập hai tổ chức độc lập lớn để hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ: Tập đoàn hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ (SBC) vào năm 1979 và Quản lý doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMBA) vào năm 1996. Cơ quan Quản lý doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMBA) mở rộng ra Bộ của các doanh nghiệp nhỏ và vừa và Khởi nghiệp vào năm 2017. Vai trò chính của SMBA và SBC là cung cấp các khoản vay và vốn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ thiếu tài sản thế chấp,... Tuy nhiên gần đây, nhu cầu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã được đa dạng hóa vì phạm vi kinh doanh của họ đa dạng và thị trường của họ mở rộng ra các thị trường toàn cầu. Các chương trình hỗ trợ của MSS và SBC đã được đa dạng hóa và tùy chỉnh để đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Hoàn thiện thể chế phân bổ nguồn lực qua hệ thống hỗ trợ tài chính SME của Hàn Quốc:
Chính phủ Hàn Quốc đã thực hiện chính sách tài chính SME để giải quyết rào cản của các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong việc tiếp cận nguồn tài chính và tạo môi trường thân thiện với doanh nghiệp nhỏ và vừa. Các công ty chủ chốt trong lĩnh vực tài chính chính sách SME là Tập đoàn hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ (SBC), Ngân hàng Hàn Quốc (BOK) cũng như Ngân hàng Công nghiệp Hàn Quốc (IBK). Hơn nữa, còn có ba hệ thống bảo lãnh tín dụng.
SBC trực tiếp cung cấp các khoản vay trực tiếp, các quỹ khuyến mãi và bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ và khởi nghiệp. Mặt khác, BOK sử dụng hai cơ chế gián tiếp để hỗ trợ tài trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa: hệ thống tỷ lệ cho vay SME của ngân hàng thương mại và tổng hệ thống cho vay giới hạn (hoặc hệ thống trần tín dụng tổng hợp).
Quản trị phát triển lực lượng sản xuất bằng chính sách công nghiệp:
Thứ nhất, chính sách công nghiệp toàn diện dưới tháp kiếm soát mạnh.
Ban Kế hoạch kinh tế (EPB) đã chịu trách nhiệm thiết kế kế hoạch phát triển kinh tế 5 năm, giám sát việc phân bổ ngân sách của chính phủ và thu hút vốn nước ngoài từ năm 1961 đến năm 1994. Nó bao gồm bốn văn phòng: Tổng cục Kế hoạch, Cục Ngân sách, Cục Quy hoạch huy động tài nguyên vật liệu và Cục Thống kê.
Thứ hai, lựa chọn và phát triển các ngành công nghiệp. Chính phủ Hàn Quốc nhằm mục đích đạt được khả năng cạnh tranh quốc tế và thực hiện “chính sách nhắm mục tiêu theo ngành” ở giai đoạn đầu của phát triển kinh tế. Các ngành công nghiệp mục tiêu được lựa chọn bằng cách xem xét lợi thế so sánh, hiệu quả, lợi nhuận và tác động của nó đối với nền kinh tế và chuyển đổi cấu trúc trong quá trình phát triển công nghiệp. Chỉ có một nhóm nhỏ các ngành công nghiệp được chọn làm ngành công nghiệp mục tiêu ở từng giai đoạn. Một khi ngành công nghiệp được lựa chọn được bồi dưỡng, các ngành công nghiệp khác sẽ được lựa chọn cho mục tiêu phát triển giai đoạn tiếp theo.
Nhưng bất kỳ ngành nào được chọn, các yếu tố thành công nhất là chính sách công nghiệp theo định hướng xuất khẩu của chính phủ, cho phép các công ty tư nhân đạt được năng lực cạnh tranh công nghiệp và quốc tế, chứ không phải thông qua các doanh nghiệp nhà nước và chính sách cạnh tranh của chính phủ đã tạo ra môi trường cạnh tranh của các công ty tư nhân. Ví dụ, ngành công nghiệp ôtô của Hàn Quốc là một trong những ngành công nghiệp mục tiêu xuất khẩu xe hơi quốc gia của mình, tức là, xe hoàn toàn do Hàn Quốc chế tạo và được xếp hạng là nhà sản xuất xe có động cơ lớn thứ sáu trong năm 2017.
Thứ ba, hợp tác công tư gần gũi và đồng bộ hóa các lợi ích giữa các bên.
Tư vấn và hợp tác công tư đã diễn ra dưới nhiều hình thức của các hội đồng khác nhau, các bàn tròn, hội thảo,... với sự tham gia tích cực của các chuyên gia bên ngoài từ khu vực tư nhân, các viện nghiên cứu và học giả.
Sự tham gia của các chuyên gia dân sự đã gia tăng theo thời gian trong suốt giai đoạn 4, giai đoạn của quy trình lập kế hoạch phát triển kinh tế 5 năm: lựa chọn mục tiêu và viết hướng dẫn dựa trên tầm nhìn, chuẩn bị các mục tiêu và kế hoạch hành động, phối hợp toàn diện và xác nhận kế hoạch.
Thứ ba, quan điểm kiên định và bền bỉ của các nhà lãnh đạo chính trị.
Ý chí của tổng thống là một trong những điều quan trọng nhất trong công nghiệp hóa của Hàn Quốc. Ý chí và quyền lực mạnh mẽ của chính phủ là rất cần thiết và hiệu quả đặc biệt là trong giai đoạn đầu của công nghiệp hóa. Ví dụ điển hình nhất là trường hợp của Tổng thống Park Chung Hee nhấn mạnh sự tăng trưởng kinh tế theo định hướng xuất khẩu với khẩu hiệu “Xuất khẩu số một”. Tổng thống chủ trì hầu hết các cuộc họp xúc tiến xuất khẩu hằng tháng (EPM); Bộ trưởng Bộ Thương mại và Công nghiệp và Bộ trưởng Bộ Ngoại giao phải đưa ra một báo cáo tiến độ về xuất khẩu và các điều kiện thị trường nước ngoài liên quan đến xuất khẩu tương ứng.
Thứ năm, Chính phủ trợ cấp, đầu tư và hợp lý hóa công nghiệp. Thông qua hạ tầng siêu hội tụ HCI, Hàn Quốc đã phát triển và nâng cấp một số ngành công nghiệp trọng điểm và các công ty được lắp ráp để sản xuất tiên tiến và sáng tạo. Tuy nhiên, sự hỗ trợ và bảo vệ của chính phủ đã mang lại sự đầu tư quá mức và không hiệu quả.
Thứ sáu, Chaebol và khoảng cách mở rộng trong sức mạnh kinh tế. Về sự thành công của sự phát triển kinh tế của Hàn Quốc, vai trò của Chaebol không thể bỏ qua. Chaebol đã giúp Hàn Quốc trở thành nền kinh tế lớn thứ 11 theo GDP vào năm 2017, với các thương hiệu quốc tế như Samsung, Hyundai, LG và SK. Chaebol đã hình thành và phát triển cùng với chính sách công nghiệp của Hàn Quốc.
Những ngành công nghiệp này được bảo vệ khỏi cạnh tranh trong nước và từ nhập khẩu vì chính phủ cho rằng quá nhiều cạnh tranh có thể cản trở các công ty Hàn Quốc đạt được khả năng cạnh tranh quốc tế. Chaebol được hưởng mức giá độc quyền cao hoặc độc quyền và ngược lại, đã có sự hợp tác chặt chẽ với chính phủ trong việc đạt được mục tiêu của chính phủ, tăng trưởng kinh tế và xúc tiến xuất khẩu. Với tất cả những lợi ích đó, Chaebol ngày càng lớn hơn.
Thứ bảy, hỗ trợ phức tạp và chồng chéo cho doanh nghiệp nhỏ. Để truyền cảm hứng cho tinh thần kinh doanh và mở rộng bầu không khí khởi nghiệp mạnh mẽ, Bộ Doanh nghiệp vừa và nhỏ - Khởi nghiệp (Ministry of SMEs and Startups) - (MSS) hoạt động nhiều chương trình và trung tâm như trung tâm khởi nghiệp, vườn ươm doanh nghiệp, chương trình khởi nghiệp tại nhà. Nó cũng quản lý các trường kinh doanh sau đại học và các chương trình BizCool hướng tới học sinh tiểu học đến trung học. Hơn nữa, để tăng cường năng lực của các doanh nghiệp nhỏ và vừa và thúc đẩy toàn cầu hóa của SME, MSS cũng điều hành các trung tâm hỗ trợ xuất khẩu tại các văn phòng khu vực và hỗ trợ trên cơ sở hợp tác với SBC, Cơ quan Xúc tiến thương mại và đầu tư Hàn Quốc (KOTA) và các tổ chức chính phủ khác.
Để thúc đẩy các công nghệ và đổi mới của SME, MSS thực hiện một chương trình để khám phá và phát triển các SME công nghệ tiên tiến và hỗ trợ phát triển công nghệ thông qua hợp tác viện nghiên cứu ngành công nghiệp và hỗ trợ bảo vệ các công nghệ SME. Nó cũng thúc đẩy nhân lực kỹ thuật và tay nghề với ba trường trung học kỹ thuật để cung cấp và phù hợp với nhu cầu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
2. Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam về giải quyết mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất trong điều kiện kinh tế thị trường
Không ngừng thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển đi đôi với quản trị quá trình phát triển của lực lượng sản xuất, coi đó là tiền đề để hoàn thiện quan hệ sản xuất.
Kinh nghiệm của Trung Quốc cũng như của Hàn Quốc cho thấy để giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất thì tất yếu trước hết phải phát triển lực lượng sản xuất, lấy sự phát triển lực lượng sản xuất làm tiền để. Đi đôi với đó là thực hiện quản trị quá trình phát triển lực lượng sản xuất. Từ bài học của Trung Quốc cho thấy, muốn xã hội giàu có, trước hết cần lấy mục tiêu trọng tâm là phát triển lực lượng sản xuất. Không phát triển lực lượng sản xuất chắc chắn khó có cơ hội để hoàn thiện quan hệ sản xuất. Tương tự như vậy, đối với Hàn Quốc, Việt Nam cũng có thể tham khảo bài học về khía cạnh này. Thời điểm xuất phát của Hàn Quốc so với mặt bằng cũng chỉ tương đương Việt Nam. Sau 30 năm thực hiện phát triển lực lượng sản xuất là trọng tâm đã đưa đất nước Hàn Quốc từ một quốc gia nghèo khổ trở thành thành viên của 5 chức OECD. Từ con đường phát triển lực lượng sản xuất của Hàn Quốc, cũng như con đường phát triển của Trung Quốc cho nấy, không thực hiện giải phóng lực lượng sản xuất sẽ không có điều kiện để cất cánh và giải quyết các nhiệm vụ kinh tế khác. Từ đó không thể giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất.
Về phát triển lực lượng sản xuất, kinh nghiệm của Trung Quốc cho thấy, ngoài việc xác định đúng mục tiêu và tầm nhìn còn đòi hỏi có nguồn lực đầu tư và theo đuổi chiến lược một cách vững chắc. Có thể những khoản đầu tư lớn kiểu như Trung Quốc sẽ rất khó có thể áp dụng được đối với Việt Nam, tuy nhiên phương pháp tư duy và cách thức triển khai có thể tham khảo được. Đó là việc xác định đúng khâu đột phá và dành nguồn lực có trọng tâm. Để có được những thành tựu lớn về khoa học - công nghệ nói riêng và lực lượng sản xuất phát triển như ngày hôm nay của Trung Quốc nói chung, các nhà lãnh đạo của quốc gia này đã xác định và nắm bắt đúng xu hướng phát triển mới nhất của khoa học hiện đại của nền văn minh loài người. Đó là tập trung vào các ngành khoa học trụ cột mới nhất về khoa học vũ trụ, khoa học đại dương, khoa học vật liệu mới, năng lượng mới, khoa học sự sống, khoa học sinh học, công nghệ thông tin. Đây là những trụ cột mới nhất mà quốc gia nào nắm được sẽ làm chủ được vận mệnh của mình trong quá trình phát triển gắn với bối cảnh hiện đại.
Về phát triển nhân tài, kinh nghiệm về đào tạo và thu hút nhân tài khoa học - công nghệ trên thế giới để cống hiến trong nước cũng là một điểm nhấn về phát triển lực lượng sản xuất của Trung Quốc. Trung Quốc đã đi con đường ngắn nhất để có được trí tuệ mới nhất của nhân loại, nội lực hóa được trí tuệ đó trên cơ sở kêu gọi đội ngũ nhân tài về hoạt động chấn hưng đất nước. Để làm được như vậy, sự tin tưởng của các nhà khoa học vào tầm nhìn và vị thế lãnh đạo của bộ máy chính trị của Trung Quốc cũng đáng để tham khảo. Về quy mô, số lượng các nhà khoa học trên thế giới mang gốc Việt không thể so được với Trung Quốc song cũng không phải là quá khiêm tốn, tuy nhiên việc thu hút nhân tài tin tưởng và hăng hái cống hiến tại nước nhà thì chúng ta còn gặp nhiều khó khăn.
Không ngừng hoàn thiện thể chế thích ứng với trình độ phát triển mới của lực lượng sản xuất. Kinh nghiệm từ Hàn Quốc cho thấy, ngay sau khi thực hiện phát triển các thành tố lực lượng sản xuất, nhất là hệ thống tư liệu sản xuất mới thông qua việc hình thành các tập đoàn, việc yêu cầu hoàn thiện các thể chế về giám sát, đánh giá kết quả hoạt động của các tập đoàn chính là biện pháp căn bản để đảm bảo sự tương thích giữa các thành tố trong lực lượng sản xuất và sự tương thích giữa quan hệ sản xuất và phát triển lực lượng sản xuất trước hết ở mô hình tổ chức các tập đoàn của Hàn Quốc. Đây là khía cạnh mà Việt Nam cần học tập. Xét về khía cạnh giám sát và đánh giá hiệu quả của các tập đoàn kinh tế, Việt Nam vẫn còn là một khâu yếu.
Cùng với việc thúc đẩy phát triển các tập đoàn, thể chế về đảm bảo môi trường cho hoạt động đầu tư, thể chế thúc đẩy cạnh tranh, thể chế về phân phối thu nhập và thuế, lãi suất, tài chính cũng không ngừng được hoàn thiện theo thời gian. Về khía cạnh này chính là biện pháp giải quyết mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất trong điều kiện kinh tế thị trường.
Việc giải quyết mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất trong điều kiện hiện đại không tập trung duy nhất vào mục tiêu tăng trưởng.
Kinh nghiệm của Trung Quốc và Hàn Quốc cho thấy, có những giai đoạn các quốc gia này mặc dù coi trọng mục tiêu tăng trưởng song tăng trưởng không phải là mục tiêu duy nhất. Trung Quốc đã cho thấy, đi đôi với thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất mới và hoàn thiện quan hệ sản xuất đặc sắc Trung Quốc đã chú ý tới đảm bảo an sinh xã hội, thực hiện hệ giá trị xã hội chủ nghĩa đặc sắc Trung Quốc, lấy no ấm của người dân và sự phồn vinh của quốc gia làm tiêu chí để định ra các biện pháp giải quyết mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất.
Tránh lối giải quyết mối quan hệ dẫn đến gây phân hóa xã hội sâu sắc.
Việc phân hóa xã hội sâu sắc đều được các quốc gia chú ý, từ kinh nghiệm của Trung Quốc và Hàn Quốc cho thấy, khi chú ý phát triển lực lượng sản xuất thì việc xây dựng hệ thống điều tiết thu nhập thông qua các công cụ kinh tế và thể chế thị trường đã khắc phục khủng hoảng cũng như giảm thiểu phân hóa xã hội. Coi sự phát triển hài hòa là cần thiết cho tăng trưởng trong dài hạn. Xét riêng về khía cạnh phát triển lực lượng sản xuất để thúc đẩy phồn vinh, lấy sự phát triển lực lượng sản xuất làm cho chiếc bánh kinh tế của đất nước không ngừng nở to, lấy đó làm tiền để thực hiện phân phối công bằng là bài học thành công trong giải quyết mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất của Trung Quốc. Việc tập trung nguồn lực của Hàn Quốc vào một số tập đoàn trong khi xây dựng hệ thống đánh giá, giám sát hiệu quả hoạt động của các tập đoàn cũng là cách thức để nguồn lực không lãng phí, không tham nhũng cũng là một cách để đảm bảo sự phát triển xã hội hài hòa.
Khoa học - công nghệ là động lực để giải quyết cần bản mối quan hệ trong dài hạn.
Với trình độ xuất phát điểm thấp, cách thức để có được động lực và từ đó làm thay đổi về chất trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, trên cơ sở đó thực hiện hoàn thiện quan hệ sản xuất chỉ có thể thông qua và bằng nền tảng khoa học - công nghệ. Đây là bài học được rút ra từ kinh nghiệm của cả Trung Quốc và Hàn Quốc. Nếu như Trung Quốc có các chương trình khoa học – công nghệ lớn thì Hàn Quốc cũng có chính sách công nghiệp để phát triển ngành và phát triển khoa học. Muốn phát triển và có động lực phát triển dài hạn đối với các thành tố của lực lượng sản xuất cũng như nâng trình độ về chất của lực lượng sản xuất từ đó mà hoàn thiện các thể chế, phát triển khoa học - công nghệ là lộ trình tối ưu nhất để có thể bứt phá trong trình độ văn minh.
Chất lượng tài nguyên trí lực là nhân tố quyết định sự phát triển lâu dài, đi liền với phát triển nhân tài, chú trọng tài nguyên số cũng là giải pháp quan trọng để thúc đẩy lực lượng sản xuất tiến cùng thời đại.
Kinh nghiệm của Trung Quốc chỉ ra, phát triển nhân tài là biện pháp căn cơ trong xác định phát triển lực lượng sản xuất. Lấy nhân tài và tài nguyên trí lực là cốt lõi để thực hiện giải quyết mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất trong bối cảnh mới. Trọng dụng nhân tài và có chế độ phân phối thích hợp để nhân tài trở về và cống hiến trong phát triển lực lượng sản xuất là biện pháp hay có thể tham khảo tốt.
Tài nguyên số là tài nguyên chiến lược mới trong cấu thành lực lượng sản xuất hiện đại. Trung Quốc đã rất sớm chú ý đến khía cạnh này và thành công. Hiện nay Trung Quốc đang là quốc gia đi đầu trong việc xây dựng nền tảng dữ liệu lớn, dữ liệu số và những công nghệ số mới nhất để phục vụ cho sự hình thành lực lượng sản xuất dựa trên nền tảng số. Đi đầu trong nắm bắt lực lượng số sẽ tạo tiến để để Trung Quốc thực hiện giấc mơ tiến cùng thời đại và phục hưng giấc mộng Trung Hoa.
Tóm lại, những kinh nghiệm thành công mặc dù đã qua, song rất đáng tham khảo về mặt cách thức tư duy và chiến lược lựa chọn con đường tối ưu để giải quyết mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất trong điều kiện kinh tế thị trường hiện đại.
[1] Cung Kim Quốc: Chủ nghĩa xã hội cũng có thể áp dụng kinh tế thị trường, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.64
[2] Cung Kim Quốc: Chủ nghĩa xã hội cũng có thể áp dụng kinh tế thị trường, Sdd, tr.228
[3] Xem Kim Byung- Kook và Ezra F. Vogel: Kỷ nguyên Park Chung Hee và quá trình phát triển thần kỳ của Hàn Quốc (Sách tham khảo), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2017, tr.180
[4] Xem Kim Byung- Kook và Ezra F. Vogel: Kỷ nguyên Park Chung Hee và quá trình phát triển thần kỳ của Hàn Quốc (Sách tham khảo), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2017, tr.180
[5] www. Alio.go.kr