Thứ hai, 11 Tháng 12 2023 08:14

Mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất thông qua quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế từ năm 1986 đến nay

Cùng với những quy định pháp lý liên quan đến thể chế kinh tế thị trường, những quy định pháp lý về sở hữu, thành phần kinh tế và loại hình tổ chức kinh doanh đã tạo lập nền tảng cơ bản cho việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam những năm qua và cũng là điều kiện tiền để tối quan trọng cho công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong những năm đổi mới.

Để thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, các thể chế về thúc đẩy những yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất đã từng bước được xây dựng và ban hành; trong đó trọng tâm gắn với các nhóm thể chế cụ thể là:

1. Thể chế thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực

Cụ thể hóa các chủ trương lớn về phát triển nhân lực, rất nhiều chính sách mang tính thể chế cho sự phát triển nhân lực được ban hành. Số lượng các văn bản về đào tạo nghề, nâng cao trình độ tay nghề, về giáo dục đại học, về đào tạo ngoại ngữ, tin học, về đổi mới nội dung chương trình, giáo trình liên tục được ban hành, trong đó gần đây nhất là sự ban hành Luật giáo dục và Luật giáo dục đại học được coi như là điểm đột phá để nâng cao chất lượng nhân lực trong bối cảnh kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập. Tuy nhiên, việc cho thành lập ồ ạt các trường đại học đang để lại hệ lụy rất khó giải quyết hiện nay.

Nhà nước đã dành những khoản kinh phí cho công tác đào tạo nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Chương trình trợ giúp đào tạo nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa giai đoạn 2004 - 2008 theo Quyết định số 143/2004/ QĐ-TTg ngày 10/8/2004 của Thủ tướng Chính phủ được triển khai tích cực ở các địa phương và các hiệp hội. Trong những năm sau đó, Chính phủ và các bộ đã ban hành nhiều văn bản pháp luật về vấn đề này, như: Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30/6/2009 của Chính phủ về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa; Nghị định số 39/2018/NĐ-CP ngày 11/3/2018 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa; Nghị định số 80/2021/NĐ-CP ngày 26/8/2021 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa;... Thông tư số 49/2019/TT-BTC ngày 8/8 /2019 của Bộ Tài chính hướng dẫn quản lý và sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực cho doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Hầu hết các địa phương đều xây dựng và thực hiện chương trình hỗ trợ đào tạo dạy nghề mặc dù có sự khác nhau về biện pháp, mức hỗ trợ, đối tượng hỗ trợ. Một số cơ sở được giao nhiệmvụ mở các lớp đào tạo quản lý, nghiệp vụ kinh tượng chủ doanh nghiệp tư nhân nhằm nâng cao trình độ thức về pháp luật quản lý.

2. Thể chế thúc đẩy sự phát triển khoa học - công nghệ

Từ năm 1981, Nhà nước đã cho phép các tổ chức nghiên cứu và phát triển được ký hợp đồng kinh tế trong hoạt động khoa học và công nghệ; năm 1986, Bộ Tài chính và Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật nhà nước đã cho phép thành lập quỹ tập trung tại bộ cho khoa học và công nghệ; năm 1987, Nhà nước cho phép các viện được liên kết, liên doanh và ký hợp đồng trong hoạt động khoa học và công nghệ; năm 1988, cho phép tổ chức nghiên cứu và phát triển được sử dụng nhiều nguồn kinh phí để hoạt động khoa học và công nghệ. Như vậy ngay từ trước năm 1990, Nhà nước đã cho phép các tổ chức khoa học và công nghệ được sử dụng nhiều nguồn khác nhau cho hoạt động khoa học và công nghệ, có ít nhất 5 nguồn (tự có, huy động của cán bộ,...). Năm 1992, Chính phủ đã quyết định dành 2% ngân sách chi cho khoa học và công nghệ nhưng đến năm 1999 tỷ lệ này vẫn chỉ ở mức 1%, phải đến năm 2000 mới đạt con số đề ra. Cũng trong năm 2000, Luật khoa học và công nghệ đã quy định dành tỷ lệ chi năm sau phải cao hơn năm trước để đầu tư cho khoa học và công nghệ là đầu tư cho phát triển, sử dụng ODA cho phát triển khoa học và công nghệ. Theo Luật khoa học và công nghệ năm 2013 (sửa đổi, bổ sung năm 2018), Nhà nước đảm bảo chi cho khoa học và công nghệ nữ 2% trở lên trong tổng chi ngân sách nhà nước hằng năm và tăng dần theo yêu cầu phát triển của sự nghiệp khoa học và công nghệ. Đến nay, ngân sách nhà nước đầu tư cho khoa học và công nghệ so với toàn bộ chỉ cho khoa học và công nghệ của quốc gia chiếm tới 80%, do vậy, cơ chế mới phải tập trung tháo gỡ để tăng tỷ lệ đầu tư cho khoa học và công nghệ từ phía các doanh nghiệp, giảm tỷ lệ đầu tư của Nhà nước.

Chính sách thuế đối với hoạt động nghiên cứu và phát triển: Từ năm 1987, Chính phủ đã có quyết định về việc ứng dụng công nghệ mới được miễn thuế 2 năm từ khi sản xuất ổn định và năm 1988 đã có chỉ thị về từng bước hạch toán trong các cơ quan nghiên cứu và phát triển. Năm 1992, các hoạt động nghiên cứu khoa học, sản xuất thử nghiệm không phải chịu thuế. Năm 1999, Nhà nước đã có quy định về ưu đãi thuế chuyển giao công nghệ, thuế nhập khẩu. Từ năm 2000, Luật khoa học và công nghệ đã khẳng định hoạt động khoa học và công nghệ được hưởng khung thuế ưu đãi nhất trong chính sách thuế của Việt Nam. Về mặt thể chế, công cụ thuế đã có nhiều quy định đối với hoạt động khoa học và công nghệ ở Việt Nam, nhưng văn hóa thực thi thuế chưa có nên hầu như các quy định mới chỉ dừng trên văn bản.

3. Chính sách tín dụng đối với hoạt động nghiên cứu và phát triển

Năm 1983, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã có chỉ thị về công tác tín dụng đối với các viện nghiên cứu và phát triển để mở rộng sản xuất, sản xuất phụ và vay bù đắp khó khăn. Năm 1995, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã quy định, những hoạt động ứng dụng công nghệ vào sản xuất được hưởng ưu đãi về lãi suất (1,2%/tháng) mức vay có thể tới 5 tỉ đồng và thời hạn vay 5 năm; điều kiện vay là phải có thế chấp hoặc bảo lãnh hoặc được giao nhiệm vụ. Sau khoảng 3 năm thực hiện, quy định này không còn hiệu lực vì Luật ngân sách nhà nước không cho phép. Trên thực tế, cơ chế này triển khai cũng rất chậm (chưa tới 20 dự án được thực hiện), thủ tục phiền hà, không phù hợp với thực tế Việt Nam. Đến năm 1999, Nhà nước có quy định về vay tín dụng trung và dài hạn, mức vay có thể tới 70% giá trị đầu tư và có thể được hỗ trợ lãi suất. Điều 43 Luật khoa học và công nghệ năm 2000 tiếp tục quy định: Tổ chức, cá nhân vay vốn trung hạn, dài hạn để tiến hành hoạt động khoa học và công nghệ được hưởng lãi suất và điều kiện ưu đãi. Luật khoa học và công nghệ năm 2013 (sửa đổi, bổ sung năm 2018) đều có điều khoản quy định rõ chính sách tín dụng đối với hoạt động khoa học và công nghệ.

Quỹ trong hoạt động khoa học và công nghệ: Năm 1986, các bộ được lập quỹ tập trung tại bộ cho hoạt động khoa học và công nghệ, trích lập từ cơ sở sản xuất và các viện nghiên cứu trực thuộc (nếu có nguồn thu). Năm 1990, đã có quyết định thành lập quỹ khoa học và công nghệ nhằm thu hồi kinh phí cấp cho các dự án sản xuất thử nghiệm để chi cho các hoạt động đột xuất, ứng trước hoặc cấp bổ sung cho các dự án sản xuất thử nghiệm, tuy nhiên, công tác này đã không triển khai được theo quyết định, các khoản thu được chuyển về Bộ Tài chính.

Năm 1992, Nhà nước cho phép lập các quỹ phát triển khoa học và công nghệ ở các bộ và các tỉnh. Việc trích lập thực hiện theo quy định từ các viện, doanh nghiệp nộp lên theo tính chất quỹ tập trung. Trên thực tế, nguồn thu thấp và đều là gốc ngân sách nên khi Luật ngân sách nhà nước năm 1996 ra đời thì quy định này cũng mất hiệu lực.

Cũng trong thời gian này, cơ chế tuyển chọn thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ của Nhà nước đã xuất hiện, nhưng lại không được duy trì, củng cố. Đặc biệt năm 1996 đã có cơ chế cắt giảm kinh phí đối với các viện chuyển về các doanh nghiệp, bước đầu chỉ còn trên 50 viện trực thuộc bộ không bị cắt kinh phí hoạt động. Việc trực thuộc trở nên quan trọng và “cuộc chiến” trực thuộc diễn ra dai dẳng, cơ chế chuyển tổ chức nghiên cứu và phát triển về các viện theo cách làm bấy lâu nay cần được cải tiến. Luật khoa học và công nghệ năm 2000 đã quy định cho người môi giới cũng được phân chia lợi ích đến 10% giá trị hợp đồng giữa 2 bên.

Điểu 43 Luật khoa học và công nghệ năm 2013 (sửa đổi, bổ sung năm 2018) và Điều 42 Nghị định số 08/2014/NĐ-CP (ngày 27/01/2014 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật khoa học và công nghệ) quy định lợi nhuận sau thuế thu được từ việc sử dụng, chuyển giao quyền sử dụng, chuyển nhượng, góp vốn bằng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ. Sau khi phân chia cho tác giả và người môi giới (nếu có), phần lợi nhuận còn lại được quy định như sau: trường hợp được giao quyền sở hữu thì 50% dành cho đầu tư nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, 50% dành cho quỹ phúc lợi, khen thưởng của tổ chức; trường hợp được giao quyền sử dụng thì phải trả lại cho đại diện chủ sở hữu nhà nước theo thỏa thuận giữa các bên nhưng không quá 10%, phần cònlại được dành 50% cho đầu tư nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, 50% cho quỹ phúc lợi, khen thưởng của tổ chức.

Trước năm 1986, nền kinh tế nước ta chịu sự chi phối tuyệt đối của chế độ sở hữu công cộng; không được thừa nhận nền kinh tế nhiều thành phần, đa sở hữu, quyền tự chủ kinh doanh, tự chịu trách nhiệm tài chính của doanh nghiệp. Từ Đại hội VI, Đảng ta khẳng định cả nước tồn tại 5 thành phần kinh tế: kinh tế xã hội chủ nghĩa (quốc doanh, tập thể, gia đình); kinh tế sản xuất hàng hóa nhỏ; kinh tế tự túc, tự cấp; kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế tư bản tư nhân. Đến Đại hội XI của Đảng xác định có 4 thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể; kinh tế tư nhân (gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân) và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.

Thể chế hóa quan điểm của Đảng, đặc biệt là Cương lĩnh xây đựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Hiến pháp năm 2013 khẳng định: Nến kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Bên cạnh đó, Hiến pháp đã sửa đổi, bổ sung các chế định về hình thức sở hữu tư liệu sản xuất, các loại hình kinh tế, tôn trọng đa dạng hình thức sở hữu, bảo hộ sở hữu tư nhân, các quyền tài sản và sở hữu trí tuệ, quyền kinh tế được xác lập và thực hiện cùng với quyền của mọi công dân (quyền tự do kinh doanh, quyền sở hữu tư nhân,...). Về chế độ sở hữu, Hiến pháp năm 2013 ghi nhận, tôn trọng đa hình thức sở hữu, bảo hộ quyền sở hữu tư nhân và quyển thừa kế về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong các doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức đầu tư, sản xuất, kinh doanh được pháp luật bảo hộ và không bị quốc hữu hóa.

Việc ban hành Hiến pháp năm 1992 khẳng định những nguyên tắc pháp lý cơ bản của công cuộc đổi mới ở nước ta, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Năm 2001, Hiến pháp năm 1992 được bổ sung đã nêu rõ Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và bình đẳng, mở rộng hoạt động kinh tế đối ngoại, phát triển các hình thức quan hệ kinh tế. Hiến pháp năm 2013 có điểm mới so với Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) là quy định quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cẩm, thể hiện rõ hơn bản chất nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; thể hiện một cách khái quát, linh hoạt và thành công nhất tư tưởng, quan điểm về nền kinh tế thị trường ở nước ta. Việc khẳng định kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo là cách thể hiện sáng tạo ở chỗ: một mặt, khẳng định vai trò của thành phần kinh tế thuộc công hữu trong nền kinh tế thị trường điều tiết sự phát triển kinh tế vì các mục tiêu của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta; đồng thời không phương hại đến những nguyên tắc thị trường, không mâu thuẫn với nguyên tắc các thành phần kinh tế bình đẳng cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường. Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước ta ngày càng được hoàn thiện, có những tiến bộ cả về số lượng và chất lượng. Cho đến nay sau hơn 35 năm đổi mới, Việt Nam đã ban hành trên 200 bộ luật và luật, trên 80 pháp lệnh (kể cả sửa đổi, bổ sung) có liên quan đến việc xây dựng thể chế cho việc hoàn thiện thể chế, biểu hiện của quan hệ sản xuất trong điều kiện xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Khung khổ luật pháp của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta đã dần được định hình và ngày càng hoàn thiện hơn.

Năm 1994 và 1995, theo Quyết định số 90/QĐ-TTg và Quyết định 91/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, “Tổng công ty”, những tổ chức thay thế “Liên hiệp các xí nghiệp” (thành lập năm 1978) được thành lập để giúp tổ chức lại doanh nghiệp nhà nước. Tổng công ty 91 được tổ chức theo chiều dọc với vốn tối thiểu 500 tỉ đồng tại các khu công nghiệp trọng điểm và sau đó trở thành các tập đoàn công nghiệp với vốn bổ sung từ Chính phủ. Tổng công ty 90 là doanh nghiệp có tổ chức theo chiều ngang với vốn tối thiểu là 1.000 tỉ đồng.

Từ đầu những năm 2000, các chính sách thử nghiệm nhằm thay đổi mối quan hệ giữa Nhà nước và các nhóm doanh nghiệp nhà nước được chủ động xây dựng. Thay đổi vai trò của Nhà nước từ bộ điều khiển doanh nghiệp nhà nước đến chủ sở hữu vốn nhà nước đã được Đảng Cộng sản Việt Nam quyết định rõ ràng. Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước đã nhấn mạnh vai trò của doanh nghiệp nhà nước, đồng thời xây dựng một số tập đoàn kinh tế mạnh.

Một bước quan trọng khác là thành lập Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước (SCIC) theo Quyết định số 151/2005/QĐ-TTg ngày 20/6 /2005 của Thủ tướng Chính phủ để cải thiện quản trị doanh nghiệp và quản lý doanh nghiệp nhà nước. SCIC đại diện cho quyền sở hữu của Nhà nước đối với một số công ty nhà nước và các công ty cổ phần hóa, nơi Nhà nước giữ lại quyền sở hữu và quản lý vốn nhà nước; phụ trách đầu tư vốn nhà nước vào các doanh nghiệp để sử dụng các khoản đầu tư một cách tốt nhất.

Từ ngày 01/7/2015, Luật doanh nghiệp năm 2014 có hiệu lực thi hành. Luật xác định doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn, trong khi Luật doanh nghiệp năm 2005 quy định doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp trong đó Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ. Luật doanh nghiệp năm 2014 bổ sung chương IV về doanh nghiệp nhà nước, mô tả cơ cấu tổ chức SOE, hội đồng thành viên, ban kiểm soát, chủ tịch, thành viên hội đồng quản trị, giám đốc, tổng giám đốc và công khai thông tin... Luật quản lý và sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất kinh doanh năm 2014 quy định rõ quyền hạn và trách nhiệm của đại diện chủ sở hữu nhà nước tại các doanh nghiệp có tỷ lệ sở hữu nhà nước dưới 100% và quy định về quản lý và đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp.

Năm 2018, Nghị quyết số 09/NQ-CP về việc thành lập Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp (CMSC). Nghị quyết xác định Ủy ban là đại diện chủ sở hữu đối với doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ và phần vốn nhà nước tại công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên.

Xây dựng thể chế đánh giá hiệu quả hoạt động doanh nghiệp nhà nước: Việt Nam có mô hình sở hữu phi tập trung với các bộ, ngành, tổng công ty nhà nước và chính quyền cấp tỉnh thực hiện quyền sở hữu. Văn phòng Chính phủ quản lý hệ thống đánh giá hiệu suất trong khi họ không thể can thiệp vào các quyết định quản lý của các bộ, doanh nghiệp nhà nước hoặc chính quyền cấp tính.

Bộ Tài chính (MOF), dựa trên các trách nhiệm và ủy quyền chức năng, có vai trò quan trọng trong việc giám sát và đánh giá hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước. Ngày 13/11/2013, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 158/2013/TT-BTC hướng dẫn thực hiện Nghị định số 61/2013/NĐ-CP về ba loại hình doanh nghiệp: (i) giám sát tài chính đối với doanh nghiệp nhà nước thuộc sở hữu nhà nước 100%; (ii) giám sát tài chính một phần cho doanh nghiệp nhà nước sở hữu dưới 100% và cao hơn 50% của Nhà nước; (iii) giám sát tài chính một phần của các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước ở mức dưới 50%. Ngày 06/10/2015, Chính phủ ban hành Nghị định số 87/2015/NĐ-CP về giám sát đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp; giám sát tài chính, đánh giá hiệu quả hoạt động và công khai thông tin tài chính của doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn nhà nước. Nghị định quy định cụ thể nội dung giám sát; phương thức giám sát và chế độ thông tin, báo cáo theo từng đối tượng: doanh nghiệp 100% vốn nhà nước; doanh nghiệp mà Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ; doanh nghiệp mà Nhà nước nắm giữ không quá 50% vốn điều lệ; giám sát tài chính đặc biệt đối với doanh nghiệp có dấu hiệu mất an toàn tài chính.

Hệ thống đánh giá năng lực ở Việt Nam được xây dựng toàn diện từ Trung ương đến địa phương. Các bộ, doanh nghiệp nhà nước và chính quyền cấp tỉnh giao cho các phòng, ban theo dõi và đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước hoặc các chi nhánh. Các phòng, ban hoặc chi nhánh báo cáo tình hình hoạt động của doanh nghiệp nhà nước với Văn phòng Chính phủ. Văn phòng Chính phủ gửi quyết định cuối cùng của Thủ tướng và các Phó Thủ tướng.

Năm 2018, thực hiện nhiệm vụ giám sát và đánh giá, Ủy ban Thường vụ Quốc hội Việt Nam đã ban hành chương trình giám sát chuyên để với nội dung thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước giai đoạn 2011-2016.

Doanh nghiệp nhà nước đã chuyển dịch theo hướng tập trung hơn vào những ngành nghề then chốt của nền kinh tế hoặc những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không tham gia, tiếp tục giữ vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của đất nước, góp phần bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, vẫn còn một số hạn chế, vướng mắc, bất cập và vi phạm pháp luật trong kinh doanh, nguyên tắc thị trường, quản trị doanh nghiệp, quản lý tài chính. Chưa hoàn toàn tách bạch giữa chức năng quản lý nhà nước với chức năng đại diện chủ sở hữu, còn tình trạng chưa bảo đảm công khai, minh bạch trong việc định giá, mua bán tài sản của doanh nghiệp nhà nước. Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước chưa tương xứng với vị trí và nguồn lực được giao quản lý, sử dụng...

Đối với thể chế đầu tư, kể từ thời điểm sau Đại hội VI của Đảng, Nhà nước Việt Nam đã ban hành và từng bước xây dựng, hoàn thiện các văn bản pháp luật về đầu tư và kinh doanh: Năm 1987, Quốc hội Việt Nam đã ban hành Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, được sửa đổi, bổ sung nhiều lần, vào các năm 1990, 1992, 1996 và 2000. Trong khi đó, vào cùng thời điểm đầu thập niên 1990, các hoạt động đầu tư do các nhà đầu tư trong nước thực hiện được điều chỉnh bởi Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân (1990), sau đó được thay thế bởi Luật doanh nghiệp (1999) và Luật khuyến khích đầu tư trong nước (1994), Luật doanh nghiệp nhà nước năm 1995 (được thay thế bởi Luật doanh nghiệp nhà nước năm 2003), Luật hợp tác xã năm 1996 (được thay thế bởi Luật hợp tác xã năm 2003). Việt Nam đã ban hành một bộ luật thống nhất có thể điều chỉnh và chi phối các hoạt động đầu tư trong nước và nước ngoài là Luật doanh nghiệp và Luật đầu tư năm 2005, có hiệu lực từ ngày 01/7/2006. Các năm 2014, 2018, 2019, 2020 đã có sự sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các luật này như: Luật đầu tư, Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư công[1]... Bên cạnh đó, nhằm tăng cường thể chế và môi trường kinh doanh, Quốc hội Việt Nam đã thông qua rất nhiều bộ luật quan trọng như Bộ luật dân sự, Luật thương mại, Luật bảo hiểm, Luật các tổ chức tín dụng, Luật doanh nghiệp nhà nước, Luật chứng khoán, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt...

Trong thời gian gần đây, đáng chú ý là sự ra đời của Luật doanh nghiệp và Luật đầu tư năm 2020 đã cho phép các công ty khác loại hình có thể hợp nhất, chia, tách, sáp nhập; quy trình giải thế doanh nghiệp đã được thiết kế theo hướng “tự động”, đơn giản. Ngoài ra còn rất nhiều các văn bản pháp luật đã được ban hành nhằm xây dựng một nền tảng vững chắc cho sự hình thành và phát triển kinh tế thị trường.

Các quy định liên quan đến cạnh tranh trong kinh doanh còn được quy định ở nhiều văn bản pháp luật khác nhau như Bộ luật hình sự năm 1999, Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 1999 được thay thế bởi Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010, Pháp lệnh quảng cáo năm 2001 được thay thế bởi Luật quảng cáo năm 2012, Pháp lệnh giá năm 2002 được thay thế bởi Luật giá năm 2012, Pháp lệnh chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam năm 2004 được thay thế bởi Luật quản lý ngoại thương năm 2017,... Tuy nhiên, những văn bản trên không phát huy được nhiều hiệu quả trong đời sống kinh tế - xã hội, vì còn thiếu các quy định cụ thể về bộ máy thực thi, cơ chế áp dụng cũng như chế tài xử lý đối với các thương nhân vi phạm. Phải đến khi Luật cạnh tranh năm 2004 ra đời mới thực sự có sự tác động mạnh. Hệ thống pháp luật cạnh tranh của Việt Nam hiện hành bao gồm: Luật cạnh tranh là văn bản gốc, cùng với các nghị định và một thông tư hướng dẫn về nội dung của luật này, bên cạnh đó còn một nghị định về xử lý vi phạm hành chính và một số văn bản liên quan khác.

Bên cạnh Luật cạnh tranh và các văn bản hướng dẫn thi hành, có nhiều văn bản pháp luật có liên quan đến cạnh tranh như Bộ luật dân sự năm 2005, 2015, Luật thương mại năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2017, 2019), Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009, 2022), Luật chuyển giao công nghệ năm 2006, 2017[2]... Như vậy, hệ thống pháp luật cạnh tranh của Việt Nam tương đối gọn nhẹ. Pháp luật cạnh tranh của Việt Nam được thiết kế với ba mục tiêu chủ yếu: i) Kiểm soát các hành vi gây hạn chế cạnh tranh hoặc các hành vi có thể dẫn đến việc gây hạn chế cạnh tranh, đặc biệt khi mở cửa thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế; ii) Bảo vệ quyền kinh doanh chính đáng của các doanh nghiệp, chống lại các hành vi cạnh tranh không lành mạnh; iii) Bảo đảm môi trường cạnh tranh lành mạnh, công bằng cho các doanh nghiệp.

Đối với lĩnh vực tín dụng, thị trường tín dụng đã được cải cách mạnh mẽ từ thập niên 1990 cho phép sự tham gia của các ngân hàng thương mại tư nhân trong nước và nước ngoài. Trong thời gian qua, ngành ngân hàng đã có những chuyển biến tích cực về tư tưởng, nhận thức và hành động trong việc đổi mới cơ chế, chính sách tín dụng tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế, nhất là khu vực kinh tế tư nhân tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng phục vụ sản xuất kinh doanh. Đến nay, các cơ chế, chính sách về tín dụng đối với nền kinh tế (trong đó có doanh nghiệp nhỏ và vừa) đã được ban hành tương đối đồng bộ. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam giảm dần sự can thiệp trực tiếp vào các quyết định cấp tín dụng và thỏa thuận lãi suất tại các ngân hàng thương mại. Nhờ vậy, cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại ngày càng tăng, giúp cho hệ thống tín dụng - ngân hàng hoạt động hiệu quả hơn, chênh lệch giữa mặt bằng lãi suất huy động và cho vay được thu hẹp. Kết quả là khu vực kinh tế tư nhân ngày càng dễ dàng tiếp cận được tín dụng từ hệ thống ngân hàng thương mại cho mục đích đầu tư và kinh doanh của mình. Tuy nhiên cho tới nay khu vực ngân hàng thương mại nhà nước vẫn chiếm hơn 50% thị phần tín dụng của toàn hệ thống. Hệ quả là khu vực tư nhân, đặc biệt là khối doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn khó tiếp cận tín dụng và phải vay với mức lãi suất cao hơn so với khu vực doanh nghiệp nhà nước. Để đẩy mạnh sự hỗ trợ đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001 về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa và Nghị định số 56/2009/NĐ-CP (ngày 30/6/2009 về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, quy định việc thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Từ năm 2014, Chính phủ cũng đã có nhiều giải pháp hỗ trợ cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, nhất là việc tạo điều kiện cho doanh nghiệp tham gia vào các dự án của Chính phủ. Một trong những biện pháp giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận nguồn vốn trong năm 2014 là việc đưa Quỹ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa vào hoạt động một cách mạnh mẽ. Quỹ tập trung vào các doanh nghiệp có tiềm năng phát triển, có dự án, phương án kinh doanh có khả thi và doanh nghiệp nằm trong diện đối tượng được ưu tiên. Quỹ này cho doanh nghiệp vay vốn với lãi suất có ưu đãi so với thị trường, lãi suất sẽ được tính theo lãi suất trung bình của các ngân hàng thương mại lớn nhất. Ngày 15/10/2013, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 58/2013/QĐ-TTg Quy chế thành lập, tổ chức và hoạt động của quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa thay thế Quyết định số 193/2001/QĐ-TTg.

Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, doanh nghiệp có thể tiếp cận vốn chủ yếu thông qua ba kênh: vay vốn từ các tổ chức tín dụng theo Luật tổ chức tín dụng năm 2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); phát hành trái phiếu, cổ phiếu theo Nghị định số 90/2011/NĐ-CP của Chính phủ ngày 14/10 / 2011 về phát hành trái phiếu doanh nghiệp, Nghị định số 58/2012/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật chứng khoán và luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật chứng khoán; vay vốn từ các nguồn bên ngoài các tổ chức tín dụng. Trong số các hình thức này, vay vốn ở các tổ chức tín dụng được xem là nguồn tiếp cận vốn thông dụng đối với các doanh nghiệp. Pháp luật quy định điều kiện vay vốn ở các tổ chức tín dụng được áp dụng chung cho tất cả các chủ thể kinh doanh. Thông tư số 12/2010/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ngày 14/4/2010 hướng dẫn tổ chức tín dụng cho vay bằng đồng Việt Nam đối với khách hàng theo lãi suất thỏa thuận. Theo đó, lãi suất cho vay giữa ngân hàng và khách hàng là do thỏa thuận (ngoại trừ một số ngành, lĩnh vực bị khống chế lãi suất cho vay ngắn hạn). Đối với kênh huy động là phát hành cổ phiếu, theo quy định hiện hành điều kiện để phát hành cổ phiếu (đối với các công ty cổ phần) tương đối đơn giản, áp dụng không phân biệt quy mô theo Nghị định số 90/2011/NĐ-CP

Các chính sách khuyến khích sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân bao gồm một tập hợp các chính sách có mối quan hệ với nhau được ban hành để điều chỉnh các mối quan hệ kinh tế liên quan khu vực kinh tế tư nhân. Phạm vi tác động của các chính sách về khu vực kinh tế tư nhân rất rộng, có những chính sách là đặc thù áp dụng riêng cho các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân nhưng cũng có những chính sách tác động đồng thời đến các doanh nghiệp thuộc nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Ở đây đề cập đến các chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp như: hỗ trợ tài chính; hỗ trợ về mặt bằng sản xuất; hỗ trợ về khoa học - công nghệ và đào tạo nhân lực; hỗ trợ xúc tiến mở rộng thị trường; hỗ trợ tiếp cận và khai thác thông tin...

Thể chế phát triển các nguồn lực về vốn và tài chính cũng được hoàn thiện một bước. Cho tới nay, thị trường vốn của Việt Nam đã phát triển đầy đủ các loại hình của các nền kinh tế thị trường hiện đại khác như: thị trường tín dụng, thị trường cổ phiếu và thị trường trái phiếu.

Từ năm 2000 cho đến nay, chính sách thuế đã có nhiều cải cách theo các trình tự sau: ban hành các đạo luật về thuế nhằm xóa bỏ sự phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế, cải cách thuế xuất, nhập khẩu qua việc cắt bỏ các dòng thuế quan, giảm thuế suất và giản thời gian nộp thuế để góp phần trợ giúp doanh nghiệp. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế giá trị gia tăng được Quốc hội ban hành ngày 17/6 /2003 và được áp dụng từ ngày 1/1 /2004 là cơ sở pháp lý để doanh nghiệp thực hiện tốt nghĩa của mình đối với Nhà nước. Điểm mới của Luật là mức thuế suất đã được thu hẹp chỉ còn ba mức thuế suất là 0% 5% và 10% và bỏ mức thuế suất cao 20%.

Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2003 thay thế cho Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 1997 đã có những cải thiện đáng kể về mức thuế suất, giảm thuế suất từ 32% xuống còn 28%, Để khuyến khích doanh nghiệp đầu tư, Luật cũng đã bãi bỏ thuế thu nhập doanh nghiệp bổ sung 25% đối với doanh nghiệp trong nước, bãi bỏ thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài đối với Việt kiểu và các nhà đầu tư nước ngoài...

Tháng 6/2008, Quốc hội đã thông qua hai đạo luật: Luật thuế giá trị gia tăng và Luật thuế thu nhập doanh nghiệp thay thế cho Luật cũ và được áp dụng từ ngày 01/01/2008. Luật thuế giá trị gia tăng năm 2008 đã thu hẹp diện không thu thuế từ 28 nhóm hàng hóa, dịch vụ xuống còn 25 nhóm hàng hóa, dịch vụ. Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2008 cũng đã giảm mức thuế suất xuống còn 25% thay vì 28% như Luật năm 2003 đã quy định.

Luật thuế thu nhập doanh nghiệp tiếp tục được sửa đổi, bổ sung các năm 2013, 2014, 2020. Theo đó đã có sự bình đẳng về mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các loại hình doanh nghiệp, không phân biệt mức thuế dựa vào doanh thu như trước đó, trong đó vẫn có sự ưu tiên đối với các doanh nghiệp hoạt động ở vùng có khó khăn hoặc đặc biệt khó khăn.

Việc cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực thuế về hải quan đã gỡ bỏ khá nhiều rào cản hành chính gây phiền hà chu doanh nghiệp khi gia nhập thị trường. Luật hải quan năm 2014 (sửa đổi, bổ sung năm 2018) được ban hành đã tạo ra một bước cải cách hành chính mạnh mẽ trong công tác quản lý hải quan. Luật hải quan đã tạo điều kiện chuyển từng bước hoạt động hải quan sang quản lý rủi ro theo tập quán quốc tế. Thủ tục miễn, giảm thuế và hoàn thuế đã được xác định rõ ràng, đơn giản hơn, giảm thiểu hồ sơ giấy tờ không cần thiết, hướng tới hải quan phí giấy tờ năm 2022.

Nghị quyết số 08/2011/QH13 ngày 6/8/2011, Nghị quyết số 29/2012/QH13 ngày 21/6/2012 đã đưa ra các giải pháp về thuế nhằm tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp, chính sách ưu đãi thuế đối với các cá nhân, tổ chức; Nghị quyết số 13/NQ-CP ngày 10/5/2012, Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 07/01/2013 đã có những giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường và giải quyết nợ xấu; Luật số 31/2013/QH13 ngày 19/6/2013 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế giá trị gia tăng năm 2008; Luật số 32/2013/QH13 được sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2008... cùng với các giải pháp tài chính khác để hỗ trợ, chia sẻ khó khăn với doanh nghiệp, để tiếp tục vực dậy sản xuất kinh doanh trong cộng đồng doanh nghiệp trong năm 2015, ngay từ năm 2014, Quốc hội.

Năm 2015, chính sách thuế tiếp tục được triển khai theo hướng hỗ trợ thị trường, tạo điều kiện cho doanh nghiệp phục hồi và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh. Các quy định về chính sách ưu đãi thuế, về điều kiện, thời gian ưu đãi thuế rõ ràng, minh bạch, tạo thuận lợi hơn cho doanh nghiệp và bao trùm rộng rãi trên các sắc thuế: thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập cá nhân, công tác quản lý thuế....

4. Xây dựng nhóm thể chế về phân phối thu nhập

4.1. Cải cách tiền lương giai đoạn 1985-1992

Giai đoạn này được đánh dấu bằng việc ban hành Nghị quyết của Hội nghị Trung ương 8 khóa V (tháng 6/1985) và Nghị định số 235/HĐBT ngày 18/9/1985 của Hội đồng Bộ trưởng về cải tiến chế độ tiền lương của công nhân, viên chức và các lực lượng vũ trang, quy định thang, bảng lương đối với công nhân, nhân viên, cán bộ quản lý xí nghiệp, công ty và bảng lương chức vụ đối với cán bộ, viên chức trong các tổ chức sự nghiệp và cơ quan quản lý nhà nước. Nguyên tắc hưởng lương là làm công việc gì, chức vụ gì thì hưởng lương theo công việc, chức vụ đó. Tại Điều 2, Nghị định số 235/HĐBT quy định: Mức lương tối thiểu là 220 đồng/tháng. Mức lương này ứng với mức giá ở những vùng có giá sinh hoạt thấp nhất, khi nào mức giá thay đổi hoặc ở những vung có giá sinh hoạt cao hơn thì tiền lương được tính thêm phụ cấp chênh lệch giá sinh hoạt. Đến tháng 9/1985, tiền lương của người lao động tăng 64%. Tuy nhiên, với nền kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, tổng thu nhập quốc dân tính trên đầu người thấp, tình trạng lạm phát đã làm giá trị của đồng lương sụt giảm nhanh chóng và mức trả lương không đánh giá đúng giá trị thực tế sức lao động của người lao động. Ngày 28/12/1988, Hội đồng Bộ trưởng ra Quyết định số 202-HĐBT về tiền lương công nhân, viên chức sản xuất, kinh doanh khu vực quốc doanh và công tư hợp doanh và Quyết định số 203-HĐBT về tiền lương công nhân, viên chức hành chính, sự nghiệp, lực lượng vũ trang và các đối tượng hưởng chính sách xã hội. Theo đó, tiền lương tối thiểu được nâng lên 22.500 đồng/tháng.

4.2. Cải cách tiền lương giai đoạn 1993-2002

Giai đoạn này được đánh dấu bằng các văn bản: Nghị định số 25/CP ngày 23/5/1993 của Chính phủ quy định tạm thời chế độ tiền lương mới của công chức, viên chức hành chính, sự nghiệp và lực lượng vũ trang; Nghị định số 26/CP ngày 23/5/1993 của Chính phủ quy định tạm thời chế độ tiền lương mới trong các doanh nghiệp; Bộ luật Lao động (năm 1994); Nghị định số 197/CP ngày 31/12/1994 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật lao động về tiền lương; Thông tư số 11/LĐTBXH-TT ngày 03/5/1995 hướng dẫn thực hiện Nghị định số 197/CP...

Một trong những đặc điểm của chính sách tiền lương ở Việt Nam trong giai đoạn này là mức lương tối thiểu thường xuyên được điều chỉnh tăng. Một trong những lý do là do sự tác động của quy luật cung - cầu, quy luật giá cả, quy luật cạnh tranh đòi hỏi tiền lương tối thiểu liên tục được nâng lên. Mục tiêu của cải cách chính sách tiền lương của Việt Nam trong giai đoạn 1993 - 2002 là phải làm cho tiền lương trở thành thước đo giá trị sức lao động, áp dụng ở mọi thành phần kinh tế có quan hệ lao động theo thị trường. Đặc biệt, tiền lương tối thiểu phải thực sự là “lưới an toàn” cho người lao động, đảm bảo cho họ duy trì được mức sống tối thiểu cần thiết và tái sản xuất sức lao động, đáp ứng yêu cầu tiền tệ hóa tiền lương, dần thay thế và tiến tới xóa bỏ chế độ phân phối hiện vật có tính chất tiền lương. Những thành công và hạn chế của cải cách chính sách tiền lương giai đoạn 1993-2002 đặt nền móng cho việc hoàn thiện các quy định về tiền lương dựa trên cơ sở có quan hệ giữa chủ sử dụng lao động và người lao động; tạo sự cạnh tranh giữa những người lao động và điều kiện cho sự phát triển thị trường lao động; tách chế độ tiền lương của cán bộ, công chức, viên chức hưởng lương từ ngân sách nhà nước với tiền lương của người lao động trong doanh nghiệp; tách dần chính sách tiền lương với chính sách bảo hiểm xã hội và trợ cấp ưu đãi người có công. Việc Bộ luật Lao động năm 1994 được ban hành đã thể hiện tiền lương tối thiểu ghinhận một cách đầy đủ, toàn diện trong văn bản pháp lý có hiệu huc cao là Bộ luật, Bộ Luật lao động góp phần tạo nên trách hiệu ắc quan hệ xã hội trong lĩnh vực lao động và ngày càng thay đổi theo hướng tích cực, hội nhập với thế giới.

4.3. Cải cách tiền lương giai đoạn 2003 - 2022

Điểm nhấn của cải cách chính sách tiền lương giai đoạn này là việc Chính phủ quy định mức lương tối thiểu vùng dựa trên mức lương tối thiểu chung dành riêng cho khu vực doanh nghiệp tư nhân vào năm 2009. Đặc biệt, thực hiện Kết luận số 23-KL/TW ngày 29/5/2012 của Hội nghị Trung ương 5 khóa XI và Kết luận số 63-KL/TW ngày 27/5/2013 của Hội nghị Trung ương 7 khóa XI, nước ta đã từng bước hoàn thiện cơ chế quy định mức lương tối thiểu vùng và chế độ tiền lương của khu vực doanh nghiệp theo yêu cầu phát triển kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước; đã thực hiện nguyên tắc chỉ điều chỉnh mức lương cơ sở và ban hành chính sách, chế độ mới đối với khu vực công khi đã bố trí đủ nguồn lực; không ban hành mới các chế độ phụ cấp theo nghề, triển khai xây dựng danh mục vị trí việc làm tạo cơ sở cho việc trả lương. Đồng thời từ năm 2013, tiền lương tối thiểu để tính lương cho người lao động ở khu vực công được đổi thành mức lương cơ sở. Ngày 9/11/2016 Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 25/2016/QH14 về kế hoạch tài chính 5 năm quốc gia giai đoạn 2016 - 2020, trong đó có nội dung tăng mức lương cơ sở tối thiểu trung bình 7%/năm giai đoạn 2016 - 2020. Tính đến ngày 01/7/2022, mức lương cơ sở của người lao động theo vùng được điểu chỉnh tăng lên theo Nghị định số 38/2022/NĐ-CP về lương tối thiểu vùng từ 01/7/2022. Đối với khu vực doanh nghiệp, mức lương tối thiểu vùng I là 4.420.000 đồng/tháng; vùng II là 3.930.000 đồng/tháng; vùng III là 3.430.000 đồng/tháng; vùng IV là 3.250.000 đồng/tháng. Đây là một trong những nội dung nổi bật của chính sách cải cách tiền lương giai đoạn 2003 - 2022.

Với quy trình thực hiện cải cách theo nhiều bước, các quy định về tiền lương của giai đoạn 2003 - 2022 có xu hướng đảm bảo cuộc sống của người lao động và gia đình họ; đồng thời không tạo ra gánh nặng cho quỹ lương của Nhà nước và người sử dụng lao động, đảm bảo tính hợp lý và hài hòa lợi ích giữa các bên tham gia quan hệ lao động. Tuy nhiên, thực chất của việc cải cách chính sách tiền lương trong giai đoạn này vẫn dựa trên cách tính lương năm 1993, chỉ điều chỉnh tăng mức lương cơ sở, mở rộng quan hệ tiền lương, tách tiền lương khu vực sản xuất kinh doanh với khu vực chi từ ngân sách nhà nước... vì vậy, chính sách tiền lương vẫn còn nhiều bất cập so với nhu cầu của thực tiễn phát triển đất nước. Điều này đặt ra yêu cầu một cuộc cải cách chính sách tiền lương toàn diện, đồng bộ, dựa trên nhu cầu của thực tiễn, bằng chứng khoa học thuyết phục.

Tuy nhiên, mức lương tối thiểu nhìn chung còn thấp, chưa bảo đảm được “nhu cầu sống tối thiểu của người lao động và gia đình họ” theo quy định của Bộ luật lao động năm 2019, cho nên đời sống của người lao động nói chung, đặc biệt ở các địa bàn vùng I (như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh có giá cả sinh hoạt cao). Vì vậy, trong thời gian tới Chính phủ sẽ tiếp tục điều chỉnh mức lương tối thiểu vùng, trong đó phải theo dõi, đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tình hình tiến lương, thu nhập, việc làm của người lao động để xác định lộ trình điều chỉnh tiền lương tối thiểu vùng cho phù hợp và tiến tới bảo đảm nhu cầu sống tối thiểu của người lao động theo quy định của pháp luật lao động.

 


[1] https://quochoi.vn/tintuc/pages/cacbaocaogiamsat.aspx.

[2] Luật số 27/2004/QH11 ngày 03/12/2004 về cạnh tranh, sau bị thay thế bởi Luật số 23/2018/QH14 ngày 12/6/2018 về cạnh tranh

Đăng ký nhận email

Đăng ký email để có thể có được những cập nhật mới nhất về tải liệu được đăng tải trên website

Tập san đã phát hành