Thứ năm, 28 Tháng 3 2024 09:40

Đánh giá thực trạng đối với các quy định của pháp luật về trách nhiệm pháp lý đối với hành vi giao dịch bất hợp pháp trên thị trường chứng khoán

1. Thực trạng quy định của pháp luật về trách nhiệm pháp lý đối với hành vi giao dịch nội gián trên thị trường chứng khoán tập trung ở Việt Nam

Không chỉ có giới nghiên cứu khoa học pháp lý mà các nhà kinh tế trên thế giới đã tốn kém quá nhiều giấy bút để tranh cãi về việc liệu có cần điều chỉnh bằng pháp luật đối với hành vi giao dịch nội gián trên thị trường chứng khoán. Quan điểm ủng hộ việc điều chỉnh bằng pháp luật đối với hành vi giao dịch nội gián cho rằng giao dịch nội gián đặt các nhà đầu tư không có lợi thế về thông tin vào tình thế bất lợi, không khuyến khích đầu tư và làm tổn hại đến danh tiếng của công ty, từ đó phá hủy niềm tin của nhà đầu tư vào thị trường và phá vỡ tính thống nhất của thị trường chứng khoán. Với quan điểm đó, họ cho rằng điều chỉnh bằng pháp luật đối với hành vi giao dịch nội gián là cần thiết nhằm ngăn chặn tình huống người nội bộ có lợi thế về thông tin thực hiện các giao dịch gây tổn hại cho công chúng đầu tư - những người không có điều kiện để tiếp cận các thông tin nhạy cảm về giá chứng khoán. Quan điểm ngược lại chỉ trích việc điều chỉnh bằng pháp luật đối với hành vi giao dịch nội gián lại cho rằng giao dịch nội gián là cách thức hiệu quả để đem lại thu nhập cho người nội bộ đồng thời tạo điều kiện cho các thông tin nội bộ nhanh chóng phản ánh trong giá chứng khoán và vì vậy làm cho giá chứng khoán chuẩn xác hơn vì đã thể hiện được những thông tin quan trọng của công ty chưa được công bố. Việc làm này có ý nghĩa lớn trong việc giúp cho các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán nhận thức được thực trạng hoạt động của công ty có chứng khoán là đối tượng của giao dịch nội gián... 

Bằng những lý lẽ trên, họ cho rằng không nên hạn chế giao dịch nội gián hay nói cách khác cần bãi bỏ các cản trở giao dịch nội gián. Tuy nhiên, trong những thập niên gần đây, trên 103 quốc gia có thị trường chứng khoán thì có 87 quốc gia đều đưa ra các điều khoản quy định cấm giao dịch nội gián trong quy định của pháp luật quốc gia mình. Các nhà nghiên cứu lập pháp Việt Nam khi xây dựng pháp luật điều chỉnh về thị trường chứng khoán cũng ủng hộ quan điểm hành vi giao dịch nội gián cần có sự điều chỉnh của pháp luật (cấm và chế tài đối với hành vi này).

Tại Việt Nam, khái niệm về hành vi giao dịch nội gián (theo pháp luật Việt Nam là giao dịch nội bộ) đã được pháp điển hóa trong văn bản quy phạm pháp luật mà cụ thể là Luật Chứng khoán năm 2006, sửa đổi, bổ sung năm 2010 đã xác định hành vi giao dịch nội gián là hành vi vi phạm nghiêm trọng pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán, xâm phạm nghiêm trọng đến lợi ích của các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán và cần phải bị nghiêm cấm trên thị trường chứng khoán. Luật Chứng khoán năm 2006, sửa đổi, bổ sung năm 2010 cũng là văn bản đầu tiên quy định về hành vi vi phạm cũng như mức độ xử lý các hành vi đó trong luật. Đối với xử lý hành vi giao dịch nội bộ, tại khoản 1 Điều 126 Luật Chứng khoán năm 2006, sửa đổi, bổ sung năm 2010 đã quy định: "Người biết rõ thông tin nội bộ hoặc người có thông tin nội bộ nếu mua, bán chứng khoán, tiết lộ thông tin này hoặc đề nghị người khác mua, bán chứng khoán thì bị phạt tiền, tịch thu các khoản thu trái pháp luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật". Để thể chế hóa về thẩm quyền cũng như mức độ xử phạt đối với hành vi giao dịch nội bộ, Điều 27 Nghị định số 36/2007/NĐ-CP ngày 08-3-2007 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán (sau đây gọi tắt là Nghị định số 36/2007/NĐ-CP) đã quy định: Tổ chức, cá nhân thực hiện hành vi tiết lộ, cung cấp, sử dụng thông tin nội bộ để thực hiện mua, bán chứng khoán trên cơ sở thông tin nội bộ sẽ phải bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng (đôi với cá nhân) và từ 50.000.000 đồng đến 70.000.000 đồng (đối với tổ chức đầu tư chứng khoản), ngoài ra, còn có thể áp dụng hình phạt bổ sung và các biện pháp khắc phục hậu quả là tịch thu toàn bộ các khoản thu trái pháp luật của cá nhân, tổ chức đầu tư chúng khoản do hành vi vi phạm và buộc chấp hành đúng các quy định của pháp luật. Thông tư số 97/2007/TT-BTC ngày 08-8-2007 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 36/2007/NĐ-CP ngày 08-3-2007 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán (sau đây gọi tắt là Thông tư số 97/2007/TT-BTC) đã thể chế hóa và hướng dẫn cụ thể về giao dịch nội bộ. Đó là hành vi của nhà đầu tư cá nhân hoặc nhà đầu tư tổ chức có được thông tin nội bộ có giá trị và sử dụng thông tin đó trước khi được công bố công khai nhằm mua, bán cho chính mình hoặc cung cấp cho bên thứ ba để hưởng lợi, trong đó thông tin nội bộ là các thông tin liên quan đến công ty đại chúng, quỹ đại chúng chưa được công bố mà nếu được công bố có thể ảnh hưởng lớn đến giá chứng khoán của công ty đại chúng, quỹ đại chúng đó.

Trước thực tế đó, ngày 02-4-2007, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh số 04/2008/PL-UBTVQH12 sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính, trong đó quy định nâng mức phạt tiền tối đa đến 500.000.000 đồng đối với hành vi vi phạm trong lĩnh vực chứng khoán (khoản 2 Điều 1). Trên cơ sở này, Nghị định số 85/2010/NĐ-CP ngày 02-8-2010 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán (sau đây gọi tắt là Nghị định số 85/2010/NĐ-CP) đã giải quyết kịp thời những bất cập trong triển khai xử lý vi phạm pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán trong đó có quy định phạt tiền đối với hành vi giao dịch nội bộ từ 150.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, tịch thu toàn bộ khoản thu trái pháp luật do hành vi này tạo ra (Điều 26).

Để có căn cứ trong việc áp dụng hình phạt bổ sung về khoản thu trái pháp luật từ hành vi giao dịch nội bộ, Thông tư số 37/2011/TT-BTC của Bộ Tài chính ngày 16-3- 2011 hướng dẫn thi hành Nghị định số 85/2010/NĐ-CP ngày 02-8-2010 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán (sau đây gọi tắt là Thông tư số 37/2011/TT-BTC) đã quy định về áp dụng biện pháp bổ sung là tịch thu toàn bộ khoản thu trái pháp luật (khoản 2 Điều 13). Khoản thu trái pháp luật là khoản lợi nhuận phát sinh từ việc thực hiện hành vi giao dịch nội bộ hoặc thao túng giá chứng khoán, sau khi trừ đi các khoản thuế, phí phải nộp. Trường hợp một người dùng nhiều tài khoản để giao dịch nội bộ hoặc thao túng giá chứng khoán thì khoản thu trái pháp luật được tính trên tổng các tài khoản được sử dụng để giao dịch nội bộ hoặc thao túng giá chứng khoán.

 Trường hợp một nhóm người thông đồng, cấu kết giao dịch nội bộ hoặc thao túng giá chứng khoán thì khoản thu trái pháp luật được tính trên từng tài khoản được sử dụng để giao dịch nội bộ hoặc thao túng giá chứng khoán. Ngày 01-11-2016, Chính phủ ban hành Nghị định số 145/2016/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 108/2013/NĐ-CP ngày 23-9-2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán (sau đây gọi tắt là Nghị định số 145/2016/NĐ-CP) thay thế Nghị định số 85/2010/NĐ-CP, Thông tư số 36/2017/TT-BTC ngày 27-4- 2017 của Bộ Tài chính sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 217/2013/TT-BTC ngày 31-12-2013 hướng dẫn thực hiện xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán (sau đây gọi tắt là Thông tư số 36/2017/TT-BTC) đã điều chỉnh tăng mức xử phạt tối đa trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán tối đa 2 tỷ đồng đối với tổ chức và 1 tỷ đồng đối với cá nhân vi phạm để bảo đảm tính răn đe, phòng ngừa vi phạm.

Đối với hành vi giao dịch nội bộ, theo đánh giá của các chuyên gia và nhà lập pháp thấy rằng hành vi này nguy hiểm, ảnh hưởng lớn đến nhà đầu tư và tính công bằng bền vững của thị trường nên tùy theo mức độ vi phạm pháp luật có thể áp dụng trách nhiệm hình sự. Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán (Điều 181b Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009, Điều 210 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định: khung cơ bản mức phạt tiền từ 500.000.000 đồng đến 2.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm; khung tăng nặng có mức phạt tiền từ 2.000.000.000 đồng đến 5.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến 07 năm được áp dụng trong trường hợp phạm tội có một trong các tình tiết như phạm tội có tổ chức; thu lợi bất chính từ 1 tỷ đồng trở lên; gây thiệt hại cho nhà đầu tư 1,5 tỷ đồng trở lên; tái phạm nguy hiểm. Ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn có thể bị hình phạt phạt tiền từ 50.000.000 đến 200.000.000 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

Như vậy, thực tiễn pháp luật Việt Nam đã quy định các điều khoản chống lại hành vi giao dịch nội bộ và chế tài áp dụng đối với hành vi này trên thực tế. Tuy nhiên, việc xác định trách nhiệm pháp lý đối với hành vi giao dịch nội bộ trong pháp luật Việt Nam hiện hành chỉ quy định trách nhiệm pháp lý với việc can thiệp của Nhà nước qua biện pháp xử phạt hành chính đối với công ty vi phạm trong việc chậm công bố thông tin, nếu cá nhân vi phạm thì bị truy cứu trách nhiệm hành chính hoặc trách nhiệm hình sự. Hành vi giao dịch nội bộ ảnh hưởng đến quyền lợi của các nhà đầu tư trực tiếp đang nắm giữ các cổ phiếu của tổ chức phát hành có hành vi giao dịch nội bộ, tạo ra sự bất bình đẳng trong quan hệ đầu tư giữa các chủ thể này và gây thiệt hại đến các nhà đầu tư, một trong những trách nhiệm pháp lý phải được tính đến đó là trách nhiệm dân sự với biện pháp bồi thường thiệt hại để bảo đảm cho quyền lợi của nhà đầu tư cũng như tổ chức phát hành do hành vi giao dịch nội bộ gây ra.

Mặt khác, việc nhận diện và áp dụng trách nhiệm pháp lý đối với hành vi này rất khó xác định. Trong hoạt động kinh doanh của các nhà đầu tư với các quan hệ đa phương giữa các chủ thể đầu tư, các chủ thể đặt lệnh mua, bán chứng khoán với số lượng lớn trước khi thông tin được công bố thì rất khó có cơ sở chứng minh và kết luận rằng họ đã sử dụng các thông tin nội bộ do các đối tượng như tổ chức phát hành, thành viên chủ chốt, cổ đông lớn, kiểm toán viên hay cán bộ trong ngành chứng khoán cung cấp. Từ thực tiễn của pháp luật Việt Nam về trách nhiệm pháp lý đối với hành vi giao dịch nội bộ cho thấy để bảo đảm tính khả thi khi trách nhiệm pháp lý đối với hành vi giao dịch này cần tính đến việc quy định cụ thể về thông tin nội bộ, thời điểm xác định thông tin nội bộ được công bố, trách nhiệm và cơ chế thực thi đối với người chịu trách nhiệm trong việc công bố thông tin của tổ chức phát hành, mức xử phạt phù hợp với lợi nhuận thu được hay khoản lỗ tránh được cũng như sự tác động của hành vi giao dịch nội bộ đối với thị trường, cơ sở để tính khoản thu lợi bất hợp pháp.

2. Thực trạng quy định của pháp luật về trách nhiệm pháp lý đối với hành vi giao dịch thao túng thị trường trên thị trường chứng khoán tập trung ở Việt Nam

Thao túng thị trường nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng là mục tiêu tâm điểm của những nhà đầu tư muốn trục lợi từ hoạt động đầu tư trên thị trường thu lợi bất chính. Giai đoạn đầu của sự hình thành và hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam với đa số nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam là nhà đầu tư cá nhân (nhà đầu tư không chuyên) và thực tiễn trong thời gian qua, sự vận hành thị trường chứng khoán Việt Nam cho thấy "tâm lý bầy đàn" chi phối rất lớn trong hoạt động đầu tư của các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam, đó cũng chính là “môi trường” màu mỡ cho việc dung túng và phát triển của hành vi thao túng thị trường chứng khoán. 

Việc áp dụng trách nhiệm pháp lý đối với hành vi này có thể xuất phát từ mục tiêu hạn chế và ngăn chặn hành vi này, pháp luật Việt Nam ghi nhận đây là hành vi nguy hiểm ảnh hưởng lớn đến thị trường chứng khoán và công chúng đầu tư nên việc can thiệp của Nhà nước thông qua việc quy định các hình thức trách nhiệm pháp lý hành chính và trách nhiệm hình sự, ngoài ra có thể áp dụng trách nhiệm dân sự nếu gây thiệt hại cho các nhà đầu tư. Ngay kể cả một số vụ việc xảy ra trên thị trường chứng khoán Việt Nam, chính bản thân các nhà đầu tư cũng lên tiếng nên quy định về việc hạn chế quyền đầu tư, kinh doanh của các chủ thể thực hiện các hành vi thao túng này.

Xuất phát từ tính chất và hoạt động đầu tư này nên tình trạng đầu cơ thường diễn ra trên thị trường chứng khoán. Để bảo đảm tính lành mạnh, công bằng của thị trường, các nhà nghiên cứu lập pháp cũng như các nhà hoạch định chính sách kinh tế đều có chung quan điểm xây dựng và điều chỉnh pháp luật đối với hành vi giao dịch thao túng thị trường.

Hành vi thao túng giá chứng khoán ở Việt Nam đã được các nhà làm luật xây dựng ngay từ khi thị trường chứng khoán bắt đầu hoạt động. Nghị định số 22/2000/NĐ-CP ngày 10-7-2000 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán (sau đây gọi tắt là Nghị định số 22/2000/NĐ-CP) đã quy định về hành vi giao dịch thao túng thị trường chứng khoán và chế tài đối với hành vi này. Theo quy định của Nghị định này, mức phạt đối với hành vi thao túng thị trường bao gồm phạt tiền từ 20 triệu đồng đến 50 triệu đồng và kèm theo hình phạt bổ sung như tước quyền sử dụng giấy phép hoạt động kinh doanh chứng khoán, tịch thu toàn bộ các khoản thu từ việc thực hiện hành vi vi phạm mà có và tịch thu số chứng khoán liên quan đến hành vi vi phạm. Điều 9 Luật Chứng khoán năm 2006, sửa đổi, bổ sung năm 2010 quy định nghiêm cấm hành vi thao túng thị trường chứng khoán, tại khoản 3 Điều 126 Luật Chứng khoán năm 2006, sửa đổi, bổ sung năm 2010 quy định: “Tổ chức, cá nhân vi phạm quy định về các hành vi bị cấm để thao túng giá chứng khoán, tạo ra giá chứng khoán giả tạo, giao dịch giả tạo thì bị phạt tiền, tịch thu các khoản thu trái pháp luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật".

Để bảo đảm thực thi và ngăn ngừa, răn đe đối với hành vi này, Điều 28 Nghị định số 36/2007/NĐ-CP ngày 28-3-2007 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán, quy định về hình thức xử phạt đối với hành vi thao túng chứng khoán là phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng đối với cá nhân và 50.000.000 đồng đến 70.000.000 đồng đối với tổ chức đầu tư chứng khoán. Ngoài ra, còn có hình thức xử phạt bổ sung là tịch thu toàn bộ các khoản thu trái pháp luật của cá nhân, tổ chức đầu tư chứng khoán do có hành vi vi phạm, kèm theo đó là biện pháp khắc phục hậu quả: buộc chấp hành đúng các quy định của pháp luật. Tuy nhiên, các quy định này lại thiếu các văn bản quy định về cơ chế hướng dẫn thực hiện khiến cho các quy định này mới chỉ “tồn tại trên giấy”. Mặt khác, do bị hạn chế bởi văn bản xử lý vi phạm hành chính có hiệu lực cao hơn nên các chế tài đối với hành vi thao túng thị trường chứng khoán không tương xứng với mức độ nguy hiểm và hậu quả của hành vi này. Để tăng cường xử lý đối với hành vi thao túng thị trường, cùng với việc nâng mức phạt tiền đối với hành vi thao túng giá chứng khoán, Thông tư số 37/2011/TT-BTC hướng dẫn thực hiện Nghị định số 85/2010/NĐ-CP ngày 02-8-2010 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán đã hướng dẫn cách tính các khoản thu bất hợp pháp từ hành vi thao túng giá chứng khoán để tịch thu theo nguyên tắc: thu toàn bộ khoản thu trái pháp luật từ thời điểm tổ chức, cá nhân bắt đầu thực hiện hành vi thao túng giá chứng khoán đến thời điểm kết thúc hành vi thao túng giá chứng khoán.

Ngày 01-11-2016, Chính phủ ban hành Nghị định số 145/2016/NĐ-CP tại khoản 2 Điều 29 đã quy định mức xử phạt từ 1.000.000.000 đồng đến 1.200.000.000 đồng đối với hành vi giao dịch thao túng thị trường chứng khoán, điều này phù hợp với tính chất và mức độ ảnh hưởng của hành vi vi phạm với thị trường trên cơ sở sửa đổi của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, sửa đổi, bổ sung năm 2014 đã tháo gỡ vướng mắc về quy định mức xử phạt đối với hành vi vi phạm này. Ngoài ra, còn áp dụng hình thức xử phạt bổ sung: đình chỉ hoạt động kinh doanh, dịch vụ chứng khoán hoặc tước quyền sử dụng chứng chỉ hành nghề chứng khoán trong thời hạn từ 01 tháng đến 03 tháng và biện pháp khắc phục hậu quả buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp do hành vi vi phạm gây ra, buộc hủy bỏ thông tin, cải chính thông tin đối với hành vi vi phạm.

Trách nhiệm hình sự đối với hành vi này cũng được ghi nhận lần đầu trong Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009 (các Điều 181a, 1816, 181c) và Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 cũng đã kế thừa quy định này tại Điều 211: “Tội thao túng thị trường chứng khoán". Tội thao túng thị trường chứng khoán là tội phạm mang tính vật chất, do vậy, việc đánh giá mức độ nghiêm trọng căn cứ vào hậu quả gây ra như quy định hiện hành là phù hợp trên cơ sở tỷ lệ (%) biến động về giá chứng khoán và phù hợp với quy mô vốn của doanh nghiệp, tuy nhiên để xác định mức độ hậu quả xảy ra phải phù hợp với mức độ phát triển của thị trường cũng như căn cứ để xác định tính toán mức độ hậu quả xảy ra làm cơ sở để áp dụng trách nhiệm pháp lý mang tính khả thi. Để xác định rõ mức độ nguy hiểm để có thể truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi này, Thông tư liên tịch số 10/2013/TTLT-BTP- BCA-TANDTC-VKSNDTC-BTC ngày 26-6-2013 của Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tài chính hướng dẫn áp dụng một số điều của Bộ luật Hình sự về các tội phạm trong lĩnh vực thuế, tài chính - kế toán và chứng khoán đã tháo gỡ vướng mắc này đó là xác định mức độ gây hậu quả nghiêm trọng làm cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự: trường hợp gây thiệt hại vật chất cho nhà đầu tư với số tiền từ 1.000.000.000 đồng đến dưới 3.000.000.000 đồng; gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, trường hợp gây thiệt hại về vật chất cho nhà đầu tư với số tiền từ 3.000.000.000 đồng trở lên. Ngoài việc gây hậu quả là thiệt hại về vật chất, hành vi phạm tội còn có thể gây ra các hậu quả phi vật chất như: gây ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách, pháp luật của Nhà nước về thị trường chứng khoán; làm mất niềm tin của nhà đầu tư vào thị trường chứng khoán; làm ảnh hưởng đến sự công bằng, tính minh bạch, công khai và an toàn của thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, việc quy định gây hậu quả phi vật chất trong quy định của văn bản trên không có tính khả thi trên thực tế vì không có tiêu chí để đo lường các thiệt hại mang tính định tính này. Văn bản cũng hướng dẫn khoản thu lợi bất chính lớn là trường hợp thu được một khoản lợi có trị giá từ 500 triệu đồng trở lên từ việc thực hiện hành vi phạm tội này (Điều 5, Điều 6 của Thông tư này).

Trách nhiệm dân sự đối với hành vi thao túng thị trường không được ghi nhận và quy định cụ thể trong quy định của luật hiện hành. Theo quy định tại khoản 3 Điều 126 Luật Chứng khoán năm 2006, sửa đổi, bổ sung năm 2010 hành vi giao dịch thao túng thị trường theo quy định của pháp luật Việt Nam chỉ quy định truy cứu trách nhiệm hành chính và trách nhiệm hình sự. Nhiều quan điểm cũng như pháp luật một số quốc gia không quy định về trách nhiệm dân sự đối với hành vi giao dịch thao túng thị trường bởi các lý do:

Thứ nhất, hành vi thao túng thị trường chứng khoán không xác định được chủ thể bị hại trực tiếp trong quan hệ giao dịch do hành vi này gây ra;

Thứ hai, biện pháp áp dụng trách nhiệm dân sự là bồi thường thiệt hại không tính được trên thực tế. Vì hành vi giao dịch thao túng thị trường là một giao dịch dân sự phát sinh trong quan hệ mua, bán trên thị trường chứng khoán, hành vi này xâm hại đến quyền, lợi ích trực tiếp của các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán và tác động tiêu cực đối với thị trường đó là sự biến động giá không trung thực trên thị trường. Như vậy, xét về bản chất đây là một loại hợp đồng được phát sinh và việc thực hiện hành vi thao túng thị trường làm xâm hại đến quyền lợi của các bên trong quan hệ giao dịch và bản chất vốn có của thị trường nên việc quy định trách nhiệm dân sự đối với hành vi giao dịch thao túng thị trường là cần thiết và phù hợp với quy luật kinh tế thị trường.

3. Thực trạng quy định của pháp luật về trách nhiệm pháp lý đối với hành vi gian lận hoặc tạo dựng, công bố thông tin sai sự thật trong giao dịch trên thị trường chứng khoán tập trung ở Việt Nam

Thông tin là yếu tố quan trọng quyết định sự phát triển của thị trường chứng khoán. Hành vi công bố thông tin sai sự thật hoặc che giấu sự thật được xem là hành vi gian lận, lừa đảo trong giao dịch mua, bán chứng khoán làm ảnh hưởng đến tính công bằng, minh bạch của thị trường chứng khoán, đồng thời ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán. Hành vi công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong giai đoạn giao dịch mua, bán chứng khoán được thực hiện thông qua chủ thể đặc biệt là người đại diện theo pháp luật của công ty hoặc người được ủy quyền công bố thông tin. Do vậy, đây là hành vi dễ xảy ra trên thị trường chứng khoán, đặc biệt là trong giao dịch mua, bán chứng khoán, hành vi này ảnh hưởng đến quyết định hoạt động đầu tư của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán. Vì vậy, để bảo đảm sự minh bạch, công bằng và tính bền vững của thị trường chứng khoán, các nhà làm luật khi xây dựng pháp luật điều chỉnh về thị trường chứng khoán đều tính đến các quy chế pháp lý để hạn chế và ngăn chặn hành vi này.

Quy định của Luật Chứng khoán năm 2006, sửa đổi, bổ sung năm 2010 quy định cấm thực hiện hành vi này trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Khoản 1 Điều 26 Nghị định số 36/2007/NĐ-CP, Thông tư số 97/2007/TT-BTC đã quy định cụ thể về xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi gian lận, lừa đảo, tạo dựng thông tin sai sự thật hoặc bỏ sót thông tin cần thiết gây hiểu nhầm nghiêm trọng trong hoạt động giao dịch chứng khoán với mức xử phạt áp dụng từ 30.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng đối với cá nhân và 50.000.000 đồng đến 70.000.000 đồng đối với tổ chức đầu tư chứng khoán thực hiện hành vi vi phạm. Ngoài ra, còn quy định áp dụng hình phạt bổ sung là tịch thu toàn bộ khoản thu trái pháp luật của cá nhân, tổ chức đầu tư chứng khoán có hành vi vi phạm, biện pháp khắc phục hậu quả: buộc chấp hành đúng các quy định của pháp luật. Các cơ sở nền tảng pháp lý này đã tạo khung pháp lý để điều chỉnh và xử lý đối với các hành vi này. Qua thực tiễn thực thi các quy định của pháp luật cùng với sự thay đổi của thị trường chứng khoán, Nghị định số 145/2016/NĐ-CP ngày 01-11-2016 của Chính phủ đã thay thế cho những quy định trước đây và phù hợp với tình hình mới của thị trường. Khoản 3 Điều 29 Nghị định số 145/2016/NĐ-CP quy định mức xử phạt từ 1.200.000.000 đồng đến 1.400.000.000 đồng, ngoài ra còn áp dụng hình thức xử phạt bổ sung đình chỉ hoạt động kinh doanh, dịch vụ chứng khoán hoặc tước quyền sử dụng chứng chỉ hành nghề chứng khoán trong thời hạn từ 01 tháng đến 03 tháng và biện pháp khắc phục hậu quả buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp do hành vi vi phạm gây ra.

Xét về tính chất và mức độ vi phạm và sự ảnh hưởng của hành vi này đối với thị trường chứng khoán, Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 đã quy định “Tội sử dụng thông tin nội bộ để mua, bán chứng khoán" (Điều 210), tạo cơ sở pháp lý để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi này.

Mặt khác, thông qua việc điều tra và xử lý vụ án hình sự còn liên quan đến trách nhiệm dân sự của các chủ thể bị hại do hành vi bất hợp pháp gây ra. Hành vi giao dịch bất hợp pháp trên thị trường chứng khoán xâm hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư và các trách nhiệm của các chủ thể trung gian của thị trường chứng khoán.

4. Định hướng hoàn thiện về trách nhiệm pháp lý đối hành vi giao dịch bất hợp pháp trên thị trường chứng khoán tập trung ở Việt Nam

Một trong những mục tiêu hàng đầu của thị trường chứng khoán đó là duy trì một thị trường công bằng, hiệu quả, minh bạch và hoạt động ổn định. Luật Chứng khoán năm 2006, sửa đổi, bổ sung năm 2010 tại khoản 2 và khoản 3 Điều 4 đã xác định nguyên tắc hoạt động của chứng khoán và thị trường chứng khoán: “Công bằng, công khai, minh bạch; Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư”. Để đạt được mục tiêu trên cũng như việc xây dựng và hướng đến một thị trường chứng khoán phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, hình thành một hệ thống thị trường chứng khoán đồng bộ và thống nhất trong tổng thể thị trường tài chính của đất nước; Phát triển, mở rộng thị trường chứng khoán có tổ chức, thu hẹp thị trường tự do đồng thời đặc biệt coi trọng vấn đề chất lượng và sự an toàn của thị trường, từng bước tiếp cận với các thông lệ và chuẩn mực quốc tế. Phát triển thị trường chứng khoán theo hưởng gắn kết với việc cải cách, sắp xếp khu vực doanh nghiệp nhà nước, tạo động lực cho các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế cả về năng lực tài chính và quản trị doanh nghiệp: Nhà nước thực hiện quản lý bằng công cụ pháp luật, có các chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện để thị trường chứng khoán phát triển ổn định, vững chắc: Phát huy vai trò của các tổ chức tự quản, hiệp hội nhằm bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp và khuyến khích các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán được ghi nhận trong "Chiến lược phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam giai đoạn 2011-2020" với mục tiêu cụ thể là: Tăng quy mô, độ sâu và tính thanh khoản của thị trường chứng khoán: Phấn đấu đưa tổng giá trị vốn hóa thị trường cổ phiếu vào năm 2020 đạt khoảng 70% GDP; đua thị trường trái phiếu trở thành một kênh huy động và phân bổ vốn quan trọng cho phát triển kinh tế; Đa dạng hóa nhà đầu tư, phát triển hệ thống nhà đầu tư tổ chức, khuyến khích đầu tư nước ngoài dài hạn, đào tạo nhà đầu tư cá nhân. Thể chế hóa các chủ trương, chính sách của Đảng về cải cách hệ thống pháp luật, cải cách tư pháp và cải cách hành chính được xác định trong các nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, XII, Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24-5-2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, theo hướng: “Hình thành cơ chế pháp lý để Chính phủ thực hiện quyền yêu cầu xem xét, xử lý bằng thủ tục tư pháp đối với mọi vi phạm nghiêm trọng được phát hiện trong quá trình quản lý, tổ chức thi hành pháp luật", “tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tham gia tố tụng, bảo đảm sự bình đẳng của công dân và cơ quan công quyền trước tòa án . Đòi hỏi định hướng hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm pháp lý đảm bảo tính hiệu quả và khả thi quá trình xây dựng, áp dụng pháp luật về trách nhiệm pháp lý đối với hành vi giao dịch bất hợp pháp trên thị trường chứng khoán đó là:

Thứ nhất, hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm pháp lý đồi với hành vi giao dịch bất hợp pháp trên thị trường chứng khoán tập trung ở Việt Nam phải đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Với mục tiêu đã được đặt ra tại Nghị quyết số 49- NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020: “Hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự và dân sự phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân" đòi hỏi trong tiến trình xây dựng hoàn thiện pháp luật về thị trường chứng khoán nói chung và trách nhiệm pháp lý đối với hành vi giao dịch bất hợp pháp trên thị trường chứng khoán nói riêng phải bảo đảm sự ổn định phát triển của thị trường chứng khoán phần đấu tới năm 2020 đưa thị trường này trở thành kênh dẫn vốn trung và dài hạn chủ đạo của nền kinh tế, bảo vệ quyền lợi cho nhà đầu tư, bảo đảm sự công bằng, minh bạch của thị trường.

Khi tham gia thị trường chứng khoán thì lợi ích kinh tế là vấn đề quan tâm hàng đầu của các nhà đầu tư nhưng một đòi hỏi là những lợi ích thu được cũng như sự tham gia của nhà đầu tư vào thị trường phải bảo đảm tính công bằng, minh bạch và đáng tin cậy. Đây là vấn đề mấu chốt cho sự duy trì, tồn tại và phát triển của thị trường. Mặt khác, nhằm phát huy nguồn lực nói chung và nguồn lực về vốn nói riêng nhằm đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường là phải đảm bảo quyền tự do kinh doanh, tự do thỏa thuận giao kết hợp đồng, quyền chuyển nhượng tài sản... Trong hoạt động đầu tư kinh doanh nói chung, trên thị trường chứng khoán nói riêng, lợi ích kinh tế được các nhà đầu tư quan tâm hàng đầu có thể bất chấp các rào cản pháp lý, do vậy việc thiết lập trật tự pháp lý cho thị trường trong đó có xây dựng và hoàn thiện hệ thống trách nhiệm pháp lý đối với hành vi giao dịch bất hợp pháp trên thị trường chứng khoán là việc làm rất cần thiết.

Nền kinh tế thị trường có những đặc trưng cơ bản chỉ phôi đến việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về chứng khoán nói chung và trách nhiệm pháp lý đối với hành vi giao dịch bất hợp pháp trên thị trường chứng khoán Việt Nam nói riêng. Dưới đây là một số yếu tố cơ bản ảnh hưởng trực tiếp đến giao dịch chứng khoán trên thị trường chứng khoán mà việc xây dựng và hoàn thiện trách nhiệm pháp lý đối với hành vi giao dịch bất hợp pháp trên thị trường chứng khoán tập trung cần phải xem xét đến là:

- Nền kinh tế thị trường chịu sự chi phối của quy luật cung - cầu. Thị trường chứng khoán Việt Nam có thể thấy là một thị trường chứng khoán còn non trẻ, quy mô thị trường còn nhỏ, giá cả chưa ổn định, tương quan cung - cầu trên thị trường còn chênh lệch lớn, nếu quan hệ cung - câu mất cân đối gây nên sự biến động cho thị trường, thị trường chưa ổn định và vững chắc.

- Thị trường chứng khoán là một thị trường mở đòi hỏi ở đó tính công khai, minh bạch và công bằng. Tham gia giao dịch trên thị trường chứng khoán, thông tin là yếu tố quan trọng quyết định sự thành bại của nhà đầu tư, yếu tố bất cân xứng thông tin trên thị trường chứng khoán sẽ dẫn "giết chết” thị trường. Điều đó đòi hỏi phải bảo đảm thông tin phải được công khai, minh bạch và công bằng đối với các chủ thể tham gia trên thị trường. Tính công khai, minh bạch của thị trường chứng khoán thông qua công bố các thông tin về chủ thể tham gia trên thị trường chứng khoán, nội dung, chất lượng, thời hạn công bở ảnh hưởng rất lớn đến niềm tin, tỉnh ổn định và bền vững của thị trường. Thực tế trong thời gian qua, trên thị trường chứng khoán Việt Nam, việc tuân thủ nguyên tắc này chưa được đảm bảo đó là do tình trạng vi phạm về công bố thông tin tràn lan ngay cả chính những người lãnh đạo điều hành trong công ty đến các nhà môi giới thị trường. Để đáp ứng yêu cầu này, đòi hỏi phải phát huy hơn nữa hiệu quả của hoạt động thanh tra, giám sát trên thị trường chứng khoán, xây dựng và giảm sát thực thi hiệu quả những quy chuẩn về quản trị công ty, công khai thông tin đảm bảo cho hoạt động của thị trường được tuân thủ pháp luật, minh bạch, công bằng và bảo đảm quyền lợi của nhà đầu tư khi tham gia thị trường.

Do thị trường chứng khoán ở Việt Nam còn non trẻ, mặt khác hệ thống kế toán Việt Nam chưa hoàn toàn đồng bộ theo thông lệ quốc tế, kiểm toán độc lập chưa thật sự phát triển; người dân có thói quen tin vào thông tin đồn đoán, dựa vào phán đoán của người khác. Do vậy, việc hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm pháp lý đối với hành vi giao dịch bất hợp pháp phải tỉnh đến việc hoàn thiện pháp luật vẽ công bố thông tin bảo đảm trên nguyên tắc minh bạch, công khai, phù hợp với văn hoá kinh doanh ở Việt Nam.

- Nền kinh tế thị trường ở Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, do vậy chịu sự can thiệp của Nhà nước trong điều hành và quản lý thị trường nhưng trên cơ sở các quy luật của nền kinh tế thị trường. Điều đó đòi hỏi khi xây dựng hệ thống chính sách pháp luật liên quan đến trách nhiệm pháp lý đối với giao dịch bất hợp pháp trên thị trường chứng khoản cũng cân nhắc sự can thiệp này hay nói cách khác không phải phó mặc cho thị trường điều tiết mà dưới sự can thiệp của Nhà nước để bảo đảm cho sự vận hành và phát triển bền vững của thị trường. Tuy nhiên, sự can thiệp, điều tiết của Nhà nước phải tôn trọng các quy luật khách quan, bảo đảm sự dân chủ, công bằng, tạo điều kiện cho các chủ thể thực hiện được quyền tự do, tự chủ trong hoạt động kinh doanh theo quy định của pháp luật. Trong quản lý, điều tiết các hoạt động kinh tế, phải đảm bảo các hoạt động thị trường diễn ra theo nguyên tắc thị trường tức phù hợp với quy luật cung cầu, quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, hạn chế tối đa các mệnh lệnh hành chính không cần thiết. Nhà nước làm tốt các công tác kế hoạch hoá ở tầm vĩ mô và các hoạt động định hướng, có hệ thống chính sách, pháp luật phù hợp để điều tiết hướng dẫn thị trường theo các mục tiêu kinh tế vĩ mô đã chọn, tạo hành lang pháp lý cho các chủ thể tham gia thị trường một cách an toàn, ổn định. Kinh nghiệm các nước cho thấy, quản lý thị trường chứng khoán chủ yếu là tạo ra sự minh bạch, công khai thông tín và xử phạt nghiêm minh. Đồng thời, phải tuyên truyền, giáo dục cộng đồng những kiến thức tối thiểu về đầu tư chứng khoán. Cần hạn chế tối đa sự can thiệp hành chính. Do vậy, việc xây dựng và ban hành pháp luật về trách nhiệm pháp lý đối với giao dịch bất hợp pháp trên thị trường chứng khoán cần cân nhắc về trách nhiệm hình sự, trách nhiệm hành chính hay trách nhiệm dân sự, kinh tế thương mại cũng như việc hình sự hoá các quan hệ kinh tế, dân sự.

Trong thời gian qua, vai trò của Nhà nước trong quản lý thị trường chứng khoán nói chung và giám sát, thanh tra, xử phạt vi phạm đối với hành vi giao dịch bất hợp pháp trên thị trường chứng khoán nói riêng đã được thể hiện thông qua các văn bản pháp luật và triển khai thực hiện trên thực tế. Tuy nhiên, công tác quản lý nói chung và thực thi trách nhiệm pháp lý nói riêng trên thị trường chứng khoán còn nhiều hạn chế, bất cập đó là: chưa phân định rõ chức năng giám sát thị trường, hoạt động điều tra ban đầu của Ủy ban chứng khoán nhà nước không được phép. Mặc dù, hoạt động của Sở giao dịch chứng khoán hoạt động theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu nhưng chưa bảo đảm vị trí độc lập với tư cách là một tổ chức tự quản trên thị trường chứng khoán tập trung để thắt chặt cơ chế tham gia thị trường và thực thi chế tài đối với chủ thể vi phạm khi tham gia thị trường. Do vậy, cần phải hoàn thiện các quy định về quản lý nhà nước đối với thị trường chứng khoán tập trung để phù hợp yêu cầu của nền kinh tế thị trường, bảo đảm hỗ trợ cho việc áp dụng và thực thi trách nhiệm pháp lý đôi với hành vi giao dịch bất hợp pháp trên thị trường chứng khoán.

Nền kinh tế thị trường muốn hoạt động có hiệu quả, đòi hỏi phải xây dựng và phát triển đồng bộ hệ thống thể chế. Các thể chế này tồn tại trong mối quan hệ thống nhất với thị trường, mỗi thị trường là bộ phận hữu cơ của thị trường tài chính do vậy phải bảo đảm sự vận hành đồng bộ và thống nhất các thị trường: thị trường chứng khoán, thị trường tín dụng ngân hàng, thị trường bảo hiểm... tạo cơ sở pháp lý và mối quan hệ phối hợp trong việc kiểm soát, quản lý đối với hành vi giao dịch bất hợp pháp trên thị trường chứng khoán như hành vi rửa tiền, hành vi lũng đoạn thị trường...

Thứ hai, hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm pháp lý đối với hành vi giao dịch bất hợp pháp trên thị trường chứng khoán tập trung ở Việt Nam phù hợp với nhu cầu và quy mô phát triển của thị trường chứng khoán tập trung ở Việt Nam.

Việc xây dựng các biện pháp chế tài áp dụng phải bảo đảm phù hợp với thực tiễn của thị trường ở mỗi quốc gia để bảo đảm các quy định của pháp luật không làm “kìm hăm” sự phát triển của thị trường. Tuỳ thuộc từng giai đoạn phát triển của thị trường để quy định những hành vi nào là bất hợp pháp, mức độ xử lý phù hợp trong từng giai đoạn phát triển của thị trường để pháp luật mang tính thực thi. Việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế không phù hợp sẽ không mang lại hiệu quả có khi còn làm khuyến khích hành vi vi phạm. Mặt khác, nếu xây dụng chính sách pháp luật không gắn với sự phát triển của thị trường thì không bảo đảm hiệu lực của quy định pháp luật trên thực tế. Bên cạnh đó, còn tiên liệu sự biến động, thay đổi, phát triển của thị trường, dự báo những hành vi bất hợp pháp có thể xảy ra và biện pháp cưỡng chế phù hợp ảnh hưởng đến quyền lợi của nhà đầu tư nhưng không có hoặc chưa có cơ sở pháp lý ràng buộc.

Thứ ba, hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm pháp lý đối với hành vi giao dịch bất hợp pháp trên thị trường chứng khoán tập trung ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu hoàn thiện và cải cách hệ thống tư pháp ở Việt Nam.

Mục tiêu bảo đảm sự ổn định bền vững của nền kinh tế, cơ chế bảo đảm thực thi pháp luật cần có một hệ thống vận hành hữu hiệu và chuyên sâu phù hợp. Với những đặc thù của hành vi giao dịch bất hợp pháp trên thị trường chứng khoán tập trung đòi hỏi phải xây dựng, hoàn thiện và nâng cao vai trò hệ thống cơ quan điều tra theo hướng chuyên sâu, đồng thời bảo đảm tính nhanh chóng, kịp thời trong việc truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với hành vi giao dịch bất hợp pháp trên thị trường chứng khoán tập trung. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về trách nhiệm pháp lý đối với hành vi giao dịch bất hợp pháp trên thị trường chứng khoán tập trung gắn với việc cải cách mạnh mẽ các thủ tục tố tụng tư pháp theo hướng dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch, chặt chẽ và thi hành án kip thời, nghiêm minh; bảo đảm phát huy hiệu quả quyền tham gia và giám sát của nhà đầu tư đối với thị trường.

Thứ tư, hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm pháp lý đồi với hành vi giao dịch bất hợp pháp trên thị trường chứng khoản tập trung ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập nền kinh tế thế giới.

Toàn cầu hóa là một trong những xu thế phát triển tất yếu của quan hệ quốc tế hiện đại. Hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo cơ hội cho nước ta trong việc mở ra môi trường rộng lớn để Việt Nam phát triển. Tuy nhiên, hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh các quan hệ thị trường của nước ta vẫn còn chưa hoàn chỉnh, nhiều quy định còn chưa phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế. Thu hút đầu tư, huy động vốn hạn chế ngăn chặn các hành vi giao dịch bất hợp pháp trên thị trường chứng khoán tập trung, đòi hỏi Nhà nước phải tạo dựng được thể chế pháp lý thuận lợi, an toàn để các nhà đầu tư an tâm tin tưởng tham gia. Như vậy, yêu cầu về hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, pháp luật điều chỉnh về thị trường nói riêng, trong đó có xây dựng và áp dụng trách nhiệm pháp lý đối với hành vi giao dịch bất hợp pháp trên thị trường chứng khoán tập trung trở nên bức thiết và là một tất yếu khách quan, bảo đảm điều kiện pháp lý cho hội nhập kinh tế quốc tế.

Đăng ký nhận email

Đăng ký email để có thể có được những cập nhật mới nhất về tải liệu được đăng tải trên website

Tập san đã phát hành