1. Hoàn thiện cơ chế tài chính
Nhà nước thực hiện quản lý và sở hữu thông qua cơ chế tài chính để điều chỉnh hành vi pháp lý của doanh nghiệp nhà nước theo pháp luật và nhiệm vụ đặt ra. Cơ chế tài chính sẽ là nền tảng pháp lý quan trọng trong quan hệ giữa Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước. Vì vậy, hoàn thiện cơ chế tài chính phải bảo đảm chi phối toàn bộ việc thực hiện quyền sở hữu và các quan hệ tài chính giữa Nhà nước với doanh nghiệp nhà nước cũng như trong nội bộ doanh nghiệp.
Cơ chế tài chính quy định quy chế về phân phối lợi nhuận sau thuế và quản lý các quỹ của doanh nghiệp nhà nước, quy định quan hệ tài chính giữa các doanh nghiệp nhà nước thành viên, các giá trị và nguyên tắc xử lý về mặt tài chính khi chuyển đổi hình thức sở hữu, đa dạng hóa hình thức sở hữu hoặc khi giải thể. Hoàn thiện cơ chế tài chính đối với doanh nghiệp nhà nước vừa phải bảo đảm lợi ích của Nhà nước với tư cách là chủ sở hữu, vừa phải bảo đảm lợi ích của doanh nghiệp nhà nước và người lao động trong doanh nghiệp nhà nước. Với tư cách là chủ sở hữu, Nhà nước giữ quyền quyết định đầu tư mới và kèm theo đó là quyết định về mức vốn điều lệ, điều chỉnh vốn điều lệ đối với doanh nghiệp nhà nước. Đối với doanh nghiệp nhà nước không có nhu cầu vốn hoặc không cần thiết phải đầu tư thì Nhà nước sẽ thu hồi vốn đầu tư để đầu tư cho những doanh nghiệp có nhu cầu hoặc cần thiết phải đầu tư. Theo đó, Nhà nước sẽ thực hiện được chức năng chủ sở hữu của mình trong điều phối vốn, bảo đảm thực hiện mục tiêu chung của chủ sở hữu nhà nước.
Nhà nước chỉ hỗ trợ cho doanh nghiệp nhà nước bằng các biện pháp tài chính của một nhà đầu tư; để lại một phần lợi nhuận sau thuế sau khi đã trích vào các quỹ khen thưởng, phúc lợi, đầu tư thêm để mở rộng kinh doanh. Thành lập quỹ của ngân sách nhà nước tập trung các khoản nêu trên để dễ dàng kiểm soát, đánh giá cũng như thực hiện đầu tư.
Xây dựng các tiêu chuẩn và kỹ thuật thuộc bí mật kinh doanh, được thông tin khi yêu cầu hoặc buộc phải niêm yết. Mở rộng việc công khai hóa, dân chủ hóa các hoạt động kinh tế, tài chính như: ký kết hợp đồng, chi phí môi giới, hoa hồng đại lý, tiếp khách.
Mở rộng quyền quyết định của doanh nghiệp nhà nước đôi với các mức kinh tế - kỹ thuật, định mức lao động, định mức chi phí, lương, thưởng... mà không phải xin phép, chờ phê duyệt hay bị khống chế bởi các quy định của Nhà nước. Từng bước xóa bỏ các định mức, lao động tiền lương có tính bắt buộc mà chỉ ban hành các quy định có tính hướng dẫn, khuyến khích tạo điều kiện cho quyền tự chủ của doanh nghiệp.
Nhà nước cần xây dựng và ban hành cơ chế kiểm soát chỉ phí nhằm phòng, chống việc lợi dụng lợi thế độc quyền để tạo nên những đặc quyền, đặc lợi của doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực có lợi thế kinh doanh hoặc độc quyền. Trong cơ chế kiểm soát, các định mức chi phí phải công khai và rõ ràng, làm căn cứ để kiểm soát chi phí và giá cả của doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực này.
Nhà nước phải thực thi triệt để quyền quyết định việc sử dụng khoản lợi nhuận sau thuế. Cơ chế phân phối lợi nhuận phải ưu tiên bảo toàn vốn và hoàn thiện công nghệ cho doanh nghiệp nhà nước. Trong đó, doanh nghiệp nhà nước cũng cần thực hiện có hiệu quả việc trích lập các quỹ từ lợi nhuận sau thuế để bảo đảm các công ty con hoạt động hiệu quả. Cần triệt để thực hiện Nghị định số 91/2015/NĐ-CP ngày 13/10/2015 của Chính phủ về đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp và quản lý, sử dụng vốn, tài sản tại doanh nghiệp; Thông tư số 36/2021/TT-BTC ngày 26/5/2021 của Bộ trưởng Bộ Tài chính hướng dẫn một số nội dung về đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp và quản lý, sử dụng vốn, tài sản tại doanh nghiệp. Cụ thể, Điều 7 Thông tư số 36/2021/TT-BTC ngày 26/5/2021 nêu rõ: “1. Lợi nhuận của doanh nghiệp được xác định theo quy định của pháp luật về kế toán sau khi bù đắp lỗ năm trước theo quy định của pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp, trích Quỹ phát triển khoa học và công nghệ, nộp thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định của pháp luật, phần lợi nhuận còn lại được phân phối theo quy định tại các khoản 1, 2, 3 Điều 31 Nghị định số 91/2015/NĐ-CP và Điều 2 Nghị định số 32/2018/ND-CP”.
2. Căn cứ để trích lập quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi, quỹ thường người quản lý doanh nghiệp, kiểm soát viên xác định như sau:
a) Về xếp loại doanh nghiệp A, B, C làm căn cứ trích lập các quỹ thực hiện theo quy định của Chính phủ về giám sát đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp; giám sát tài chính đánh giá hiệu quả hoạt động và công khai thông tin tài chính của doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ và doanh nghiệp có vốn nhà nước và Thông tư hướng dẫn của Bộ Tài chính.
b) Về tiền lương tháng thực hiện làm căn cứ trích lập các quỹ:
Đối với trích quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi: căn cứ quỹ tiền lương thực hiện trong năm tài chính của người lao động của doanh nghiệp đã được phê duyệt và được xác định theo quy định tại Nghị định số 51/2016/NĐ-CP ngày 13 tháng 6 năm 2016 của Chính phủ quy định quản lý lao động, tiền lương và tiền thưởng đối với người lao động làm việc trong công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ và các văn bản sửa đổi, bổ sung, thay thế (nếu có) chia (:) cho 12 tháng. Trường hợp, doanh nghiệp thực hiện cơ chế tiền lương, tiền thưởng theo quy định đặc thù thì thực hiện theo quy định riêng của Chính phủ về đặc thù đó.
Đối với trích quỹ thưởng người quản lý doanh nghiệp, kiểm soát viên: căn cứ quỹ tiền lương, thù lao thực hiện trong năm tài chính của người quản lý doanh nghiệp (chuyên trách và không chuyên trách) đã được chủ sở hữu phê duyệt và được xác định theo quy định của Nghị định số 52/2016/NĐ-CP ngày 13 tháng 6 năm 2016 của Chính phủ quy định tiền lương, thù lao, tiền thưởng đối với người quản lý công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ và các văn bản sửa đổi, bổ sung, thay thế (nếu có), chia (:) cho 12 tháng. Trường hợp doanh nghiệp thực hiện cơ chế tiền lương, tiền thưởng theo quy định đặc thù thì thực hiện theo quy định riêng của Chính phủ về đặc thù đó”.
Như vậy, việc phân phối lợi nhuận hợp lý từ đó sẽ khuyến khích doanh nghiệp nhà nước đi đầu trong các lĩnh vực đòi hỏi trình độ chuyên môn, kỹ thuật và hàm lượng chất xám cao. Quy định việc để lại tỷ lệ cố định lợi nhuận sau thuế theo lũy tiến tăng dẫn để trích lập quỹ khen thưởng, phúc lợi, nhằm khuyến khích doanh nghiệp hoạt động hiệu quả, động viên người lao động gia tăng năng suất lao động và hiệu quả làm việc, khuyến khích người quản lý doanh nghiệp năng động, tích cực.
Việc khen thưởng và bảo đảm phúc lợi cho người lao động trong doanh nghiệp cần được coi như một biện pháp để khuyến khích, động viên người lao động như trong các doanh nghiệp khác, tránh tạo thành những đặc quyền riêng biệt. Hệ thống quỹ của doanh nghiệp nhà nước cũng phải giống như các doanh nghiệp khác. Các chi phí liên quan đến tổ chức hoạt động kinh doanh như: tổn thất tài sản, chỉ trợ cấp cho người mất việc làm tạm thời, chi phí đào tạo lại ngành nghề cho người lao động... phải được hạch toán vào chi phí hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
Bảo đảm sự hài hòa giữa lợi ích của các chủ thể đúng với tư cách pháp lý của chúng: Nhà nước là nhà đầu tư, chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước, còn doanh nghiệp nhà nước là chủ thể tự chủ kinh doanh với mục đích lợi nhuận, người lao động làm việc để hưởng thu nhập từ việc bán sức lao động. Quan hệ này sẽ do thị trường điều tiết, không có sự can thiệp của Nhà nước.
Xóa bỏ cơ chế “xin - cho” trong đầu tư và quan hệ tài chính giữa Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước. Nhà nước chỉ đầu tư vào doanh nghiệp nhà nước khi các thành phần kinh tế khác không làm được và phải thực hiện theo quy hoạch, kế hoạch tổng thể đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Việc đầu tư không theo phương thức cấp phát từ quyết định hành chính mà chuyển sang hình thức quỹ đầu tư hoặc đầu tư kinh doanh vốn của Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước (SCIC), các thiết chế tài chính công này chịu trách nhiệm đầu tư vào các doanh nghiệp nhà nước, bảo toàn vốn, điều phối theo kiểu các công ty đầu tư tài chính trên thế giới. Xây dựng các cơ quan chuyên nghiệp đánh giá doanh nghiệp nhà nước, tài sảntrong doanh nghiệp nhà nước theo thông lệ quốc tế, bảo đảm thị trường là thước đo cuối cùng giá trị tài sản.
Quy định khung pháp lý cho các doanh nghiệp nhà nước được huy động thêm vốn từ nhiều nguồn, kể cả việc phát hành chứng khoán ra công chúng. Doanh nghiệp nhà nước tự chịu trách nhiệm về hiệu quả sử dụng và trả nợ vốn vay. Ngân hàng cho doanh nghiệp vay vốn đầu tư chủ yếu căn cứ vào hiệu quả dự án và uy tín thương mại. Nghiêm cấm các cơ quan hành chính nhà nước bảo lãnh tín dụng và các khoản vay của doanh nghiệp nhà nước. Mở rộng và đa dạng hóa hơn nữa các hình thức mua bán nợ, thuê mua tài chính, đi đôi với việc nhanh chóng tạo lập hành lang pháp lý cho hoạt động này tồn tại và phát triển ổn định. Hoàn thiện chế độ phân phối, ưu tiên dành lợi nhuận trả nợ vốn vay và tái đầu tư, gắn lợi ích vật chất với hiệu quả kinh doanh.
Bên cạnh đó, cần có những chính sách pháp lý tiếp tục phân cấp thực hiện các quyền sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước. Chính phủ là chủ sở hữu của doanh nghiệp nhà nước, song không được trực tiếp quản lý vốn mà phải thông qua các bộ, ngành. Việc xác lập quyền sở hữu vốn của Nhà nước tại doanh nghiệp phải được quy định cụ thể, bảo đảm phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp nhà nước, nhưng Chính phủ phải là chủ thể chịu trách nhiệm cao nhất và báo cáo hàng năm trước Quốc hội. Đây là vấn đề liên quan trực tiếp đến việc bảo toàn và phát triển vốn Nhà nước, đồng thời bảo đảm tạo mọi điều kiện cần thiết cho doanh nghiệp hoàn toàn tự chủ, tự chịu trách nhiệm mọi hoạt động kinh doanh của mình.
Trách nhiệm bảo toàn vốn chỉ giao cho một đơn vị, cá nhân để xác định rõ trách nhiệm. Đối với những doanh nghiệp nhà nước có Hội đồng quản trị thì Hội đồng quản trị là tổ chức đại diện cho chủ sở hữu nhà nước, Chủ tịch Hội đồng quản trị có trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn Nhà nước. Đối với các doanh nghiệp không có Hội đồng quản trị thì giao cho Giám đốc thực hiện, từng bước đa dạng hóa sở hữu để hoạt động theo Luật Doanh nghiệp. Các doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hóa và công ty hóa hoạt động theo Luật Doanh nghiệp khi Luật này sửa đổi, bổ sung các doanh nghiệp vẫn hoạt động theo Luật Doanh nghiệp thì giao cho người đại diện phần vốn của Nhà nước. Cơ quan kiểm tra, giám sát phải liên đới trách nhiệm đối với người đại diện trong việc thực hiện quyền sở hữu, có trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn. Hoàn chỉnh khái niệm cũng như xây dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá “bảo toàn và phát triển vốn” trong từng ngành, lĩnh vực và địa phương. Nghiêm cấm các cơ quan hành chính, cán bộ, công chức, viên chức ấn định, áp đặt, gợi ý doanh nghiệp nhà nước cung cấp hay sử dụng các nguồn lực với bất kỳ hình thức nào. Quy định và thực hiện chế tài nghiêm khắc đối với các tổ chức, cá nhân vi phạm, coi đây là hành vi tham nhũng, vi phạm đạo đức cán bộ, công chức, viên chức. Hiện nay, vẫn còn tình trạng một số doanh nghiệp nhà nước chưa định hình rõ cơ chế quản lý, bị ràng buộc bởi nhiều mục tiêu hoạt động theo cơ chế mang nặng tính chất bao cấp xin - cho, thiếu khuyến khích cạnh tranh, đồng thời được hưởng ưu đãi của Nhà nước, do đó dẫn đến tâm lý ỷ lại, hoạt động kém hiệu quả. Các giải pháp về cơ chế quản lý được ấp đựng song hành với các giải pháp tổ chức sắp xếp doanh nghiệp nhà nước, nhằm giúp chủ thể này hoàn toàn hoạt động theo nguyên tắc hạch toán, cạnh tranh bình đẳng với các loại hình doanh nghiệp khác mà vẫn bảo đảm vị trí, vai trò của mình. Rõ ràng đây là một bài toán khó, đòi hỏi phải vừa làm vừa điều chỉnh, đồng thời tích cực học hỏi kinh nghiệm quản lý của các nước khác.
2. Xóa bỏ chế độ trợ cấp, ưu đãi đối với doanh nghiệp nhà nước
Nhà nước cần thực hiện chế độ ngân sách cứng với doanh nghiệp nhà nước, tiến đến xóa bỏ mọi khoản trợ cấp hay bù lỗ từ ngân sách một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Triệt để xóa bỏ mọi hình thức bao cấp, hỗ trợ trực tiếp hoặc gián tiếp của Nhà nước, bảo đảm phù hợp với cam kết của Việt Nam sau khi gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) và các Hiệp định Thương mại tự do thế hệ mới.
Phân định rõ mục tiêu lợi nhuận với mục tiêu phi thương mại của doanh nghiệp nhà nước. Xây dựng hệ thống đánh giá mức độ thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội bằng cách lượng hóa các chỉ tiêu để quy đổi về mặt giá trị. Đối với một doanh nghiệp nhà nước vừa phải đảm nhiệm mục tiêu phi thương mại, vừa phải đạt các mục tiêu thương mại, thì cần thiết phải chia tách doanh nghiệp đó thành hai bộ phận hạch toán độc lập hoặc thành hai doanh nghiệp riêng rẽ. Đền bù và thanh toán ngang bằng cho doanh nghiệp nhà nước khi chủ thể này thực hiện chính sách kinh tế - xã hội của Nhà nước. Nghiên cứu cơ chế thúc đẩy doanh nghiệp nhà nước, mạnh dạn đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh, theo kịp tốc độ phát triển, ứng dụng khoa học - công nghệ trên nguyên tắc hiệu quả; thay đổi mô hình kinh doanh của nền kinh tế toàn cầu, xu thế phát triển trên thế giới, trong đó nghiên cứu thêm hình thức lựa chọn tổ chức, cá nhân thực hiện quản lý, vận hành doanh nghiệp nhà nước hoặc một phần tài sản, dự án của doanh nghiệp nhà nước (hoạt động trong một số ngành, lĩnh vực) trong một khoảng thời gian nhất định (có thể từ 5 năm đến 10 năm) nhằm tạo nguồn lực phục vụ mục đích đầu tư phát triển hoặc an sinh xã hội. Nghiên cứu, rà soát tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong việc giao tài sản công để khai thác hiệu quả, đặc biệt trong một số lĩnh vực đặc thù (như hạ tầng đường sắt, hạ tầng hàng không)[1].
3. Về khoản nợ của doanh nghiệp nhà nước
Doanh nghiệp nhà nước không thể tự chủ kinh doanh khi mang những khoản nợ không minh bạch. Do đó, phải xác lập cơ chế truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với người quản lý doanh nghiệp nhà nước về công nợ của doanh nghiệp do hành vi vi phạm pháp luật tạo ra. Đối với các khoản nợ khác, Hội đồng quản trị hoặc Giám đốc phải chịu trách nhiệm trước Nhà nước một cách thường xuyên.
Pháp luật cần cho phép các khoản nợ đã quá hạn từ 5 năm hạch toán vào kết quả kinh doanh của doanh nghiệp (các khoản lỗ), song doanh nghiệp vẫn phải theo dõi và đòi nợ, khi đòi được nợ thì hạch toán vào phần lãi. Nhà nước không dùng ngân sách để bù lỗ, miễn thuế, xóa nợ, khoanh nợ cho doanh nghiệp nhà nước. Kiên quyết cho giải thể, phá sản những doanh nghiệp nhà nước có năng lực tài chính yếu kém. Yêu cầu doanh nghiệp nhà nước phải chủ động giải quyết quan hệ hợp đồng, các khoản nợ và nghĩa vụ tài chính thông qua các cơ quan tài phán thương mại, nhằm giải quyết dứt điểm tình trạng công nợ. Mạnh dạn giao việc thẩm định dự án đầu tư cho các cơ quan tài chính chuyên nghiệp, nhất là đối với các tổ chức nước ngoài và quốc tế có uy tín. Hoàn thiện tổ chức và hoạt động của các công ty mua bán nợ và tổ chức tài chính trung gian để mua bán các khoản nợ hay cho vay, từ đó từng bước phục hồi tình hình tài chính của doanh nghiệp nhà nước dưới sự tác động của các yếu tố thị trường.
Trường hợp doanh nghiệp nhà nước bị thua lỗ kéo dài do phải thực hiện chính sách của Nhà nước thì được xem xét bù lỗ, xóa nợ, song phải có quy chế chặt chẽ, tránh gây thất thoát ngân sách nhà nước, khắc phục hiện tượng doanh nghiệp nhà nước kinh doanh một số loại hàng hóa (xăng dầu, phân bón nhập khẩu...) có giá cao hơn giá thị trường quốc tế.
Nghiên cứu, xây dựng cơ chế giám sát của cơ quan đại diện chủ sở hữu đối với các tập đoàn, tổng công ty theo hướng khuyến khích thuê công ty kiểm toán có đủ năng lực, kinh nghiệm, uy tín thực hiện giám sát, kịp thời đưa ra cơ chế cảnh báo song song với vai trò quản lý nhà nước của bộ, quan đại diện chủ sở hữu. Đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong quản lý thông tin về doanh nghiệp nhà nước trên nguyên tắc do lường được, khách quan, kịp thời, minh bạch nhằm phát hiện sớm các sai phạm, cảnh báo các nguy cơ làm doanh nghiệp nhà nước bị thua lỗ, mất vốn nhà nước. Xây dựng và phát triển hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia đồng bộ về doanh nghiệp nhà nước để đánh giá, theo dõi và giám sát[2].
4. Thương mại hóa và xã hội hóa đối với sản xuất, cung cấp hàng hóa dịch vụ công ích
Cùng với xu hướng phát triển chung của kinh tế thị trường và quản lý nhà nước, Nhà nước đã xóa bỏ loại hình doanh nghiệp công ích, chuyển sang cơ chế đặt hàng theo nhiệm vụ công ích dựa trên nguyên tắc đấu thầu của thị trường. Đây là cơ chế chung, áp dụng bình đẳng cho tất cả các loại hình doanh nghiệp tham gia hoạt động công ích, bao gồm các vấn đề: quy chế đấu thầu; quy chế xây dựng giá; quy chế ứng vốn, thanh toán; quy chế ưu đãi tín dụng cho việc thực hiện sản phẩm, dịch vụ công ích.
Nhà nước cần xác định rõ và cụ thể hơn danh mục các hoạt động công ích, đồng thời phải kiên quyết xóa bỏ cơ chế bao cấp đối với doanh nghiệp công ích, chuyển mạnh sang cơ chế quản lý theo hoạt động công ích thông qua đấu thầu, không phân biệt loại hình doanh nghiệp theo giá đặt hàng của Nhà nước. Để thực hiện định hướng này, trước hết phải chuyển sang cơ chế kinh doanh bình thường đối với những mặt hàng, dịch vụ thông dụng như sản xuất quân trang, quân dụng; ban hành chính sách ưu đãi, không phân biệt ... Loại hình doanh nghiệp về các mặt vay vốn, thuê đất, thuế; thực hiện xã hội hóa hoạt động công ích, chuyển đổi các doanh nghiệp tham gia hoạt động công ích. Cụ thể và chỉ tiết hóa các tiêu chí hoạt động công ích và sắp xếp lại các doanh nghiệp tham gia hoạt động công ích.
Thực hiện tách chức năng đại diện chủ sở hữu với chức năng quản lý doanh nghiệp. Trong đó, Nhà nước quản lý theo mục tiêu (giao mục tiêu cho doanh nghiệp); doanh nghiệp nhà nước được chủ động, tự quyết trong điều hành sản xuất kinh doanh, nắm bắt các cơ hội của thị trường, giảm bớt việc can thiệp trực tiếp của cơ quan đại diện chủ sở hữu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước như hiện nay.
Xây dựng cơ chế giám sát hiệu quả hơn theo các phương thức: Lựa chọn thuê công ty kiểm toán lớn, uy tín thực hiện giám sát, kịp thời đưa ra cơ chế cảnh báo song song với vai trò quản lý nhà nước của bộ, ngành, cơ quan đại diện chủ sở hữu; Đánh giá hiệu quả hoạt động/đầu tư theo chỉ tiêu tài chính tổng thể, không đi theo từng dự án/hoạt động cụ thể; Nâng cao trách nhiệm giải trình của người đứng đầu doanh nghiệp nhà nước trước cơ quan đại diện chủ sở hữu; Đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong quản lý thông tin về doanh nghiệp nhà nước trên nguyên tắc đo lường được, khách quan, kịp thời và minh bạch. Nghiên cứu cơ chế, chính sách tiền lương gắn với năng suất lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và cho phép đoanh nghiệp tự quyết định. Đổi mới công tác quản lý cán bộ, đặc biệt là cán bộ cấp cao để tuyển dụng hoặc thuê cán bộ chất lượng cao, có thể xem xét thí điểm sử dụng giám đốc điều hành người nước ngoài tại một số tập đoàn kinh tế, tổng công ty; thực hiện cử thành viên Hội đồng thành viên độc lập (các chuyên gia có trình độ, năng lực về tài chính, quản trị...) tham gia quản lý, điều hành.
Nghiên cứu chuyển mục đích sử dụng Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ của doanh nghiệp phục vụ đầu tư, tài trợ cho các vườn ươm trong lĩnh vực liên quan đến khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo; đặt hàng các sản phẩm đổi mới sáng tạo; đầu tư cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo; phát triển công nghiệp quốc phòng theo hướng hiện đại. Cho phép được giữ lại một phần tiền thu từ cổ phần hóa, thoái vốn để tái đầu tư các dự án đầu tư quan trọng, hiệu quả[3].
5. Hoàn thiện cơ chế cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước
Quan hệ pháp lý giữa Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước vận động trên thực tiễn đáp ứng yêu cầu, mục đích của Nhà nước trong việc tăng cường quyền tự chủ của doanh nghiệp nhà nước, công cụ điều tiết phụ thuộc phần lớn vào người quản lý trong doanh nghiệp nhà nước. Người quản lý không đáp ứng yêu cầu là nguyên nhân quan trọng khiến quan hệ pháp lý giữa Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước trở nên trì trệ, đồng thời giảm hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
Trong điều kiện thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, đặt trong môi trường cạnh tranh bình đẳng trong nước và quốc tế, vẫn để cán bộ lãnh đạo ngày càng trở nên quân trọng. Việc hoàn thiện công tác cán bộ đối với doanh nghiệp nhà nước là một trong những yếu tố quan trọng tác động đến quan hệ pháp lý giữa Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước, đồng thời góp phần lành mạnh hóa quan hệ giữa Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước.
Vì vậy, tiêu chuẩn cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước cần được quy định như sau: Cán bộ quản lý doanh nghiệp phải là những người có chuyên môn giỏi trong lĩnh vực mà doanh nghiệp nhà nước hoạt động để có khả năng nhận thức và lập ra chiến lược phát triển của ngành hàng, thị trường, có ý tưởng chiến lược và có khả năng triển khai thực hiện các ý tưởng đó. Đồng thời, họ phải là các nhà quản trị kinh doanh giỏi, nhạy bén trong nắm bắt cơ hội, có biện pháp gia tăng lợi nhuận, nâng cao thương hiệu và vị thế của doanh nghiệp; trung thành với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, đặt lợi ích chung lên trên lợi ích cá nhân; có đạo đức và tác phong chuẩn mực. Hiện nay, số lượng các doanh nghiệp nhà nước khá nhiều, do đó phải có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng và cơ chế thi tuyển, khuyến khích thuê người quản lý.
Những yêu cầu chung trên đây cần phải được cụ thể hóa đối với mỗi ngành nghề, thậm chí từng doanh nghiệp. Để có đội ngũ cán bộ lãnh đạo có đủ tài năng, đáp ứng được yêu cầu quản lý doanh nghiệp nhà nước, Nhà nước phải chú trọng ngay từ khâu quy hoạch, tạo nguồn cán bộ quản lý, quản trị doanh nghiệp nhà nước phù hợp với thể chế chính trị, cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế, đào tạo và sử dụng cán bộ quản lý theo hướng cầu thị, coi đây là một nguồn nhân lực quan trọng hàng đầu của quốc gia.
Thực hiện hiệu quả chủ trương của Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 03/6/2017 về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước: “Thực hiện việc tách người quản lý doanh nghiệp nhà nước khỏi chế độ viên chức, công chức. Triển khai rộng rãi cơ chế tuyển dụng, bổ nhiệm qua thi tuyển cạnh tranh, công khai, minh bạch đối với tất cả các chức danh quản lý, điều hành và các vị trí công việc khác trong doanh nghiệp”[4]. Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp nhà nước theo định hướng của Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 tại Hội nghị Trung ương 7 khóa XII về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tâm nhiệm vụ: “Quy định khung cơ chế, chính sách ưu đãi để phát hiện, thu hút, trọng dụng nhân tài có trọng tâm, trọng điểm, nhất là các ngành, lĩnh vực mũi nhọn phục vụ cho phát triển nhanh, bền vững. Xây dựng Chiến lược quốc gia về thu hút và trọng dụng nhân tài theo hướng không phân biệt đảng viên hay người ngoài Đảng, người nước Việt Nam ở trong nước hay nước ngoài”.[5]
Thực hiện mục tiêu Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2021-2030): “Hình thành đội ngũ quản lý doanh nghiệp nhà nước chuyên nghiệp, có trình độ cao, phẩm chất đạo đức tốt. Củng cố, phát triển một số tập đoàn kinh tế nhà nước có quy mô lớn, thực hiện quyền tự chủ, nâng cao hiệu quả hoạt động, có năng lực cạnh tranh khu vực và quốc tế trong một số ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế. Đối mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức kinh tế tập thể, hợp tác xã gắn với phát huy vai trò làm chủ, tăng cường lợi ích của các thành viên, nâng cao khả năng huy động nguồn lực”[6].
6. Hoàn thiện cơ chế sử dụng cán bộ
Áp dụng rộng rãi cơ chế thuê và tuyển chọn giám đốc theo tiêu chuẩn. Việc tuyển chọn phải dựa trên nguyên tắc công khai, minh bạch, thi tuyển từ các nguồn khác nhau của xã hội. Khi đã thực hiện cơ chế thi tuyển hoặc tuyển chọn công khai, những vấn đề về quản lý sẽ được giải quyết. Trước hết, Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện chế độ pháp lý về việc thuê và tuyển chọn giám đốc doanh nghiệp nhà nước. Tuyển chọn và sử dụng cán bộ phải theo cơ chế cạnh tranh mở từ nhiều nguồn khác nhau. Đẩy mạnh cơ chế giám sát việc thí tuyển, bổ nhiệm để loại trừ việc thiên vị, dung túng người nhà, người quen của những người chịu trách nhiệm xét tuyển, bổ nhiệm.
Thực tế cho thấy, cơ chế trả lương cho cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp nhà nước hiện nay vẫn còn cứng nhắc và chưa phù hợp với các quy luật kinh tế. Do đó, nhiều cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp nhà nước có năng lực có xu hướng chuyển sang làm việc cho các khu vực khác. Để giải quyết vấn đề này, nhiều quốc gia đã tách chế độ lương của cán bộ lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp nhà nước ra khỏi bảng lương công chức, viên chức dưới các hình thức hợp đồng khoán trách nhiệm quản lý. Theo đó, mức lương, thưởng của cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp nhà nước gắn với hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Ngoài ra, cần chuẩn hóa và công khai trách nhiệm, lợi ích của cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp nhà nước theo các hợp đồng trách nhiệm (hoặc khoán quản lý), nhằm xác định rõ các cam kết trách nhiệm giữa cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp nhà nước và cơ quan nhà nước, thậm chí cần xác định rõ chế tài thực thi các cam kết cả về phía cơ quan nhà nước và cán bộ quản lý doanh nghiệp. Đã có nhiều quốc gia trên thế giới thực thi cơ chế hợp đồng trách nhiệm này. Để cơ chế hợp đồng đạt hiệu quả, cần bổ sung cơ chế giám sát thông qua cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhằm hạn chế tình trạng lạm dụng, mất khả năng kiểm soát.
Phân công lại quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan “chủ quản” của người quản lý doanh nghiệp. Hiện nay, việc đánh giá, bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp do các cơ quan nhà nước và tổ chức đảng quyết định, song những người trực tiếp thực thì cơ chế này hầu như không có lợi ích trực tiếp từ doanh nghiệp nhà nước. Hơn nữa, việc kiểm soát hoạt động đổi với các cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp nhà nước do nhiều cơ quan tiến hành với các quy định rất khác nhau: kiểm toán nhà nước, thanh tra... Có thể nghiên cứu bổ sung cơ chế thanh tra chuyên ngành đối với hoạt động này; tăng mức độ xử phạt đối với các trường hợp chạy chức, chạy quyền, loại bỏ, trù dập những người phù hợp hơn, giỏi hơn[7],
Thực hiện nghiêm chế độ tuyển chọn, bổ nhiệm, gắn quyền lợi và nghĩa vụ của giám đốc doanh nghiệp với kết quả hoạt động kinh doanh. Đối với doanh nghiệp nhà nước không có Hội đồng quản trị thì chủ đầu tư lựa chọn và ký hợp đồng - với giám đốc với sự chấp thuận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Bảo đảm kết hợp chặt chẽ lợi ích với trách nhiệm, đãi ngộ xứng đáng về vật chất và tinh thần đối với những nhà quản lý doanh nghiệp giỏi, đồng thời xử lý nghiêm minh những người không hoàn thành nhiệm vụ hoặc có hành vi tham ô, xâm phạm tài sản công. Nỗ lực quy trình hóa hoạt động của bộ máy quản trị doanh nghiệp nhà nước để áp dụng các mô hình quản trị hiện đại gắn với công nghệ số. Đánh giá hiệu quả quản trị của người đứng đầu doanh nghiệp nhà nước để có sự đánh giá công tâm nhất, sàng lọc cán bộ giỏi, kém để khen thưởng và phát triển, bồi dưỡng nhân tài để việc tuyển chọn, bố trí, bổ nhiệm trong doanh nghiệp nhà nước đáp ứng được yêu cầu. Có cơ chế điều tra lương, điều chỉnh lương trong mối tương quan giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân để bảo đảm người quản lý doanh nghiệp nhà nước được đãi ngộ ở mức phù hợp, tương xứng với năng lực[8]. Nghiên cứu áp dụng mô hình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước theo mô hình 70-20-10 trong đó 70% kiến thức dự án, gắn với công việc hiện tại; 20% là tự học, tự nghiên cứu, thảo luận, phản hồi ý kiến với đồng nghiệp; 10% là các khóa học từ xa, trực tuyến và trực tiếp.
[1] Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 12/5/2022.
[2] Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 12/5/2022.
[3] Theo Báo cáo số 1840/BKHĐT-PTDN ngày 23/3/2022 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư gửi Văn phòng Chính phủ phục vụ Hội nghị của Thủ tướng Chính phủ với doanh nghiệp nhà nước.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VII
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2018
[6] . Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII
[7] . Xem Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Nâng cao chất lượng cán bộ quản lý, quản trị doanh nghiệp nhà nước phù hợp thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế trong tình hình mới" do Ban Kinh tế Trung ương, Hội đồng Lý luận Trung ương, Đảng ủy Khối doanh nghiệp Trung ương phối hợp tổ chức, tháng 10/2022, tr.25
[8] Xem Kỷ yếu Hội thảo khoa học "Nâng cao chất lượng cán bộ quản lý, quản trị doanh nghiệp nhà nước phù hợp thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế trong tình hình mới” do Ban Kinh tế Trung ương, Hội đồng Lý luận Trung ương, Đảng ủy Khối doanh nghiệp Trung ương phối hợp tổ chức, tháng 10/2022, tr.27