Thứ hai, 19 Tháng 8 2024 09:38

Một số vấn đề chung về phương thức, trình tự thủ tục thực hiện dân chủ trực tiếp

Xem xét từ góc độ pháp lý, có thể thấy rằng nội dung pháp luật về dân chủ trực tiếp bao gồm việc quy định các phương thức thực hiện dân chủ trực tiếp và trình tự, thủ tục thực hiện các phương thức dân chủ trực tiếp đó.

1. Các phương thức thực hiện dân chủ trực tiếp

Hiện nay, trên thế giới, đa số các quốc gia áp dụng các phương thức thực hiện dân chủ trực tiếp, cụ thể đó là: Trưng cầu ý dân (referendums); Sáng kiến của công dân (Citizens initiatives); Sáng kiến chương trình nghị sự (Agenda initiatives); và Bãi miễn (Recall)[1]. Mặc dù tên gọi và thủ tục thực hiện các hình thức dân chủ trực tiếp này ít nhiều khác nhau ở các quốc gia, song có thể khái quát những dấu hiệu phổ biến của mỗi dạng như sau:

Đối với, trưng cầu ý dân: là việc các cử tri bỏ phiếu trực tiếp quyết định các vấn đề chính trị, xã hội, pháp lý quan trọng của đất nước hay địa phương, hoặc việc xây dựng, thông qua Hiến pháp mới hay Hiến pháp sửa đổi, bổ sung. Các vấn đề được đem ra trưng cầu ý dân có thể được quy định cụ thể trong Hiến pháp, hoặc do cơ quan lập pháp hay một số lượng luật định thành viên của cơ quan lập pháp hoặc cử tri yêu cầu. Tùy theo quy định trong Hiến pháp hoặc một đạo luật liên quan của các quốc gia, kết quả trưng cầu ý dân có thể ràng buộc về mặt pháp lý hoặc chỉ có ý nghĩa tham vấn với cơ quan lập pháp.

Như vậy, xem xét tổng quát, trưng cầu ý dân có một số đặc điểm cơ bản như sau:

Thứ nhất, trưng cầu dân ý có bản chất một hình thức dân chủ trực tiếp, thông qua hình thức này, nhân dân trực tiếp tham gia vào quá trình quyết định một số công việc của Nhà nước theo một trình tự, thủ tục pháp lý nhất định.

Thứ hai, trưng cầu ý dân luôn có hai loại chủ thể cơ bản, cụ thể là Nhà nước và Nhân dân. Nhà nước ở đây đại diện là cơ quan nhà nước có thẩm quyền tổ chức cuộc trưng cầu ý dân. Nhà nước là chủ thể tổ chức các cuộc trưng cầu ý dân và nhân dân là người tham gia các cuộc trưng cầu ý dân đó. Tuy đóng vai trò tham gia nhưng kết quả cuộc trưng cầu ý dân do nhân dân quyết định. Khái niệm “nhân dân” mang ý nghĩa rộng rãi, chứ không chỉ bó hẹp trong phạm vi một cơ quan, tổ chức hay nhóm cộng đồng nào. Tuy nhiên, từ góc độ khác, pháp luật về trưng cầu ý dân ở các nước thường quy định những người tham gia bỏ phiếu khi trưng cầu ý dân cũng là những người tham gia bỏ phiếu trong các cuộc bầu cử, hay nói cách khác, là những cử tri. Điều này là bởi giống như bầu cử, trưng cầu ý dân là một hành động chính trị - pháp lý quan trọng, đòi hỏi những người tham gia phải có năng lực hành vi đầy đủ.

Thứ ba, nội dung, phạm vi các ý kiến, các vấn đề được đưa ra trưng cầu dân ý đều là những vấn đề hệ trọng của quốc gia hoặc của địa phương. Việc trưng cầu dân ý ở từng nước sẽ có những nội dung khác nhau nhưng tựu trung lại là đều là những nội dung mang tính chất hệ trọng đối với quốc gia hoặc địa phương. Trên thực tế, những vấn đề hệ trọng mà thường được các quốc gia đưa ra trưng cầu ý dân bao gồm: việc ban hành Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp, việc phân chia địa giới hành chính - lãnh thổ, các đạo luật cơ bản về tổ chức bộ máy công quyền, các điều ước quốc tế quan trọng, v.v.. Tương tự, đối với cấp địa phương, các vấn đề được đưa ra trưng cầu ý dân thường liên quan đến quyền hoặc lợi ích chung, cốt lõi của cộng đồng dân cư và được cử tri ở địa phương đó đặc biệt quan tâm.

Thứ tư, trưng cầu ý dân phải được thực hiện bằng hình thức bỏ phiếu và thường được tiến hành một cách độc lập, riêng rẽ với các hoạt động khác. Chỉ trong những trường hợp đặc biệt, việc trưng cầu ý dân mới có thể được tổ chức kết hợp với một sự kiện khác, ví dụ như cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội hoặc bầu cử Tổng thống thông thường để nhằm tiết kiệm chi phí cho ngân sách quốc gia. Tuy nhiên, cho dù được tổ chức riêng hay kết hợp, cách thức trưng cầu ý dân cũng tương tự như bầu cử, tức là được thực hiện dưới hình thức bỏ phiếu. Các phương án đưa ra để người tham gia bỏ phiếu trưng cầu ý dân lựa chọn phải được in trên lá phiếu một cách rõ ràng để cử tri có thể nhận thức đúng và quyết định theo ý chí của mình. Một số quốc gia quy định quy trình bỏ phiếu trưng cầu ý dân thường giống quy trình bỏ phiếu bầu cử. Tiêu chuẩn người tham gia bỏ phiếu trưng cầu ý dân cũng giống như tiêu chuẩn người bỏ phiếu tham gia bầu cử.

Thứ năm, kết quả trưng cầu ý dân về nguyên tắc có giá trị bắt buộc với các cơ quan nhà nước phải chấp nhận và thực hiện, kể cả khi cuộc trưng cầu ý dân là đương nhiên hay do Nhà nước đề xuất. Kết quả đó cũng có hiệu lực bắt buộc với mọi công dân có nghĩa vụ chấp hành. Điều này là bởi trưng cầu ý dân phản ánh trực tiếp ý chí, nguyện vọng của nhân dân về vấn đề được đem ra trưng cầu. Jean Jacques Rousseaux - nhà tư tưởng nổi tiếng người Pháp - đã từng nhấn mạnh, không có bất cứ một quyết định chính trị hay một đạo luật nào có hiệu lực nếu chúng không được nhân dân tán thành.

Đối với sáng kiến của công dân: Sáng kiến công dân có thể hiểu là việc công dân đề xuất và biểu quyết hay bỏ phiếu quyết định về một vấn đề chung của đất nước hay của địa phương. Các sáng kiến của công dân có thể là sáng kiến chính sách hoặc những đề xuất xây dựng một văn bản pháp luật mới hoặc sửa đổi các văn bản pháp luật hiện hành cũng như một số vấn đề quan trọng khác quy định trong Hiến pháp và đạo luật. Kết quả của một cuộc bỏ phiếu do sáng kiến của công dân có thể có hiệu lực ràng buộc về mặt pháp lý bắt buộc thực hiện hoặc chỉ có tính chất tham vấn với cơ quan lập pháp, tùy quy định trong pháp luật của mỗi quốc gia là khác nhau.

Đối với sáng kiến chương trình nghị sự: Sáng kiến chương trình nghị sự được hiểu là cách thức người dân đề xuất một vấn đề, một nội dung yêu cầu vào chương trình nghị sự của cơ quan lập pháp. Giống như các sáng kiến của công dân, các sáng kiến chương trình nghị sự cũng cần thu thập một số lượng chữ ký theo yêu cầu quy định; song cần phải thấy sự khác biệt rằng, trong sáng kiến về chương trình nghị sự, không cần tổ chức bỏ phiếu phổ thông sau khi một sáng kiến đã được bổ sung vào chương trình nghị sự của cơ quan lập pháp (trung ương hoặc địa phương).

Bãi miễn: là việc cử tri bỏ phiếu quyết định về việc bãi miễn một đại biểu dân cử khi chưa hết nhiệm kỳ. Đây là một trong những hình thức thực hiện quyền làm chủ trực tiếp của nhân dân, vì thông qua hình thức này, nhân dân thể hiện sự bất tín nhiệm của mình đối với những đại biểu dân cử không hoàn thành sứ mệnh là người đại diện cho ý chí và nguyện vọng của mình. Về bản chất, bãi miễn là “hủy bỏ tư cách đại biểu” khi đại biểu đó không đủ tư cách đại biểu nữa do vi phạm pháp luật, phẩm chất chính trị, đạo đức, v.v... Quyền bãi miễn được hình thành xuất phát từ nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, quyền lực của nhân dân là tối thượng, là quyền lực gốc. Nhân dân có thể thực hiện quyền lực của mình trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các đại biểu dân cử. Các đại biểu thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, nhưng để có được quyền lực đó thực chất là do nhân dân ủy thác. Nếu đại biểu không thực hiện hoặc thực hiện không đúng quyền lực nhân dân ủy thác cho thì đại biểu đó không hoàn thành nhiệm vụ với vai trò là người đại diện của nhân dân; không xứng đáng với sự tin tưởng của nhân dân và do vậy, nhân dân có quyền tước bỏ đi tư cách đại biểu đó. Quyền bãi miễn đối với những đại biểu không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân là quyền có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo cho chế độ dân chủ được thực hiện một cách hoàn toàn và triệt để. Thực hiện đúng vấn đề mang tính nguyên tắc này vừa làm tăng trách nhiệm của đại biểu dân cử, vừa bảo đảm sự phục tùng thực sự của người được bầu đối với cử tri và xã hội.

Giống như hai dạng thức sáng kiến công dân và sáng kiến chương trình nghị sự, để tổ chức bỏ phiếu bãi miễn một đại biểu dân cử, người đề xuất phải thu thập đủ số lượng tối thiểu chữ ký ủng hộ theo luật định, tuy nhiên, điểm khác nhau là kết quả của việc bỏ phiếu bãi miễn luôn luôn có hiệu lực ràng buộc pháp lý với các chủ thể liên quan.

Hiện nay ở Việt Nam có hai cách hiểu khác nhau về dân chủ trực tiếp, xuất phát từ góc độ tiếp cận dân chủ trực tiếp theo nghĩa rộng hay hẹp. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu khoa học chính trị và pháp lý ở Việt Nam có sự đồng thuận cao hơn về những phương thức thực hiện dân chủ trực tiếp sau đây: trưng cầu ý dân, bầu cử, bãi miễn đại biểu dân cử và lấy ý kiến quyết định của Nhân dân ở cơ sở. Trong số các phương thức này, trưng cầu ý dân và bãi miễn đại biểu dân cử hoàn toàn tương đồng với các phương thức thực hiện dân chủ trực tiếp đã nêu bởi IDEA. Trong khi đó, phương thức lấy ý kiến quyết định của Nhân dân ở cơ sở có thể xem là gần như tương đồng với hai phương thức sáng kiến công dân và sáng kiến chương trình nghị sự, dù phạm vi và cách thức áp dụng có phần hẹp hơn một chút. Chỉ riêng phương thức bầu cử là mới so với các phương thức dân chủ trực tiếp mà IDEA đề cập.

Đối với bầu cử, có ý kiến cho rằng bầu cử không phải là một hình thức dân chủ trực tiếp, mà chỉ là một hình thức, một khâu trung gian để thực thi dân chủ đại diện (hay dân chủ gián tiếp). Dân chủ gián tiếp, tức là Nhân dân bỏ phiếu bầu ra những người đại diện, những người đại diện này thay mặt cho Nhân dân, được Nhân dân ủy nhiệm giải quyết các công việc của Nhà nước, do đó, bầu cử không thể là một hình thức dân chủ trực tiếp.

Ngoài các hình thức dân chủ trực tiếp nêu trên, một số nhà nghiên cứu Việt Nam còn đề cập một số phương thức thực hiện dân chủ trực tiếp khác, bao gồm dân chủ ở cơ sở, quyền tham gia quản lý nhà nước của công dân và một số quyền dân sự, chính trị khác. Tuy nhiên, có thể thấy, chưa có cơ sở lý luận và thực tiễn đủ thuyết phục để xem đây là những phương thức thực hiện dân chủ trực tiếp. Cụ thể như sau:

Đối với hình thức dân chủ ở cơ sở: Do bản chất của dân chủ ở cơ sở là phát huy quyền làm chủ của người dân trên mọi mặt của đời sống nên dân chủ ở cơ sở là một hình thức dân chủ hỗn hợp: “Thực hiện dân chủ ở cơ sở được thông qua bằng nhiều hình thức và phương pháp khác nhau, cụ thể là dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện và dân chủ tham gia”. Mặc dù ở cơ sở, dân chủ trực tiếp được phát huy nhưng không phải là hình thức duy nhất và trong mọi hoạt động. Hơn nữa, dân chủ trực tiếp ở cơ sở chủ yếu là thông qua lấy ý kiến quyết định của Nhân dân về một số vấn đề và hoạt động của cộng đồng, mà đây chính là một hình thức dân chủ trực tiếp đặc thù. Vì vậy, không thể xem toàn bộ phạm trù dân chủ ở cơ sở là một hình thức dân chủ trực tiếp.

Đối với quyền tham gia quản lý nhà nước của công dân:

Đây là một quyền thuộc nhóm quyền dân sự, chính trị được ghi nhận bởi luật nhân quyền quốc tế. Theo Điều 21 Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền năm 1948 (UDHR năm 1948): ai cũng có quyền tham gia chính quyền của quốc gia mình, hoặc trực tiếp qua các đại biểu do mình tự do lựa chọn... Điều 25 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR, 1966) đã tái khẳng định và cụ thể hóa quy định của Điều 21 trong UDHR năm 1948, trong đó nêu rõ: Mọi công dân, không có bất kỳ sự phân biệt nào... và không có bất kỳ sự hạn chế bất hợp lý nào, đều có quyền và cơ hội để tham gia điều hành các công việc xã hội một cách trực tiếp hoặc thông qua những đại diện do họ tự do lựa chọn.

Ở Việt Nam, nội dung của quyển tham gia quản lý nhà nước của công dân được xác định trong Điều 28 Hiến pháp năm 2013: “Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước. Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân".

Có quan điểm cho rằng, quyền tham gia quản lý nhà nước của công dân cũng chính là một hình thức thực thi dân chủ trực tiếp, và quyền này cũng tương đồng với hai phương thức sáng kiến công dân và sáng kiến chương trình nghị sự mà đã được tổ chức IDEA đề cập.

Tuy nhiên, có thể thấy rằng, trong pháp luật Việt Nam, phạm vi và cách thức áp dụng quyền tham gia quản lý nhà nước của công dân hiện vẫn chưa được quy định cụ thể. Nghiên cứu Điều 28 Hiến pháp năm 2013, có thể xác định quyền này có nội dung rất rộng, ít nhất gồm ba khía cạnh: (i) Quyền tham gia quản lý nhà nước; (ii) Quyền tham gia quản lý xã hội; (iii) Quyền tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước. Hiện tại, trong ba khía cạnh này, chỉ có khía cạnh thứ ba (Quyển tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước) đã được nêu tương đối cụ thể trong pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở, còn hai khía cạnh thứ nhất và thứ hai đều chưa rõ nội hàm trong pháp luật Việt Nam, vì vậy khó có thể xem các nội dung này là những hình thức dân chủ trực tiếp.

Mặt khác, các nội dung nêu trên tuy thể hiện ý chí của người dân nhưng chỉ là tham gia vào quản lý công việc của Nhà nước, của xã hội chứ không phải trực tiếp quyết định các công việc đó. Ngoài ra, trong nhiều trường hợp, việc thực hiện các quyền này chỉ thuần túy mang tính chất cá nhân (ví dụ, người dân ứng cử và được bầu vào các cơ quan dân cử, hoặc được tuyển dụng vào làm việc ở các cơ quan nhà nước khác) chứ không phải là hành động tập thể. Trong khi đó, để xác định các hình thức dân chủ trực tiếp, cần xem xét dưới góc độ cá nhân tham gia một hành động tập thể cùng trực tiếp quyết định các vấn đề của Nhà nước và xã hội, chứ không chỉ là việc người dân thực hiện một hành động nào đó một cách trực tiếp trong guồng máy quản lý xã hội.

Đối với một số quyền dân sự, chính trị khác:

Nhiều nhà nghiên cứu lý luận cho rằng các quyền biểu tình, tự do ngôn luận, tự do thông tin, khiếu nại, tố cáo và cơ chế thực hiện các quyền này cũng là biểu hiện của dân chủ trực tiếp. Tuy nhiên, tương tự như quyền tham gia quản lý nhà nước, có thể thấy rằng, việc thực hiện các quyền này không phải lúc nào cũng thể hiện ý chí tập thể của người dân để quyết định một công việc của Nhà nước, của xã hội, mà trong nhiều trường hợp chỉ thuần túy để bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân hoặc của nhóm, vì vậy không thể coi đây là các hình thức dân chủ trực tiếp cơ bản. Để xác định các hình thức dân chủ trực tiếp, cần xem xét dưới góc độ Nhân dân cùng trực tiếp quyết định các vấn đề mang tính quyền lực nhà nước, và quyết định đó phải được thi hành ngay chứ không phải là việc người dân có hành động một cách trực tiếp song chỉ hướng tới việc ra quyết định của một cơ quan nhà nước nhất định.

Từ những phân tích trên, có thể đúc kết các tiêu chí để xác định một loại hay phương thức hoạt động quyền lực nào đó của người dân là dân chủ trực tiếp, trong đó bao gồm:

Thứ nhất, dân chủ trực tiếp là một chế độ gắn liền với Nhà nước, cần phân biệt với các quyền cụ thể;

Thứ hai, dân chủ trực tiếp là cách thức làm chủ của Nhân dân, thể hiện qua ý chí tập thể trong các lĩnh vực liên quan đến việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội;

Thứ ba, dân chủ trực tiếp là hình thức mà qua đó, Nhân dân được thể hiện ý chí một cách trực tiếp, tức là không phải thông qua một chủ thể trung gian nào.

Tóm lại, trên cơ sở phân tích, nghiên cứu các hình thức dân chủ trực tiếp trên thế giới và ở Việt Nam, cũng như qua nghiên cứu các phương thức thực hiện dân chủ trực tiếp cơ bản, có tính phổ biến được pháp luật thực định Việt Nam quy định, cho thấy các hình thức dân chủ trực tiếp ở Việt Nam như sau:

Một là, trưng cầu ý dân. Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật Trưng cầu ý dân năm 2015 thì trưng cầu ý dân được hiểu là: “việc Nhà nước tổ chức để cử tri cả nước trực tiếp biểu quyết bằng hình thức bỏ phiếu quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước...”. Hay nói cách khác, trưng cầu ý dân được hiểu là việc cử tri cả nước bỏ phiếu tán thành hay không tán thành khi được hỏi về một vấn đề quan trọng cụ thể. Do đặc thù của xã hội hiện đại, trưng cầu ý dân chỉ được thực hiện đối với các vấn đề trọng đại của quốc gia (ví dụ như ban hành, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp; vấn đề đặc biệt quan trọng về chủ quyền, lãnh thổ quốc gia, về quốc phòng, an ninh, đối ngoại có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của quốc gia; tham gia các điều ước quốc tế...). Về bản chất, trưng cầu ý dân cũng là cách để lấy ý kiến nhân dân, nhưng có hiệu lực cao hơn việc lấy ý kiến nhân dân, thể hiện ở việc kết quả lấy ý kiến nhân dân chỉ có tính chất tham khảo, còn kết quả trưng cầu ý dân thường có hiệu lực bắt buộc với Nhà nước.

Trưng cầu ý dân thể hiện rõ rệt nhất quyền trực tiếp tham gia quản lý nhà nước của công dân. Quyền này đã được thừa nhận rộng rãi trên thế giới và ở Việt Nam. Các bản Hiến pháp Việt Nam gồm: Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992, sửa đổi, bổ sung năm 2001, Hiến pháp năm 2013 đều có quy định về quyền trưng cầu ý dân, mặc dù cách diễn đạt ít nhiều khác nhau. Luật Trưng cầu ý dân năm 2015 có hiệu lực từ ngày 01/7/2016, chính là sự thể chế hóa quyền “dân chủ trực tiếp” của công dân và quyền bỏ phiếu trưng cầu ý dân được quy định trong Hiến pháp năm 2013.

Xét về nội hàm, trong thực tiễn pháp luật nước ta có nhiều thuật ngữ được sử dụng liên quan đến trưng cầu ý dân. Trong Hiến pháp năm 1946 sử dụng thuật ngữ “phúc quyết”, Hiến pháp năm 1959 và Hiến pháp năm 1980 sử dụng thuật ngữ “trưng cầu ý kiến Nhân dân”, trong Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 2013 sử dụng thuật ngữ “trưng cầu ý dân”. Theo Từ điển Pháp - Việt, Pháp luật - Hành chính do Nhà xuất bản Thế giới xuất bản năm 1992 thì trưng cầu ý dân được hiểu là: Một hình thức tổ chức và hoạt động của nền dân chủ trực tiếp, qua đó, Nhân dân cộng tác và tham gia vào quyền lập pháp. Lấy ý kiến nhân dân bằng cách tổ chức bỏ phiếu để Nhân dân trực tiếp quyết định về một vấn đề quan trọng của đất nước, như thông qua Hiến pháp, một đạo luật, quyết định một chính sách, hoặc yêu cầu Quốc hội biểu quyết một dự án luật do Nhân dân có sáng kiến đề nghị. Theo Từ điển giải thích thuật ngữ pháp lý thông dụng do Nhà xuất bản Đại học Quốc gia xuất bản năm 2001 thì trưng cầu ý dân được hiểu là: Việc tổ chức do Nhà nước thực hiện để Nhân dân bỏ phiếu quyết định hoặc bày tỏ ý kiến về những việc đặc biệt quan trọng của quốc gia.

Từ những phân tích nêu trên, có thể đưa ra một cách hiểu chung về trưng cầu ý dân như sau: Trưng cầu ý dân là một hình thức dân chủ trực tiếp, thể hiện mối quan hệ giữa Nhà nước - công dân trong quản lý, điều hành đất nước, trong đó cơ quan nhà nước theo trình tự, thủ tục luật định đưa một vấn đề ra để Nhân dân trực tiếp quyết định thông qua việc bỏ phiếu.

Hai là, bãi nhiệm (hay bãi miễn) đại biểu dân cử. Đại biểu dân cử là những người do Nhân dân trực tiếp bầu ra, vì thế Nhân dân có quyền giám sát hoạt động của họ với tư cách là những người đại diện cho ý chí, lợi ích, nguyện vọng của cử tri; giám sát năng lực, trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ đại biểu cũng như thực hiện các chức vụ được giao; giám sát phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của các đại biểu. Một đại biểu dân cử không thể hiện được ý chí, lợi ích, nguyện vọng của cử tri, thiếu năng lực và trách nhiệm trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ chuyên môn được giao, hay vi phạm về phẩm chất, đạo đức, lối sống thì có thể bị cử tri bãi nhiệm một cách trực tiếp hay gián tiếp.

Bãi nhiệm đại biểu dân cử là chế định có tác động ngược lại với chế định bầu cử. Nếu như bầu cử là việc cử tri bỏ phiếu để thể hiện sự tín nhiệm, qua đó bầu ra một đại biểu dân cử, thì bãi nhiệm được hiểu là việc cử tri bỏ phiếu để thể hiện sự không tín nhiệm của mình đối với một đại biểu dân cử nào đó, buộc đại biểu đó phải thôi giữ nhiệm vụ đại biểu trong khi nhiệm kỳ vẫn còn. Nói cách khác, do kết quả bỏ phiếu bất tín nhiệm của cử tri, một đại biểu dân cử đã được bầu ra có thể bị tước đi (bãi miễn) tư cách đại biểu.

Theo Từ điển Tiếng Việt, khái niệm bãi miễn được hiểu là việc “hủy bỏ tư cách đại biểu” khi đại biểu đó không còn được tín nhiệm, do vi phạm pháp luật, phẩm chất chính trị, đạo đức.

Như vậy, có thể xem bãi miễn là khái niệm đồng nhất với bãi nhiệm. Dù vậy, có quan điểm cho rằng khái niệm bãi nhiệm rộng hơn bãi miễn, thể hiện ở lý do bãi nhiệm, về hình thức, có thể bao gồm hai trường hợp: một là, bãi bỏ chức vụ của một người do không được tín nhiệm, do vi phạm pháp luật, đạo đức, phẩm chất (giống như bãi miễn); hai là, bãi bỏ chức vụ của một người để người đó có thể giữ một chức vụ khác, hoặc lý do sức khỏe mà người đó không tiếp tục đảm nhiệm được nhiệm vụ. Tuy nhiên, thông thường trong thực tế ở Việt Nam, bãi nhiệm được hiểu theo trường hợp thứ nhất, còn trong trường hợp thứ hai, có một thuật ngữ khác được sử dụng đó là “miễn nhiệm”.

Theo Hiến pháp hiện hành của Việt Nam, bãi nhiệm có thể xem là hình thức kỷ luật đối với đại biểu dân cử trước khi hết nhiệm kỳ khi đại biểu đó không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của Nhân dân. Cụ thể, khoản 2 Điều 7 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân bị cử tri hoặc Quốc hội, Hội đồng nhân dân bãi nhiệm khi không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của Nhân dân”. Như vậy, cũng theo cách biểu đạt của Điều 7 Hiến pháp năm 2013, quyền bãi nhiệm đại biểu dân cử được hiểu là quyền của cử tri hoặc của Quốc hội, Hội đồng nhân dân bãi bỏ tư cách đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân khi các đại biểu này không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của Nhân dân.

Ba là, lấy ý kiến quyết định của Nhân dân ở cơ sở. Khi bàn đến dân chủ, không thể không bàn đến việc phát huy dân chủ tại cơ sở. Trong đó, các nội dung “dân bàn và quyết định trực tiếp” chính là những biểu hiện của dân chủ trực tiếp theo nghĩa cụ thể và truyền thống nhất. Bên cạnh đó, các nội dung “dân bàn, biểu quyết, tham gia ý kiến để cấp có thẩm quyền quyết định” là những biểu hiện của dân chủ trực tiếp theo nghĩa rộng. Đây là những hình thức thực thi dân chủ ở cấp cơ sở đã được sử dụng rộng rãi ở Việt Nam kể từ khi Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007 được ban hành.

Hệ thống chính trị của Việt Nam hiện nay được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ - nguyên tắc cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Bộ máy nhà nước được tổ chức thành 4 cấp: trung ương, tỉnh, huyện và xã, trong đó cấp xã là cấp cuối cùng (còn gọi là cấp cơ sở). Xã, phường, thị trấn là nơi trực tiếp thực hiện đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, là nơi kiểm nghiệm một cách chính xác nhất đường lối của Đảng trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa trong thực tế. Thực hiện dân chủ ở cấp xã là sự thể hiện rõ rệt nhất vai trò và sự tham gia quản lý nhà nước của công dân. Xuất phát từ lý do dân chủ, với ý nghĩa là quyền tự nhiên tối cao nhất của con người, được thực hiện trước hết là ở cơ sở. Chỉ ở cấp cơ sở, người dân mới có thể thực hiện một cách hiệu quả quyền được biết, được bàn và được tham gia giải quyết và kiểm tra, giám sát mọi hoạt động diễn ra trong đời sống hàng ngày, mới có thể trực tiếp thể hiện ý chí, nguyện vọng của mình đối với những vấn đề về tổ chức và hoạt động của chính quyền.

Ở Việt Nam hiện nay, hình thức lấy ý kiến nhân dân có tính chất quyết định đã được quy định cụ thể trong Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007, theo đó, Nhân dân có quyền bàn và quyết định trực tiếp những công việc sau:

          Chủ trương và mức đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình phúc lợi công cộng (điện, đường, trường học, trạm y tế, nghĩa trang, các công trình văn hóa, thể thao);

          Xây dựng hương ước, quy ước làng văn hóa, nếp sống văn minh, giữ gìn an ninh trật tự, bài trừ các hủ tục, mê tín dị đoan, tệ nạn xã hội;

          Các công việc trong nội bộ cộng đồng dân cư thôn, phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành;

          Thành lập Ban giám sát đầu tư của cộng đồng;

          Tổ chức bảo vệ sản xuất, kinh doanh giữ gìn an ninh trật tự, an toàn giao thông, vệ sinh môi trường và các hoạt động khác trên địa bàn xã, thôn.

Bốn là, bầu cử. Thuật ngữ “bầu cử" được hiểu là thủ tục thành lập nên các cơ quan nhà nước hay chức danh nhà nước. Thủ tục này được thực hiện bằng sự bỏ phiếu phổ thông, tự do, bình đẳng của cử tri (đại cử tri, đại diện cử tri) để lựa chọn ra người đại diện cho mình trong số các ứng cử viên. Định nghĩa trên cho phép phân biệt bầu cử với các phương pháp khác dùng để thành lập cơ quan hay chức danh nhà nước, chẳng hạn như bổ nhiệm. Khái niệm bầu cử gắn bó mật thiết với khái niệm “dân chủ”. Bầu cử là “chìa khoá” của dân chủ. Các cuộc bầu cử tự do và bình đẳng là phương thức tạo lập và đảm bảo cho tính chính danh và sự tồn tại, vận hành của một chế độ dân chủ.

Ở Việt Nam, bầu cử được hiểu là quá trình các cử trì đưa ra quyết định theo cách thức mà pháp luật quy định để chọn ra các đại biểu đại diện cho mình nắm giữ các chức vụ trong cơ quan dân cử của chính quyền ở trung ương và địa phương trong phạm vi lãnh thổ của Việt Nam. Bầu cử ở Việt Nam gồm bầu cử đại biểu Quốc hội (ở Trung ương) và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp (ở địa phương). Theo quy định của Hiến pháp năm 2013, nhiệm kỳ của mỗi khóa Quốc hội là 5 năm, tương tự, 5 năm cũng là nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân các cấp.

Các cuộc bầu cử có tính chất pháp lý rất quan trọng, đó là khâu cốt yếu để thành lập các cơ quan quyền lực nhà nước từ trung ương đến địa phương. Chính vì vậy, trình tự, thủ tục bầu cử được pháp luật Việt Nam quy định rất chặt chẽ trong Hiến pháp và nhiều văn bản pháp luật chuyên ngành, trong đó đặc biệt là các luật về bầu cử (Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội năm 1997 đã được sửa đổi, bổ sung vào năm 2001 và năm 2007; Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2003, văn bản có hiệu lực pháp lý hiện nay là Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015).

2. Trình tự, thủ tục thực hiện các phương thức dân chủ trực tiếp

Do cùng chia sẻ các thuộc tính chung (thể hiện trong 3 tiêu chí nêu ở mục trên) về trình tự, thủ tục thực hiện tất cả các phương thức dân chủ trực tiếp phải phù hợp với các thuộc tính ấy, trong đó đặc biệt là sự thể hiện ý chí tập thể, và cách thức thể hiện phải là trực tiếp.

Tuy nhiên, vẫn có sự khác nhau nhất định về trình tự, thủ tục thực hiện các phương thức dân chủ trực tiếp. Điều này là do mỗi phương thức dân chủ trực tiếp có những đặc thù riêng về chủ thể, nội dung và phạm vi tác động.

2.1 Trình tự, thủ tục thực hiện trưng cầu ý dân

Nhìn chung, pháp luật của các quốc gia quy định việc trưng cầu ý dân cần được thực hiện theo các bước sau đây:

Đề xuất trưng cầu ý dân: Đây là bước đầu tiên để thực hiện một cuộc trưng cầu ý dân. Cần có một chủ thể (tuỳ pháp luật của mỗi quốc gia, có thể là một cơ quan nhà nước, đảng chính trị, tổ chức xã hội, hay một nhóm công dân) đề xuất tổ chức trưng cầu ý dân về một vấn đề quan trọng nào đó mà theo pháp luật có thể hoặc cần phải đem ra lấy ý kiến quyết định của nhân dân. Ví dụ, ở Việt Nam, khoản 1 Điều 14 Luật Trưng cầu ý dân năm 2015 quy định về đề nghị trưng cầu ý dân: “Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ hoặc ít nhất là một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội có quyền đề nghị Quốc hội xem xét, quyết định việc trưng cầu ý dân”.

Về mặt thủ tục, trong bước này, chủ thể đề xuất trưng cầu ý dân sẽ phải có văn bản làm rõ cơ sở pháp lý và thực tiễn của việc trưng cầu ý dân. Ví dụ, ở Việt Nam, khoản 3 Điều 14 Luật Trưng cầu ý dân năm 2015 quy định, hồ sơ đề nghị trưng cầu ý dân gồm: (a) Tờ trình đề nghị trưng cầu ý dân, trong đó nêu rõ sự cần thiết của việc tổ chức trưng cầu ý dân, nội dung cần trưng cầu ý dân, dự kiến thời điểm tổ chức trưng cầu ý dân, các phương án, giải pháp để thực hiện kết quả trưng cầu ý dân; (b) Dự thảo nghị quyết của Quốc hội về trưng cầu ý dân; (c) Tài liệu khác có liên quan (nếu có).

Xem xét quyết định việc trưng cầu ý dân: Mặc dù ở hầu hết các quốc gia trên thế giới hiện nay, trưng cầu ý dân là một quyền hiến định, có hiệu lực trực tiếp, song không mặc nhiên được thực hiện mà sẽ phải qua một thủ tục đó là xem xét tính hợp pháp và hợp lý để quyết định có hay không tiến hành. Vì vậy, đây có thể xem là bước thứ hai của hình thức dân chủ trực tiếp cơ bản này.

Trong bước thứ hai, việc trưng cầu ý dân thường được thẩm tra và quyết định bởi Nghị viện - cơ quan đại diện cao nhất. Tuy nhiên, điều này chỉ có nghĩa là Nghị viện căn cứ vào Hiến pháp và luật chuyên ngành để đánh giá xem đề xuất trưng cầu ý dân có hợp pháp và hợp lý hay không, để từ đó công bố và tổ chức hoạt động này, chứ không có nghĩa là Nghị viện được tuỳ ý quyết định có hay không chấp nhận đề xuất đó.

Ở Việt Nam, Luật Trưng cầu ý dân năm 2015 cũng quy định thẩm quyền của Quốc hội trong việc thẩm tra và chấp thuận đề nghị trưng cầu ý dân. Luật này quy định rất chi tiết các thủ tục tại các điều 15, 16, 17, trong đó bao gồm trách nhiệm thẩm tra của Hội đồng Dân tộc hoặc Ủy ban có liên quan của Quốc hội (Điều 15), trách nhiệm xem xét, cho ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội (Điều 16) và trách nhiệm của tập thể Quốc hội thảo luận, biểu quyết quyết định việc trưng cầu ý dân (Điều 17). Theo Điều 17, Nghị quyết của Quốc hội về trưng cầu ý dân phải được quá nửa tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành.

Tổ chức việc trưng cầu ý dân: Đây là bước quan trọng nhất của hình thức dân chủ trực tiếp này. Ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, thủ tục tổ chức trưng cầu ý dân tương tự như thủ tục tổ chức bầu cử, chỉ khác về mục đích và nội dung lá phiếu. Ở đây, nếu như bầu cử nhằm mục đích bầu ra các đại biểu dân cử, và vì vậy nội dung lá phiếu là danh sách các ứng cử viên để cử tri bầu chọn, thì trưng cầu ý dân nhằm mục đích để cử tri trực tiếp quyết định một vấn đề quan trọng của đất nước, và vì vậy nội dung lá phiếu chỉ bao gồm một câu hỏi súc tích, trọng tâm và các phương án để người dân xác định.

Tuy nhiên, giống như bầu cử, một trong những nguyên tắc của trưng cầu ý dân là trực tiếp - có nghĩa là cử tri trực tiếp quyết định (bao gồm trực tiếp xử lý lá phiếu, trừ trường hợp bất khả kháng sẽ có người hỗ trợ) để thể hiện ý chí của mình mà không một cơ quan, tổ chức, cá nhân nào được phép tác động hay ép buộc.

Kiểm phiếu, công bố kết quả và thi hành kết quả trưng cầu ý dân: Đây có thể xem là bước cuối cùng của hình thức dân chủ trực tiếp. Về cơ bản, các thủ tục kiểm tra, công bố kết quả trưng cầu ý dân được thực hiện tương tự như kiểm tra, công bố kết quả bầu cử. Tuy nhiên, việc thi hành kết quả trưng cầu ý dân không giống như thi hành kết quả bầu cử. Nếu như thi hành kết quả bầu cử chính là việc xác định cơ cấu thành phần và kích hoạt một cơ quan dân cử với những đại biểu mới được bầu, thì việc thi hành kết quả trưng cầu ý dân chính là việc Nhà nước tổ chức thực hiện phương án xử lý vấn đề quan trọng của đất nước đã được đa số cử tri bỏ phiếu tán thành.

2.2 Trình tự, thủ tục thực hiện việc bãi nhiệm (hay bãi miễn) đại biểu dân cử

Từ góc độ dân chủ trực tiếp, về bản chất, bãi nhiệm hay bãi miễn đại biểu dân cử là việc cử tri bỏ phiếu để thể hiện sự không tín nhiệm của mình đối với một đại biểu dân cử nào đó, dẫn đến hậu quả là đại biểu đó có thể phải thôi giữ nhiệm vụ đại biểu trong khi nhiệm kỳ vẫn còn.

Thông thường ở các quốc gia, phương thức dân chủ trực tiếp này được thực hiện qua các bước như sau:

Thứ nhất, đề xuất bãi nhiệm/bãi miễn đại biểu dân cử: Việc này có thể do chính cơ quan dân cử thực hiện với một tỷ lệ ủng hộ nhất định của các nghị sĩ, tuỳ theo pháp luật của mỗi quốc gia, nhưng ít nhất là đa số quá bán. Tuy nhiên, từ góc độ dân chủ trực tiếp, việc bãi nhiệm/bãi miễn đại biểu dân cử là do chính cử tri đề xuất. Trong trường hợp này, pháp luật của các quốc gia có thể quy định một số lượng nhất định cử tri cùng ký vào một bản kiến nghị bãi nhiệm/bãi miễn một đại biểu dân cử nào đó, với lý do đại biểu đó đã vi phạm pháp luật hay có phẩm chất đạo đức kém, không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của cử tri.

Thứ hai, quyết định bãi nhiệm/bãi miễn đại biểu dân cử: Việc này nhất thiết phải do cơ quan dân cử (Nghị viện/Quốc hội) tiến hành bằng bỏ phiếu. Tỷ lệ bỏ phiếu có thể là quá bán (quá 50%) hoặc đa số 2/3 số phiếu hợp lệ. Tuy nhiên, pháp luật của các quốc gia cũng có thể quy định những trường hợp mà cơ quan dân cử đương nhiên phải tuyên bố bãi nhiệm/bãi miễn đại biểu nếu có một số lượng rất lớn cử tri ký vào kiến nghị bày tỏ sự không tín nhiệm với đại biểu đó.

Thứ ba, xử lý khoảng trống sau khi đại biểu dân cử bị bãi nhiệm/bãi miễn: Thông thường, sau khi có một đại biểu dân cử bị bãi nhiệm/bãi miễn, sẽ cần bầu một đại biểu khác để thay thế. Pháp luật của các quốc gia có những quy định ít nhiều khác nhau trong vấn đề này, chủ yếu liên quan đến thời hạn còn lại của đại biểu bị bãi nhiệm/bãi miễn. Cụ thể, nếu thời gian còn lại dài, việc bầu cử thay thế sẽ được tiến hành, còn nếu thời hạn đó ngắn thì có thể việc bầu cử thay thế sẽ không được đặt ra. Dù vậy, nếu việc bầu cử thay thế được đặt ra, quyền lựa chọn của cử tri phải được tôn trọng và là yếu tố quyết định đại biểu thay thế là ai chứ không phải là cơ quan dân cử.

2.3 Trình tự, thủ tục lấy ý kiến quyết định của Nhân dân ở cơ sở

Thông thường ở các quốc gia, phương thức dân chủ trực tiếp này được thực hiện qua các bước như sau:

Một, đề xuất vấn đề cần lấy ý kiến của nhân dân: Việc này có thể do chính quyền cơ sở, căn cứ vào các quy định pháp luật có liên quan để đề xướng. Tuy nhiên, cũng có thể do chính người dân đề xướng. Trong trường hợp vấn đề do người dân đề xướng, pháp luật sẽ quy định cách thức và điều kiện đề xướng, ví dụ như cần có bao nhiêu người hay bao nhiêu phần trăm đại diện gia đình hay cử tri ở địa phương ủng hộ ý kiến đề xướng của một cá nhân hay tổ chức xã hội về vấn đề cần lấy ý kiến quyết định của nhân dân.

Hai, tổ chức lấy ý kiến của Nhân dân: Chính quyền địa phương có trách nhiệm tổ chức lấy ý kiến của người dân về vấn đề được nêu ra một cách hợp pháp và hợp lý. Trình tự, thủ tục về việc này có thể ít nhiều khác nhau ở các quốc gia, thậm chí giữa các địa phương trong một quốc gia. Dù vậy, nhất thiết cần có một hình thức tập hợp để người dân trực tiếp bày tỏ ý chí của mình, có thể là thông qua bỏ phiếu kín hay biểu quyết công khai về vấn đề cần lấy ý kiến.

Ba, tổ chức thực thi ý kiến của Nhân dân: Ở hầu hết quốc gia, ý kiến của người dân ở cấp cơ sở là hình thức dân chủ trực tiếp, có hiệu lực pháp lý bắt buộc với chính quyền địa phương và với những chủ thể khác có liên quan. Vì vậy, sau khi người dân đã có ý kiến, chính quyền địa phương và những chủ thể khác có liên quan phải có trách nhiệm thực thi phương án mà đa số người dân tán thành.

2.4. Trình tự, thủ tục bầu cử

Trong số các phương thức thực hiện dân chủ trực tiếp, bầu cử đòi hỏi trình tự, thủ tục phức tạp và chặt chẽ hơn cả.

Mặc dù có sự khác biệt nhất định giữa các quốc gia, tuy nhiên, xét chung trình tự, thủ tục tổ chức bầu cử ở các quốc gia bao gồm những bước sau đây:

Chuẩn bị bầu cử: Trong bước này sẽ có một loạt thủ tục cần thực hiện, ví dụ như ấn định ngày bầu cử, thành lập các tổ chức phụ trách bầu cử, phân chia các đơn vị bầu cử và số đại biểu được bầu tại mỗi đơn vị bầu cử, xác định và chuẩn bị các địa điểm bỏ phiếu, lập danh sách những người đăng ký ứng cử và được đề cử, lập danh sách những người đăng ký đi bầu (cử tri). Trách nhiệm chính trong việc thực hiện các thủ tục trong bước này là cơ quan bầu cử quốc gia và các cơ quan chính quyền khác.

Vận động tranh cử: Trong bước này, các ứng cử viên sẽ tiến hành vận động cử tri bầu cho mình, bằng cách tuyên bố, phổ biến cương lĩnh, đường lối, mục tiêu, kế hoạch hành động của mình nếu được trúng cử. Các ứng cử viên cũng có thể tranh luận với nhau về cương lĩnh, đường lối, mục tiêu, kế hoạch hành động của mình nếu được trúng cử để cử tri theo dõi, so sánh, đánh giá. Vận động bầu cử có thể được thực hiện qua nhiều biện pháp, tuy nhiên phổ biến nhất là thông qua các phương tiện thông tin đại chúng và các buổi gặp gỡ trực tiếp với cử tri. Pháp luật của các quốc gia có thể có những quy định ít nhiều khác nhau về phạm vi và cách thức của vận động tranh cử. Ở Việt Nam, vấn đề này hiện nay chủ yếu được thực hiện ở một số cuộc tiếp xúc cử tri với số lượng không lớn (gọi là vận động bầu cử) ở đơn vị bầu cử của người ứng cử.

Bỏ phiếu: Đây là bước trọng tâm của bầu cử. Trong bước này, cử tri sẽ được tổ chức để bỏ phiếu lựa chọn những đại biểu dân cử. Nguyên tắc chung là việc bỏ phiếu phải trực tiếp theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Cụ thể, cử tri trực tiếp đến địa điểm bỏ phiếu được xác định, trực tiếp xử lý lá phiếu, trực tiếp bỏ lá phiếu vào thùng phiếu. Luật bầu cử của mọi quốc gia đều nghiêm cấm sự can thiệp, tác động của bất kỳ chủ thể nào đến cử tri trong việc bỏ phiếu.

Hình thức bỏ phiếu truyền thống là cử tri đến địa điểm bỏ phiếu và dùng lá phiếu bằng giấy. Hiện tại, đây vẫn là hình thức bỏ phiếu phổ biến nhất trên thế giới. Tuy nhiên, bên cạnh đó, ngày càng nhiều quốc gia áp dụng cả một số hình thức bỏ phiếu khác như bỏ phiếu điện tử (thông qua phần mềm trên Internet), bỏ phiếu từ xa (thông qua điện thoại, fax, thư..) nhằm cho phép tối đa cử tri có thể thực hiện quyền bỏ phiếu của mình trong ngày bầu cử.

Xử lý kết quả bầu cử: Trong bước này, có một loạt thủ tục cần được thực hiện. Đầu tiên đó là kiểm phiếu để xác định kết quả bỏ phiếu. Việc này được thực hiện bởi các tổ chức bầu cử, với sự phối hợp giám sát của đại diện cử tri và các cơ quan truyền thông. Tiếp theo đó, các khiếu nại, tố cáo (nếu có) liên quan đến các bước đã thực hiện sẽ được thụ lý, giải quyết và công khai kết quả giải quyết để mở đường cho việc công bố kết quả bầu cử. Trong trường hợp việc bầu cử có những sai sót, vi phạm pháp luật nghiêm trọng thì có thể tổ chức bầu cử lại. Trong trường hợp việc bầu cử dẫn đến kết quả không đủ số lượng đại biểu dân cử theo yêu cầu đặt ra thì có thể tổ chức bầu cử bổ sung. Cuối cùng, theo pháp luật của nhiều nước, bao gồm pháp luật Việt Nam, những ứng cử viên đạt đủ số phiếu để trúng cử còn phải qua thủ tục thẩm tra (tư cách và các điều kiện khác) trước khi chính thức được công nhận là đại biểu dân cử.

Như vậy, có thể thấy rằng, việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền luôn gắn liền với việc thực hiện dân chủ đặc biệt là dân chủ trực tiếp. Do đó, việc nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật về dân chủ trực tiếp luôn là một yêu cầu cấp bách đặt ra trong giai đoạn hiện nay.

 


[1] Theo International IDEA (The International Institute for Democracy and Electoral Assistance) - một tổ chức quốc tế nghiên cứu, hỗ trợ về dân chủ, bầu cử trên toàn thế giới

Đăng ký nhận email

Đăng ký email để có thể có được những cập nhật mới nhất về tải liệu được đăng tải trên website

Tập san đã phát hành