Thứ năm, 19 Tháng 9 2024 11:11

Khái quát chung về một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về dân chủ trực tiếp ở nước ta trong giai đoạn hiện nay

1. Tăng cường nhận thức về dân chủ trực tiếp

1.1. Tăng cường nhận thức lý luận về các hình thức dân chủ trực tiếp

Thời gian qua, vẫn còn tồn tại nhận thức khá phổ biến về mối quan hệ giữa Nhà nước và Nhân dân, trong đó xem Nhân dân như là một chủ thể thụ động, cần phải thu hút họ tham gia vào hoạt động của Nhà nước. Quan điểm đó ngày nay không còn phù hợp nữa vì những lý do như:

Thứ nhất, dân chủ cũng như quyền dân chủ của người dân được cộng đồng quốc tế xác nhận là quyền tự nhiên, vốn có của người dân, không do ai ban phát. Như vậy, Nhân dân là chủ thể chủ động trong việc thực thi các hình thức dân chủ, bao gồm các hình thức dân chủ trực tiếp. Nhà nước không những phải “thu hút” mà trước hết phải tôn trọng và bảo đảm thực hiện dân chủ.

Thứ hai, dân chủ không phải là bản chất tự nhiên của xã hội mà phải thông qua thực hiện và đấu tranh trong thực tế. Trên thực tế, bất kỳ một xã hội nào, nền dân chủ đều phải trải qua quá trình hoàn thiện, phát triển. Như vậy, về mặt phương pháp, nếu muốn có dân chủ thật sự thì Nhà nước phải tạo điều kiện để người dân thường xuyên thực hành các hình thức dân chủ trong đời sống chính trị - xã hội, xã hội sẽ tự điều chỉnh cho phù hợp.

Thứ ba, người dân hoàn toàn có thể thực hiện được quyền dân chủ cho dù có thể dân trí chưa cao. Dân trí theo nghĩa rộng nhất bao gồm trình độ văn hóa chung và các hiểu biết về chính trị của người dân. Năng lực thực hành dân chủ phụ thuộc vào dân trí. Tuy nhiên, dân trí mới chỉ là một mặt phản ánh mức độ dân chủ, chất lượng vận hành của nền chính trị. Sẽ là sai lầm nếu xem đó là điều kiện tiên quyết của văn hóa chính trị, của việc thực hiện dân chủ.

Xem xét tiến trình lịch sử Việt Nam giai đoạn 1936 - 1939, mặc dù tỷ lệ người dân biết chữ rất thấp, nhưng phong trào dân chủ Đông Dương vẫn diễn ra mạnh mẽ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương. Điều này cho thấy rằng, ngay cả khi điều kiện nhận thức còn hạn chế, những hoạt động chính trị và xã hội vẫn có thể thu hút sự tham gia của đông đảo quần chúng. Ngày nay, khi quyền con người được công nhận và tôn trọng, các chính đảng và phong trào xã hội sẽ phải nỗ lực hơn nữa trong việc lôi kéo và thuyết phục người dân, không chỉ dựa vào những lý thuyết trừu tượng mà còn qua những hình thức cụ thể, gần gũi hơn với đời sống thực tiễn của họ. Tóm lại, dân chủ trực tiếp thực sự trong tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước phải là một hình thức dân chủ được xác định như là quyền của Nhân dân, quyền của công dân trong xã hội. Dân chủ trực tiếp không chỉ là sự tham gia thể hiện ý chí nguyện vọng của người dân mà còn là phương thức giám sát, phát hiện những sai lầm của cán bộ nhà nước. Đây là yêu cầu đặt ra trong một xã hội dân chủ, hiện đại. Dân chủ trực tiếp là yêu cầu phát triển của mỗi quốc gia và là xu hướng của xã hội hiện đại. Dân chủ trực tiếp là một trong những tiêu chí đánh giá mức độ phát triển của chế độ chính trị ở một quốc gia, thể hiện mức độ đảm bảo quyền chính trị của mỗi cá nhân trong xã hội. Đương nhiên, không có dân chủ tự do không có giới hạn. Dân chủ nhưng phải có kỷ cương, khuôn khổ, dân chủ phải tuân theo quy định của pháp luật. Thực tiễn cho thấy, dân chủ càng phát triển cao thì các quyền dân chủ trực tiếp của công dân càng được mở rộng và thực chất hơn.

Ở Việt Nam, với sự phát triển qua các giai đoạn lịch sử, các thành tựu kinh tế đã đưa nước ta trở thành nước có thu nhập trung bình, đời sống vật chất của người dân đã được nâng cao hơn. Những thành tựu đạt được trong lĩnh vực kinh tế tương ứng nhu cầu cao hơn về dân chủ nói chung, đặc biệt là dân chủ trực tiếp và được phản ánh qua các quyền chính trị của công dân. Đó không những là nhu cầu của người dân mà còn là cách để củng cố, bảo đảm duy trì và phát triển các thành quả về kinh tế. Vì vậy, cần thống nhất về nhận thức lý luận, đặc biệt là về tầm quan trọng của các phương thức thực hiện dân chủ trực tiếp, qua đó góp phần hoàn thiện pháp luật và thúc đẩy việc thực thi các hình thức dân chủ trực tiếp ở nước ta trong thời gian tới.

1.2. Tăng cường nhận thức về dân chủ trực tiếp cho các chủ thể có liên quan

Thực tế tại Việt Nam cho thấy rằng, những hạn chế trong pháp luật về dân chủ trực tiếp xuất phát từ nhận thức và ý thức chưa đầy đủ, thiếu nghiêm túc của một số cán bộ, cũng như sự thờ ơ và thiếu quan tâm của một bộ phận người dân. Điều này dẫn đến việc thực hiện quyền lực nhà nước chưa hoàn toàn phát huy tính dân chủ. Do đó, việc đổi mới và nâng cao nhận thức về dân chủ trực tiếp trong số cán bộ, công chức và viên chức là rất cần thiết. Họ cần tôn trọng và bảo đảm quyền tham gia của Nhân dân trong các hoạt động quản lý nhà nước, nhằm thực hiện quyền lực nhà nước một cách rõ ràng và có hiệu quả hơn. Bên cạnh đó, cũng cần tuyên truyền, giáo dục thông qua các phương tiện thông tin truyền thông để người dân hiểu rõ ý nghĩa và cách thức thực thi dân chủ trực tiếp đúng pháp luật.

Một điểm quan trọng ở đây là việc nâng cao nhận thức của đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước về thực hiện dân chủ trực tiếp nhằm thúc đẩy quá trình hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này. Có thể thấy rằng, cán bộ, công chức, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý cần phải hiểu rõ vai trò, ý nghĩa của việc phát huy dân chủ, của pháp luật về dân chủ trong hoạt động của cơ quan nhà nước cũng như của toàn xã hội, từ đó có ý thức, trách nhiệm với việc xây dựng và tổ chức thực hiện các quy phạm pháp luật liên quan đến dân chủ trực tiếp. Nâng cao nhận thức của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong vấn đề này cũng giúp tránh tình trạng vô hiệu hóa các quy định của luật, hiểu sai yêu cầu, nội dung các văn bản hướng dẫn của các cấp chính quyền gây khó khăn cho việc thực hiện quyền làm chủ của Nhân dân.

Để nâng cao nhận thức của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức về dân chủ trực tiếp, trước hết, cần phải thực hiện đánh giá tình hình, kiểm điểm và rút kinh nghiệm về việc thực hiện dân chủ trong hoạt động của các cơ quan nhà nước. Việc này có thể được thực hiện thông qua các hội nghị cán bộ, công chức hàng năm. Ngoài ra, các cơ quan nhà nước cần tổ chức các buổi thông tin chuyên đề và tập huấn về dân chủ, tập trung vào việc thực hiện dân chủ và các quy định pháp luật liên quan, đặc biệt là dân chủ trực tiếp. Để các hoạt động này đạt hiệu quả cao, cần phải có các văn bản quy phạm pháp luật quy định rõ về hình thức tổ chức các buổi sinh hoạt nêu trên, đồng thời gắn với trách nhiệm của cấp ủy Đảng và tập thể lãnh đạo ở cơ sở.

1.3. Xây dựng và thực thi pháp luật về các phương thức thực hiện dân chủ trực tiếp trên cơ sở được đảm bảo về cơ sở vật chất - kỹ thuật, nguồn nhân lực cho việc làm

Dân chủ có ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống xã hội. Tuy nhiên, để thực thi dân chủ một cách hiệu quả, đặc biệt là dân chủ trực tiếp, chúng ta cần đảm bảo những nguồn lực vật chất và các điều kiện kỹ thuật nhất định. Những yếu tố này không chỉ giúp quá trình thực thi diễn ra suôn sẻ mà còn góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả của các hoạt động dân chủ trong cộng đồng. Điều này có nghĩa là để thực hiện dân chủ hiệu quả, chúng ta không chỉ cần có tư duy và chính sách đúng đắn, mà còn cần chuẩn bị đầy đủ các nguồn lực cần thiết. Yêu cầu về nguồn lực vật chất và kỹ thuật có thể thay đổi dựa trên từng bối cảnh cụ thể, mục tiêu được đặt ra và phương thức thực hiện dân chủ trực tiếp.

Trong giai đoạn hiện nay, việc bảo đảm các điều kiện về vật chất và kỹ thuật cho phép Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước thông qua hình thức dân chủ trực tiếp là một vấn đề hết sức quan trọng trong hoạt động của toàn bộ hệ thống chính trị, từ Trung ương đến cơ sở. Điều này không thể bị coi nhẹ, bởi vì một hệ thống dân chủ hiệu quả cần có nền tảng vững chắc từ điều kiện cơ sở vật chất cho đến công nghệ hỗ trợ.

Ở Việt Nam thời gian qua các điều kiện về cơ sở vật chất và kỹ thuật đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao đời sống kinh tế xã hội cũng như việc nâng cao chất lượng của pháp luật, cũng như trong việc thực hiện các giải pháp thực tiễn. Những yếu tố này giúp đảm bảo rằng Nhân dân có thể tham gia một cách hiệu quả vào việc thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, đặc biệt là ở cấp cơ sở, nơi mà sự tham gia của người dân là thiết yếu cho sự phát triển bền vững của xã hội. Do đó, việc đầu tư và cải thiện các điều kiện này cần được xem là một ưu tiên hàng đầu để thúc đẩy dân chủ trực tiếp tại Việt Nam.

Bên cạnh đó, yếu tố vật chất, kỹ thuật ở đây không chỉ để phục vụ giải quyết các hoạt động mang tính chất nội bộ của cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật, mà còn là phương tiện giải quyết công việc có liên quan giữa các cơ quan có thẩm quyền với các cơ quan hữu quan, các tổ chức và công dân. Theo đó, trong những năm tới để phục vụ một cách hiệu quả cho quá trình hoàn thiện pháp luật và giải pháp thực tiễn nhằm đảm bảo vận hành cơ chế, các cơ quan có thẩm quyền cần phát huy tối đa khả năng khai thác, ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ, kỹ thuật, nhất là công nghệ thông tin, hệ thống mạng điện tử để giải quyết các mối quan hệ nội bộ, cũng như giải quyết các quan hệ với công dân, tổ chức nhằm đổi mới phương pháp, tiến độ, chất lượng, hiệu quả của quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật về dân chủ trực tiếp. Một ví dụ trong việc này đó là có thể nghiên cứu thí điểm tổ chức một số hình thức dân chủ trực tiếp trên mạng Internet, chẳng hạn như bỏ phiếu điện tử trong các cuộc bầu cử, trưng cầu ý dân và bãi miễn đại biểu dân cử... Trên thế giới đã có nhiều nước áp dụng các hình thức dân chủ điện tử (e-democracy) như vậy, vì thế Việt Nam cần tham khảo kinh nghiệm để có thể áp dụng những yếu tố hợp lý, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của nước ta trong xây dựng và thực thi pháp luật về dân chủ trực tiếp.

2. Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng và các đoàn thể nhân dân trong xây dựng và thực thi pháp luật về dân chủ trực tiếp

2.1. Nâng cao hiệu quả sự lãnh đạo của Đảng trong xây dựng và thực hiện pháp luật về dân chủ trực tiếp

Để đảm bảo sự phát triển bền vững và hiệu quả, việc đổi mới phương thức hoạt động của tổ chức Đảng ở tất cả các cấp là điều cần thiết trong quá trình lãnh đạo Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước thông qua hình thức dân chủ trực tiếp.

Trước hết, việc cải cách phương thức lãnh đạo của Đảng không chỉ có liên quan đến nội dung mà còn cả hình thức, đóng vai trò là giải pháp hàng đầu và quyết định trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền cũng như nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Cải cách này bao gồm việc hoàn thiện cơ chế để Nhân dân có thể thực hiện quyền lực nhà nước một cách hiệu quả thông qua dân chủ trực tiếp.

Các công cụ chính đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị hiện nay gồm có chủ trương, đường lối, công tác cán bộ và công tác chỉ đạo, kiểm tra của Đảng. Trong bối cảnh từng giai đoạn cách mạng, những yếu tố này cần thiết phải được đổi mới để phù hợp với yêu cầu phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập và phát triển hiện nay.

Các chính sách, chủ trương đường lối về phát huy dân chủ, trong đó có dân chủ trực tiếp và lãnh đạo quá trình thể chế hóa các chủ trương trong thời gian qua đã được Đảng và Nhà nước quan tâm, một số văn bản đã được ban hành thông qua việc tổng kết thực tiễn trong từng giai đoạn về những vấn đề có tính cấp thiết ở cơ sở (như Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 08/02/1998 của Bộ Chính trị về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, Chỉ thị số 10-CT/TW ngày 28/3/2003 của Ban Bí thư về tiếp tục đẩy mạnh xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, Kết luận số 65-KL/TW ngày 04/3/2010 của Ban Bí thư về thực hiện Chỉ thị số 10-CT/TW của Bộ Chính trị...). Bên cạnh đó, Đảng cũng đưa ra những chỉ đạo cụ thể qua việc Đảng đoàn Quốc hội, Ban cán sự Đảng Chính phủ báo cáo Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương xin ý kiến về quan điểm xây dựng các luật điều chỉnh các hình thức, phương thức thực hành dân chủ trực tiếp như trưng cầu ý dân, bầu cử... đến việc đưa ra những định hướng tổng thể cho việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, như Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020 đã đặt ra mục tiêu đến năm 2020, tạo được “... cơ chế để nhân dân thực hiện đầy đủ quyền làm chủ, nhất là dân chủ trực tiếp...”. Như vậy, có thể thấy vấn đề đổi mới trong khâu xây dựng chủ trương, đường lối của Đảng ở đây chính là năng lực tổng kết thực tiễn, dự báo tốt và nắm chắc xu thế vận động, phát triển khách quan của tình hình chính trị - kinh tế - xã hội của đất nước trong bối cảnh chung của thế giới ở mỗi giai đoạn, trên cơ sở đó kịp thời sửa đổi, bổ sung các chủ trương, chính sách cho phù hợp với tình hình thực tiễn. Công tác này cần tiếp tục được thực hiện trong thời gian tới, trên cơ sở phát huy những kết quả đã đạt được và khắc phục những hạn chế đang còn tồn tại.

2.2. Nâng cao vai trò của các đoàn thể nhân dân trong tham gia xây dựng và thực hiện pháp luật về dân chủ trực tiếp

Thực tiễn cho thấy cần thiết phải đổi mới vai trò, chức năng và nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng các đoàn thể nhân dân, tổ chức chính trị - xã hội trong việc tham gia xây dựng và thực hiện dân chủ trực tiếp. Để củng cố cơ sở pháp lý cho Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức này thực hiện chức năng giám sát theo tinh thần Hiến pháp 2013, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam 2015 đã bổ sung chương riêng về hoạt động giám sát. Tuy nhiên, cần nghiên cứu phát triển hoạt động giám sát này thành một đạo luật riêng (Luật về Giám sát nhân dân) để giúp Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể khác thực hiện chức năng giám sát hiệu quả hơn. Từ góc nhìn rộng hơn, hiện nay ở nước ta đã có rất nhiều tổ chức chính trị - xã hội dưới các hình thức hội, liên hiệp hội... đã được thành lập theo nhu cầu của Đảng, Nhà nước và nhu cầu của xã hội. Vì vậy, trong thời gian tới, cần tập trung vào một số giải pháp sau đây:

Thứ nhất, nâng cao hơn nữa vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân và các tổ chức chính trị - xã hội trước Đảng, trước Nhân dân trong công tác giám sát. Các chủ thể như Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội các cấp cần phải xác định công tác giám sát là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài, quan trọng của công tác Mặt trận, của công tác đoàn thể, tổ chức mình. Hàng năm, phải có chương trình, kế hoạch công tác giám sát một cách cụ thể, chi tiết trên cơ sở bám sát sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng gắn liền với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị ở địa phương, đồng thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng và những bức xúc xung quanh những ý kiến, kiến nghị của các tầng lớp nhân dân. Hoạt động giám sát phải được thực hiện một cách thiết thực, hiệu quả, không chạy theo hình thức.

Thứ hai, phương thức phối hợp giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với các đoàn thể nhân dân, tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức thành viên khác của Mặt trận Tổ quốc và giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với các cơ quan nhà nước cùng với việc tăng cường sự tham gia của Nhân dân trong hoạt động giám sát cần phải đổi mới. Theo đó, cần có những quy định pháp lý cụ thể điều chỉnh mối quan hệ giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với các tổ chức thành viên và giữa các tổ chức thành viên với nhau trong việc hiệp thương, phối hợp hành động để thực hiện các nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, trong đó có việc phối hợp thực hiện nhiệm vụ giám sát. Bên cạnh đó, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, các tổ chức chính trị - xã hội cần phải đổi mới hình thức, nội dung tiếp xúc, sâu sát hơn với các tầng lớp nhân dân, đoàn viên, hội viên để lắng nghe ý kiến phản ánh của Nhân dân, của hội viên, đoàn viên đối với hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, công chức nhà nước.

3. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về dân chủ trực tiếp

3.1. Pháp luật về bầu cử

Bầu cử là hoạt động hình thành nên các cơ quan đại diện trong hầu hết các nhà nước hiện đại. Kết quả bầu cử sẽ mang lại hiệu quả thiết thực, có giá trị trong việc xây dựng bộ máy công quyền. Vì vậy, yêu cầu đặt ra của chế độ bầu cử phải ngày càng được xây dựng và thực hiện hoàn thiện, chặt chẽ và dân chủ hơn. Do tính chất quan trọng của cuộc bầu cử, nên chế độ bầu cử và việc tổ chức bầu cử luôn là vấn đề được rất nhiều các lực lượng, tổ chức, cá nhân quan tâm. Pháp luật về bầu cử cần hoàn thiện một số chế định như:

Thứ nhất, cần tiếp tục hướng dẫn chi tiết các quy định trong Luật Bầu cử liên quan đến quyền bầu cử của cử tri, bao gồm: Quy trình “đi bỏ phiếu nơi khác” để cử tri đảm bảo quyền bầu cử khi di chuyển; Xóa tên cử tri tại nơi cư trú và ghi danh vào danh sách nơi tạm trú khi cử tri muốn bầu ở đó nhưng chưa đủ 12 tháng tạm trú; Hướng dẫn cụ thể về việc xóa tên cử tri trong danh sách.

Thứ hai, hoàn thiện hơn nữa về hiệp thương giới thiệu người ứng cử. Trong hệ thống chính trị nước ta do một Đảng lãnh đạo, hiệp thương giới thiệu người ứng cử thông qua Mặt trận Tổ quốc là cơ chế duy nhất để phát huy dân chủ trong bầu cử. Tuy nhiên, hiện nay trong công tác hiệp thương bầu cử còn có những hạn chế chưa được khắc phục kịp thời, đòi hỏi phải có những giải pháp đổi mới quy trình hiệp thương theo hướng dân chủ hơn nữa.

Cần xem việc sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật về hiệp thương là một nội dung cốt yếu trong đổi mới chế độ bầu cử hiện nay, và việc này cần được thực hiện theo hướng: Đề cao trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc các cấp, vai trò của Nhân dân và vai trò, trách nhiệm người ứng cử; Bảo đảm công khai, minh bạch trong quy trình, thủ tục hiệp thương, thống nhất áp dụng hình thức biểu quyết bằng bỏ phiếu kín; Có cơ chế tạo thêm sự chủ động cho địa phương trong dự kiến cơ cấu, thành phần đại biểu và bảo đảm tôn trọng giá trị pháp lý của các bước hiệp thương.

Thứ ba, pháp luật cần có quy định trách nhiệm phổ biến, giáo dục pháp luật của các cơ quan nhà nước cho mọi công dân về vai trò, ý thức trách nhiệm của cử tri trong việc bầu cử đại biểu đồng thời quy định chế độ thông tin hai chiều giữa cử tri và người ứng cử. Cử tri phải được cung cấp thông tin trung thực, trực tiếp từ các ứng cử viên, đặc biệt là các khả năng, năng lực, kế hoạch hoạt động cho nhiệm kỳ tương lai, những lợi ích mà người dân có được khi lựa chọn các ứng cử viên đó. Cử tri cần phải được bảo đảm các cơ hội và điều kiện thuận lợi cho việc trao đổi, kiểm tra, chất vẫn đối với các ứng cử viên trước khi quyết định bỏ phiếu. Vì thế, trong các cuộc bầu cử, thông tin về ứng cử viên đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cần được công khai trước cử tri càng sớm và càng rộng rãi càng tốt.

Thứ tư, tiếp tục nghiên cứu thêm về việc bầu cử của công dân Việt Nam đang sinh sống, lao động, học tập ở nước ngoài. Việc bảo đảm để công dân Việt Nam ở nước ngoài thực hiện quyền bầu cử có thể thực hiện bằng các biện pháp như tổ chức bầu cử tại Đại sứ quán, Lãnh sự quán Việt Nam tại nước có công dân Việt Nam sinh sống hoặc bỏ phiếu bằng thư hoặc thông qua phương tiện điện tử.

3.2. Pháp luật về bãi nhiệm đại biểu dân cử

Về mặt lý luận cũng như thực tiễn, chế độ bãi nhiệm đại biểu cũng có ý nghĩa chính trị và pháp lý quan trọng như chế độ cử tri bầu ra người đại biểu của mình. Vì vậy, chế độ bãi nhiệm đại biểu dân cử cũng cần phải được quy định một cách rõ ràng và đầy đủ trong pháp luật, đặc biệt là về thủ tục bãi nhiệm.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 40 Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014, sửa đổi, bổ sung năm 2020 thì việc bãi nhiệm đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được quy định cụ thể như sau: “Đại biểu Quốc hội không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của Nhân dân thì bị Quốc hội hoặc cử tri bãi nhiệm”. Tuy nhiên, trên thực tế, có những đại biểu đã không còn được tín nhiệm thì cử tri chưa có cơ chế tự bãi nhiệm.

Hiến pháp năm 2013 quy định rằng, nếu đại biểu Quốc hội hoặc đại biểu Hội đồng nhân dân không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của Nhân dân, họ có thể bị bãi nhiệm theo mức độ sai phạm, do Quốc hội, Hội đồng nhân dân hoặc cử tri thực hiện (khoản 2 Điều 7). Điều này khẳng định rằng cử tri có quyền bãi nhiệm các đại biểu khi họ không còn đủ tư cách. Cử tri được định nghĩa là công dân đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của Luật Bầu cử năm 2015 và có trách nhiệm tham gia bỏ phiếu bãi nhiệm. Những cử tri này chính là những người đã tham gia bầu cử đại biểu cho mình vào đầu nhiệm kỳ, ngoại trừ một số trường hợp đặc biệt như cử tri tạm trú, sinh viên, hoặc lực lượng vũ trang có thay đổi nơi cư trú so với khi lập danh sách cử tri.

Theo Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014, sửa đổi, bổ sung năm 2020 thì Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có quyền đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định đưa ra để Quốc hội hoặc cử tri nơi bầu ra đại biểu bãi nhiệm đại biểu Quốc hội (khoản 6 Điều 54). Theo Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, 2019 thì Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp có quyền để nghị Thường trực Hội đồng nhân dân quyết định việc đưa ra Hội đồng nhân dân hoặc cử tri bãi nhiệm đại biểu Hội đồng nhân dân (khoản 2 Điều 102). Như vậy, theo pháp luật hiện hành thì quyền đề nghị bãi nhiệm đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân không thuộc về cử tri mà thuộc về Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp. Nội dung này cần được điều chỉnh để bổ sung quyền của cử tri được trực tiếp đề nghị bãi nhiệm đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân. Việc cử tri trực tiếp đề nghị bãi nhiệm đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân là sự phản ánh rõ ràng nhất quyền dân chủ trực tiếp trong bầu cử. Việc này cần được tiến hành ở đơn vị bầu cử nơi đại biểu đó được bầu hoặc nơi đại biểu đó đang sinh hoạt Đoàn đại biểu Quốc hội, Tổ đại biểu Hội đồng nhân dân.

Bên cạnh đó, việc bổ sung quyền cho cử tri đề nghị bãi nhiệm đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân yêu cầu sự tôn trọng quyền cá nhân và nhóm cá nhân trong quá trình này. Để đảm bảo tính minh bạch và công bằng, pháp luật cần quy định cụ thể số lượng chữ ký cử tri cần thu thập trước khi đề nghị bãi nhiệm được xem xét. Trong bối cảnh hiện nay, cá nhân hoặc nhóm đề xuất cần phải gửi đề nghị đến Ủy ban Thường vụ Quốc hội kèm theo danh sách cử tri đã ký tên đồng ý sau khi thu thập đủ số lượng chữ ký theo quy định.

Sau khi nhận được đề nghị, Ủy ban Thường vụ Quốc hội có trách nhiệm xác minh danh sách cử tri và quyết định tiếp nhận đề nghị bãi nhiệm nếu nó phù hợp với quy định pháp luật. Nếu không tiếp nhận, Ủy ban phải cung cấp văn bản giải thích rõ lý do, với lý do phải phù hợp với các quy định pháp luật có liên quan, nhằm đảm bảo sự minh bạch và công bằng trong quy trình bãi nhiệm.

Khác với các bản Hiến pháp trước đây của nước ta, khoản 1 Điều 117 Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung thiết chế Hội đồng bầu cử quốc gia, theo đó “Hội đồng bầu cử quốc gia là cơ quan do Quốc hội thành lập, có nhiệm vụ tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội; chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp”. Quy định này của Hiến pháp năm 2013 đã liệt kê các nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng bầu cử quốc gia, nhưng trong đó không có nhiệm vụ, quyền hạn ấn định và công bố ngày bỏ phiếu bãi nhiệm đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh. Vì vậy, cần bổ sung quy định Hội đồng bầu cử quốc gia có thẩm quyền ấn định và công bố ngày bỏ phiếu bãi nhiệm đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân.

Đối với việc tổ chức việc bỏ phiếu bãi nhiệm đại biểu Quốc hội của cử tri, cần kế thừa và phát triển các quy định đã có trong Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội năm 1980. Đầu tiên, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh sẽ thành lập Ban tổ chức bãi nhiệm, bao gồm từ bảy đến chín thành viên, với các chức vụ như Trưởng ban, Phó Trưởng ban, Thư ký và các Ủy viên đại diện cho Ủy ban nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, cùng một số cơ quan và tổ chức liên quan ở cấp tỉnh.

Tiếp theo, Ủy ban nhân dân xã, phường hoặc cấp tương đương sau khi có sự thống nhất với Thường trực Hội đồng nhân dân và Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp, sẽ tiến hành thành lập Tổ công tác bãi nhiệm tại mỗi khu vực bỏ phiếu. Tổ này sẽ gồm từ ba đến năm thành viên, với vai trò Tổ trưởng, Thư ký và các Ủy viên đại diện cho các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội và tổ chức xã hội, cũng như đại diện cử tri địa phương. Tổ công tác này sẽ đảm nhiệm việc tổ chức bỏ phiếu bãi nhiệm đại biểu Quốc hội và lập biên bản kiểm phiếu.

Như vậy, thông qua việc phân chia thành từng cấp tổ chức và quy định rõ ràng về thành phần, chúng ta có thể đảm bảo rằng quy trình bãi nhiệm đại biểu Quốc hội diễn ra một cách hiệu quả và hợp lý.

Đối với việc cử tri bãi nhiệm đại biểu Hội đồng nhân dân, việc cử tri bãi nhiệm đại biểu Hội đồng nhân dân là một quy trình quan trọng trong công tác quản lý địa phương. Trên cơ sở quy định của Quy chế hoạt động của Hội đồng nhân dân năm 2005, cần có những quy định cụ thể nhằm đảm bảo tính hợp pháp và hiệu quả trong công tác này.

Cụ thể, khi thực hiện bỏ phiếu bãi nhiệm đại biểu Hội đồng nhân dân cấp nào, Ủy ban nhân dân cấp đó sẽ sau khi thống nhất với Thường trực Hội đồng nhân dân và Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tiến hành thành lập Ban tổ chức bãi nhiệm. Ban tổ chức này sẽ có từ bảy đến chín người, trong đó có các chức vụ như Trưởng ban, Phó Trưởng ban, Thư ký, cùng với các Ủy viên đại diện cho Ủy ban nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và một số tổ chức thành viên của Mặt trận tại địa phương.

Tiếp theo, Ủy ban nhân dân cấp xã cũng sẽ theo quy trình tương tự, sau khi đạt được sự thống nhất với Thường trực Hội đồng nhân dân và Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp, sẽ thành lập ở mỗi khu vực bỏ phiếu một Tổ công tác bãi nhiệm. Tổ này sẽ có từ năm đến bảy người, bao gồm Tổ trưởng, Thư ký và các Ủy viên là đại diện cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, cũng như đại diện cử tri địa phương. Tổ công tác này sẽ có nhiệm vụ tổ chức việc bỏ phiếu bãi nhiệm đại biểu Hội đồng nhân dân và lập biên bản kiểm phiếu.

Ngoài ra, trong mỗi khu vực bỏ phiếu, đơn vị vũ trang cũng sẽ thành lập một Tổ công tác bãi nhiệm từ năm đến bảy người để hỗ trợ công tác này.

Như vậy, thông qua việc quy định rõ ràng về cấu trúc và trách nhiệm của từng tổ chức, quy trình bãi nhiệm đại biểu Hội đồng nhân dân sẽ được thực hiện một cách có hệ thống và hiệu quả.

Thứ năm, đối với chế độ làm việc, nhiệm vụ và quyền hạn của các tổ chức phụ trách công tác bỏ phiếu bãi nhiệm cần phải được quy định một cách rõ ràng và cụ thể. Đầu tiên, các tổ chức này nên hoạt động theo chế độ tập thể, tương tự như quy định trong pháp luật về bầu cử hiện hành. Cụ thể, các cuộc họp của những tổ chức phụ trách công tác bỏ phiếu bãi nhiệm đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân chỉ được tiến hành khi có ít nhất hai phần ba tổng số thành viên tham dự. Các quyết định trong các cuộc họp này sẽ được thông qua khi có quá nửa tổng số thành viên biểu quyết tán thành. Điều này đảm bảo tính chất dân chủ trong các quyết định của tổ chức. Ban tổ chức và Tổ công tác bỏ phiếu bãi nhiệm cũng nên có các nhiệm vụ và quyền hạn giống như Ban tổ chức và Tổ bầu cử, để đảm bảo sự đồng bộ và nhất quán trong quy trình.

Cuối cùng, quy trình thành lập khu vực bỏ phiếu bãi nhiệm, việc xác định kết quả và công bố kết quả bỏ phiếu, cũng như giải quyết các khiếu nại và tố cáo, cũng cần phải được quy định tương tự như các quy định hiện hành trong pháp luật về bầu cử.

Tóm lại, các quy định này sẽ góp phần tạo ra một hệ thống bỏ phiếu bãi nhiệm rõ ràng và hiệu quả, dựa trên các nguyên tắc đã được áp dụng trong lĩnh vực bầu cử.

3.3. Pháp luật trưng cầu ý dân

Luật Trưng cầu ý dân năm 2015 đã củng cố cơ sở pháp lý để người dân thực hiện quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân. Trên thực tế, cho đến nay ở nước ta vẫn chưa có một cuộc trưng cầu ý dân nào được Nhà nước tổ chức. Điều này là do Luật Trưng cầu ý dân năm 2015 còn nhiều quy định chưa cụ thể. Vì vậy, để Luật được áp dụng trong thực tiễn, cần sớm ban hành nghị định hướng dẫn thi hành về các trình tự, thủ tục thực hiện trưng cầu ý dân.

Ở góc độ rộng hơn, qua nghiên cứu thực tiễn cũng như tham khảo kinh nghiệm quốc tế về vấn đề này, để hoàn thiện pháp luật về trưng cầu ý dân, hoàn thiện các chế định này theo đó:

Một là, để đảm bảo quyền đề xuất trưng cầu ý dân của Nhân dân và cử tri, trước hết, cần nhận thấy rằng mọi cuộc trưng cầu ý dân đều phải bắt đầu từ một sáng kiến trưng cầu. Sáng kiến này chính là cơ sở để hình thành một cuộc trưng cầu ý dân trong tương lai. Hiện nay, Luật Trưng cầu ý dân năm 2015 quy định rằng quyền đề nghị Quốc hội xem xét, quyết định việc trưng cầu ý dân chỉ thuộc về Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ hoặc ít nhất là một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội. Điều này cho thấy rằng Nhân dân và cử tri không có quyền chủ động đề xuất trưng cầu ý dân.

Việc không quy định quyền đề xuất trưng cầu ý dân cho Nhân dân và cử tri là không phù hợp với tinh thần và các nguyên tắc của dân chủ trực tiếp, một trong những biểu hiện rõ ràng của nền dân chủ này. Tại Việt Nam, điều này còn là nguyên nhân khiến cho việc thực hiện dân chủ trực tiếp của Nhân dân trở nên hạn chế trên thực tế.

Do đó, để khắc phục tình trạng này, Nhà nước cần thiết phải nghiên cứu và sửa đổi Luật Trưng cầu ý dân năm 2015. Việc bổ sung quyền cho Nhân dân và cử tri được trực tiếp đề xuất trưng cầu ý dân về những vấn đề đã được luật định sẽ tạo ra cơ sở vững chắc cho việc tham gia của người dân. Song song đó, nhà nước cũng nên ban hành các văn bản pháp quy chi tiết để cụ thể hóa quy trình và thủ tục cho phép người dân thực hiện quyền này, từ đó nâng cao tính dân chủ trong xã hội.

Hai là, quy định cụ thể quyết định và hiệu lực của trưng cầu ý dân: Hiến pháp năm 2013 quy định Quốc hội quyết định việc trưng cầu ý dân (khoản 15 Điều 70), nhưng cũng trong Hiến pháp lại quy định mọi công việc của Nhà nước được giao cho các cơ quan nhà nước (bao gồm Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ,...) quyết định. Thêm vào đó, trong trường hợp tổ chức trưng cầu ý dân, vấn đề đưa ra trưng cầu ý dân được người dân trực tiếp bỏ phiếu song, thẩm quyền quyết định có đưa một vấn đề ra trưng cầu ý dân hay không lại thuộc về một số cơ quan nhà nước. Như vậy, câu hỏi đặt ra là nếu cơ quan nhà nước có thẩm quyền không thực thi nhiệm vụ, quyền hạn của mình như đã được quy định trong Hiến pháp, cụ thể là không đưa vấn đề ra trưng cầu ý dân, hoặc cố ý đưa vấn đề không cần thiết ra trưng cầu để Nhân dân quyết định thì có trái với quy định của Hiến pháp hay không?

Ngoài ra, pháp luật hiện hành chưa quy định cụ thể về giá trị của kết quả trưng cầu ý dân. Luật Trưng cầu ý dân năm 2015 chỉ quy định: “Ủy ban Thường vụ Quốc hội có trách nhiệm báo cáo Quốc hội về kết quả trưng cầu ý dân tại kỳ họp gần nhất. Căn cứ vào kết quả trưng cầu ý dân, Quốc hội quyết định các biện pháp cần thiết để bảo đảm thực hiện kết quả trưng cầu ý dân” (Điều 49). Quy định này có thể dẫn đến cách hiểu là kết quả trưng cầu ý dân sẽ được báo cáo Quốc hội để xem xét và Quốc hội có quyền chấp nhận hay không chấp nhận kết quả đó; quyết định của Quốc hội mới là quyết định cuối cùng, còn ý chí của Nhân dân biểu hiện ở kết quả trưng cầu ý dân chỉ có ý nghĩa để các cơ quan nhà nước tham khảo. Đây là một vấn đề quan trọng đòi hỏi cần sửa đổi, bổ sung Luật Trưng cầu ý dân năm 2015 và các luật chuyên ngành có liên quan để làm rõ.

Từ các lý thuyết về chủ quyền của Nhân dân và các lý thuyết khác về dân chủ, dân chủ trực tiếp, có thể thấy rằng các vấn đề nêu trên cần được xử lý theo hướng quy định nghĩa vụ bắt buộc của các cơ quan nhà nước trong việc đưa vấn đề ra trưng cầu ý dân nếu như vấn đề đó đáp ứng các yêu cầu của Luật. Thêm vào đó, cần quy định hiệu lực bắt buộc của trưng cầu ý dân - bởi điều đó liên quan đến cốt lõi của các nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân và là bản chất của dân chủ trực tiếp. Trong trường hợp tham vấn, lấy ý kiến Nhân dân thì Nhà nước cần tổ chức dưới những hình thức khác và phải nêu rõ mục đích. 

Ba là, cách thức tổ chức trưng cầu ý dân hiện nay còn thiếu sót và chưa đủ cụ thể để thực hiện một cuộc trưng cầu ý dân trong thực tế. Mặc dù Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014, sửa đổi, bổ sung năm 2020 đã giao cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhiệm vụ tổ chức trưng cầu ý dân và phải báo cáo với Quốc hội tại kỳ họp gần nhất, các quy định này không đủ chi tiết để hướng dẫn thực tiễn.

Do đó, cần thiết phải xây dựng thêm các văn bản pháp luật cụ thể để quy định rõ ràng các vấn đề liên quan đến trưng cầu ý dân. Các quy định này nên bao gồm các thành phần thiết yếu như: trình tự và thủ tục phát hành phiếu trưng cầu, thể thức bỏ phiếu và kiểm phiếu; cách thức tổ chức bỏ phiếu; phương pháp tổng hợp và công bố kết quả; cũng như quy trình giải quyết khiếu nại và tố cáo liên quan đến cuộc trưng cầu ý dân. Những quy định chi tiết này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện trưng cầu ý dân một cách minh bạch và hiệu quả hơn.

3.4. Pháp luật về lấy ý kiến quyết định của Nhân dân ở cấp cơ sở

Pháp luật về dân chủ ở cấp cơ sở của nước ta đã khá toàn diện. Tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XV ngày 10 tháng 11 năm 2022 đã thông qua Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2023. Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở năm 2022 đề ra các quy định quan trọng liên quan đến thực hiện dân chủ tại các cơ sở. Luật này xác định rõ nội dung và cách thức thực hiện dân chủ, đồng thời quy định quyền và nghĩa vụ của công dân khi tham gia vào quá trình này. Ngoài ra, luật cũng nêu rõ trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị, tổ chức và cá nhân trong việc đảm bảo rằng dân chủ được thực hiện đầy đủ ở cơ sở.

Theo đó, việc thực hiện dân chủ không chỉ giới hạn trong các xã, phường, thị trấn mà còn mở rộng tới các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, cũng như những tổ chức có sử dụng lao động. Điều này thể hiện sự cam kết mạnh mẽ trong việc nâng cao tính dân chủ và sự tham gia của công dân ở mọi cấp độ trong xã hội.

Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở đã đưa ra 06 nguyên tắc thực hiện dân chủ, trong đó kế thừa và phát triển từ 05 nguyên tắc của Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007 (gọi tắt là Pháp lệnh 34). Với việc bổ sung một nguyên tắc mới, luật này nhấn mạnh một số nội dung quan trọng trong nguyên tắc của Pháp lệnh 34.

Cụ thể, Luật khẳng định vai trò nòng cốt của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội trong việc thực hiện dân chủ ở cơ sở. Đồng thời, nó yêu cầu bảo đảm trật tự, kỷ cương và không cản trở hoạt động bình thường của chính quyền địa phương cấp xã cũng như các cơ quan, đơn vị, tổ chức có sử dụng lao động.

Bên cạnh đó, luật còn tăng cường trách nhiệm giải trình trong quá trình thực hiện dân chủ ở cơ sở, đồng thời tôn trọng ý kiến đóng góp của Nhân dân và đảm bảo việc kịp thời giải quyết các kiến nghị, phản ánh của họ. Nhờ đó, Luật không chỉ duy trì mà còn nâng cao tính hiệu quả và đầy đủ của việc thực hiện dân chủ trong cộng đồng.

Ngoài ra, bên cạnh các quy định về những vấn đề Nhân dân bàn và quyết định trực tiếp, Luật dân chủ cơ kế thừa và phát triển các quy định về những vấn đề Nhân dân bàn, biểu quyết để chính quyền công nhận, vì đây là những vấn đề gắn liền và bổ trợ cho hình thức Nhân dân bàn và quyết định trực tiếp. Cụ thể, Luật cần quy định rõ các chủ thể có quyền để xuất những vấn đề để Nhân dân bàn, biểu quyết theo hướng người dân (cử tri) cũng có quyền này. Ngoài ra, Luật cần quy định cụ thể hơn về việc công nhận các kết quả do Nhân dân bàn, biểu quyết. Điều 16 Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007 đã quy định trong trường hợp những nội dung Nhân dân bàn, biểu quyết không được công nhận thì Ủy ban nhân dân cấp huyện hoặc cấp xã có trách nhiệm “phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do”. Tuy nhiên, pháp luật hiện chưa quy định những lý do đó là gì và trường hợp có trả lời bằng văn bản mà Nhân dân không đồng tình với lý do đó thì kết quả biểu quyết sẽ được xử lý như thế nào? Vì vậy, Luật cần quy định cụ thể hơn về những vấn đề này theo hướng chính quyền cần nêu ra những lý do cụ thể và những lý do nào mới được người dân công nhận (ví dụ như vì lý do trái Hiến pháp, pháp luật...).

Luât thực hiện dân chủ cơ sở đã tiếp tục phát huy vai trò của hương ước, quy ước. Từ góc độ dân chủ trực tiếp, hương ước, quy ước của thôn, làng, tổ dân phố, cụm dân cư thực sự là bản cam kết của toàn thể nhân dân ở địa phương, nhằm thực hiện những chuẩn mực xã hội, thực hiện các quy định của pháp luật, đấu tranh loại bỏ các hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan, các tệ nạn xã hội để thực hiện nếp sống văn minh - gia đình văn hóa, xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư. Ví dụ như quy định tại điểm h mục 1 Thông tư liên tịch số 03/2000/TTLT/BTP-BVHTT-BTTUBTUMTTQVN ngày 31/3/2000 của Bộ Tư pháp, Bộ Văn hoá - Thông tin, Ban thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hướng dẫn việc xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước của làng, bản, thôn, ấp cụm dân cư cho phép “hương ước có thể buộc thực hiện nghĩa vụ, áp dụng các biện pháp phạt nhưng không được đặt ra các biện pháp xử phạt nặng nề", nhưng vấn đề thế nào là “nặng nề” và “không nặng nề” thì chưa được làm rõ. Hơn nữa, việc đề ra các biện pháp xử phạt cần xem xét có trái với các quy định pháp luật hiện hành hay không?...

Cuối cùng, về tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của địa phương: Hiến pháp năm 2013 đã có quy định theo hướng phát huy tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của địa phương, mở ra triển vọng cho việc xác lập chế độ tự quản cho địa phương.

Đăng ký nhận email

Đăng ký email để có thể có được những cập nhật mới nhất về tải liệu được đăng tải trên website

Tập san đã phát hành