In trang này
Thứ hai, 26 Tháng 5 2025 08:15

Khái quát vai trò của Thanh tra trong kiểm soát quyền lực nhà nước theo dự thảo Luật Thanh tra sửa đổi (2025)

Việc sửa đổi, hoàn thiện Luật Thanh tra hiện hành đang đặt ra những yêu cầu cấp thiết trong bối cảnh Đảng và Nhà nước đẩy mạnh sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy hệ thống chính trị nói chung, hệ thống cơ quan thanh tra nói riêng theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả. Tuy nhiên, quá trình tổ chức thực hiện Luật Thanh tra hiện hành đã bộc lộ một số bất cập cả về mặt thể chế, tổ chức và phương thức hoạt động, cần được nghiêm túc đánh giá để có căn cứ sửa đổi toàn diện, phù hợp với yêu cầu của thời kỳ mới, đặc biệt là triển khai đồng bộ các Kết luận số 126-KL/TW[1], 127-KL/TW[2], 134-KL/TW[3] và Nghị quyết số 57-NQ/TW, Nghị quyết số 66-NQ/TW của Bộ Chính trị.

Thứ nhất, hệ thống tổ chức các cơ quan thanh tra hiện hành còn phân tán, cồng kềnh, chồng chéo chức năng, nhiệm vụ và chưa thật sự bảo đảm tính thống nhất trong tổ chức bộ máy từ trung ương đến địa phương. Theo quy định của Luật Thanh tra năm 2010 và các văn bản hướng dẫn thi hành, hiện có tới bốn loại hình cơ quan thanh tra chính: (1) Thanh tra Chính phủ; (2) Thanh tra bộ, ngành; (3) Thanh tra tỉnh, huyện; (4) Thanh tra chuyên ngành và thanh tra nội bộ. Sự phân tầng này, trong điều kiện tổ chức bộ máy hành chính địa phương hai cấp còn đang trong quá trình sắp xếp lại theo Kết luận số 126-KL/TW, dễ dẫn đến việc trùng lặp trong hoạt động thanh tra, lãng phí nguồn lực, giảm hiệu năng kiểm soát quyền lực nhà nước. Chẳng hạn, theo Báo cáo số 1159/BC-TTCP năm 2024 của Thanh tra Chính phủ, trong tổng số hơn 6.300 cuộc thanh tra toàn quốc, có đến 21% nội dung bị trùng lặp với hoạt động của kiểm toán, thanh tra nội bộ hoặc cơ quan kiểm tra Đảng, gây lãng phí nguồn lực và làm giảm hiệu lực quản trị.

Thứ hai, khái niệm về hoạt động thanh tra và phạm vi điều chỉnh của Luật hiện hành còn thiếu nhất quán. Luật Thanh tra năm 2010 vẫn phân biệt giữa thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành, nhưng thực tiễn cho thấy ranh giới giữa hai loại thanh tra này ngày càng mờ nhạt, không phù hợp với yêu cầu hiện đại hóa phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước. Điều này dẫn đến việc các cơ quan thanh tra khó xác định căn cứ pháp lý chung để tổ chức hoạt động, nhất là trong môi trường quản trị công tích hợp hiện nay. Việc Dự thảo Luật mới đề xuất quy định một khái niệm thống nhất về “thanh tra” là bước đi đúng hướng, song cần tiếp tục rà soát để bảo đảm sự đồng bộ với Luật Tổ chức chính quyền địa phương và Luật Cán bộ, công chức.

Thứ ba, quy định hiện hành về trách nhiệm thi hành kết luận thanh tra còn mang tính hình thức, chưa bảo đảm tính ràng buộc pháp lý và cơ chế cưỡng chế hiệu quả. Theo kết quả khảo sát năm 2023 của Viện Nghiên cứu lập pháp (thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội), chỉ khoảng 68% kết luận thanh tra được thực hiện đầy đủ, trong đó phần lớn các trường hợp chưa thực hiện rơi vào khối quản lý hành chính địa phương cấp tỉnh và huyện, cho thấy việc thiếu cơ chế gắn trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị bị thanh tra với kết quả thực hiện kết luận thanh tra. Quy định mới tại Điều 53 Dự thảo Luật về trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước là phù hợp, nhưng cần bổ sung chế tài cụ thể trong trường hợp cố tình không thực hiện hoặc né tránh thực hiện kết luận thanh tra.

Thứ tư, tình trạng chồng chéo, trùng lặp giữa hoạt động thanh tra, kiểm toán, kiểm tra Đảng và giám sát của các cơ quan dân cử chưa được xử lý dứt điểm trong Luật hiện hành. Hiện nay, chưa có cơ chế điều phối thống nhất để bảo đảm một nội dung, một đối tượng chỉ chịu một cuộc kiểm tra, thanh tra, kiểm toán nhất định trong cùng một thời kỳ. Việc này không chỉ gây phiền hà cho tổ chức, cá nhân chịu sự kiểm tra mà còn ảnh hưởng đến tính chính xác và hiệu quả của hoạt động kiểm soát quyền lực. Khoản 1 Điều 56 Dự thảo Luật Thanh tra sửa đổi có quy định về nguyên tắc xử lý chồng chéo giữa các cơ quan thanh tra, kiểm toán, nhưng vẫn chưa hình thành được cơ chế điều phối mang tính bắt buộc, có hiệu lực pháp lý.

Thứ năm, hoạt động thanh tra nội bộ trong các cơ quan đặc thù như Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Kiểm toán Nhà nước hiện vẫn vận hành theo quy định riêng, chưa có cơ chế phối hợp, chia sẻ thông tin và giám sát lẫn nhau. Điều này tạo nên những “vùng trống” trong cơ chế kiểm soát quyền lực nội bộ, đặc biệt khi gắn với yêu cầu minh bạch, công khai và chuyển đổi số trong quản trị nhà nước theo tinh thần Nghị quyết số 57-NQ/TW và Nghị quyết 66-NQ/TW. Dự thảo Luật mới đã nêu vấn đề này tại khoản 2 Điều 61, song cần bổ sung cơ chế kiểm tra chéo, giám sát độc lập, và yêu cầu báo cáo định kỳ để nâng cao trách nhiệm giải trình và kiểm soát quyền lực trong các cơ quan hiến định độc lập.

Từ những bất cập nêu trên, có thể thấy rằng, việc sửa đổi, hoàn thiện Luật Thanh tra không chỉ nhằm hoàn thiện thể chế pháp luật về thanh tra, mà còn là điều kiện tiên quyết để triển khai hiệu quả các chủ trương lớn của Đảng về sắp xếp, tinh gọn bộ máy hệ thống chính trị, nâng cao năng lực kiểm soát quyền lực, tăng cường phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong bối cảnh mới. Để bảo đảm tiến độ, Bộ Chính trị tại Kết luận số 134-KL/TW đã yêu cầu hoàn thành việc sửa đổi, bổ sung pháp luật chậm nhất vào ngày 30/6/2025, đây là một mốc thời gian mang tính chất quyết định để hiện thực hóa yêu cầu cải cách thể chế quốc gia.

1. Khái quát về hoạt động thanh tra trong tiến trình hoàn thiện tổ chức bộ máy nhà nước theo hướng sắp xếp tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả

Thanh tra là một trong những chức năng cơ bản và không thể thiếu trong quản lý nhà nước, phản ánh quyền năng giám sát của Nhà nước đối với hoạt động thực thi quyền lực công, đồng thời là công cụ quan trọng để bảo đảm kỷ cương, pháp chế, phòng ngừa vi phạm, tiêu cực, góp phần nâng cao hiệu quả thực thi chính sách, pháp luật. Theo Luật Thanh tra năm 2022, tại khoản 1 Điều 2, "Thanh tra là hoạt động xem xét, đánh giá, xử lý theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định của cơ quan thực hiện chức năng thanh tra đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân", bao gồm thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành. Tuy nhiên, trong bối cảnh cả nước đang triển khai thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm được xác lập tại Kết luận số 126-KL/TW[4], 127-KL/TW[5] và đặc biệt là Kết luận số 134-KL/TW[6] của Bộ Chính trị năm 2025 về việc sắp xếp lại tổ chức bộ máy các cơ quan thanh tra theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, thì việc nhận diện rõ bản chất, chức năng và định hướng hoàn thiện pháp luật về thanh tra là hết sức cấp thiết.

Từ góc độ pháp lý, thuật ngữ "thanh tra" có nguồn gốc từ tiếng Latinh “inspectorate” - nghĩa là “nhìn vào bên trong”, phản ánh chức năng kiểm tra, giám sát, phát hiện và xử lý vi phạm. Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, hoạt động thanh tra được thiết lập như một thiết chế mang tính quyền lực nhà nước, gắn liền với quyền kiểm tra, phát hiện, xử lý vi phạm trong khuôn khổ chức năng quản lý nhà nước. Hoạt động thanh tra nhà nước khác biệt về bản chất và thẩm quyền so với thanh tra nhân dân hoặc thanh tra nội bộ ở các doanh nghiệp nhà nước và đơn vị sự nghiệp công. Đây là hình thức giám sát chính thức, do cơ quan có thẩm quyền thực hiện, mang tính quyền lực công, chịu trách nhiệm trước Đảng, Nhà nước và Nhân dân.

Theo quy định của Luật Thanh tra năm 2022, thanh tra nhà nước bao gồm hai loại chính: (i) Thanh tra hành chính, hướng tới việc kiểm tra, đánh giá việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc quyền quản lý của cơ quan hành chính nhà nước; (ii) Thanh tra chuyên ngành, tập trung vào việc kiểm tra sự tuân thủ pháp luật chuyên ngành, các quy định về chuyên môn, kỹ thuật trong phạm vi ngành, lĩnh vực cụ thể. Đây là cơ sở để bảo đảm việc phân công, phân cấp rõ ràng, đồng thời tránh chồng chéo giữa các hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát, vốn là một tồn tại dai dẳng trong thực tiễn hiện nay.

Trong bối cảnh thực hiện đồng bộ Luật Tổ chức chính quyền địa phương hai cấp và yêu cầu cải cách tổ chức bộ máy hệ thống chính trị, các Kết luận của Bộ Chính trị đã xác định rõ yêu cầu sắp xếp hệ thống cơ quan thanh tra theo hai cấp: Trung ương và địa phương. Kết luận 134-KL/TW nhấn mạnh: “Đồng ý chủ trương sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy hệ thống cơ quan thanh tra theo 2 cấp ở Trung ương và địa phương”, đồng thời giao nhiệm vụ cho Đảng ủy Chính phủ, Đảng ủy Quốc hội, Đảng ủy Thanh tra Chính phủ phối hợp với các cơ quan liên quan rà soát, hoàn thiện các luật, quy định liên quan, bảo đảm chức năng xử phạt vi phạm hành chính được quy định, thực hiện hiệu lực, hiệu quả. Theo đó, việc tổ chức lại hệ thống cơ quan thanh tra phải bảo đảm yêu cầu về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn rõ ràng, tổ chức bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, gắn với ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển đổi số trong quản trị công.

Thực hiện chỉ đạo này, Dự thảo Luật Thanh tra sửa đổi năm 2025 đã đưa ra một số nội dung quan trọng. Cụ thể, tại Điều 7, Dự thảo đã xác lập hệ thống cơ quan thanh tra bao gồm: (1) Thanh tra Chính phủ; (2) Thanh tra tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; (3) Các cơ quan thanh tra trong Quân đội nhân dân, Công an nhân dân, Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan thanh tra khác theo quy định của Chính phủ; (4) Thanh tra cơ yếu; và (5) Thanh tra được thành lập theo điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Cách quy định này phù hợp với xu hướng tinh gọn, rút gọn tầng nấc tổ chức và thực hiện phân cấp rõ ràng, góp phần giảm thiểu chồng chéo chức năng giữa các cơ quan trong hệ thống chính trị.

Một điểm nổi bật trong Dự thảo là quy định tại khoản 1 Điều 2 về khái niệm “thanh tra” được sửa đổi theo hướng thống nhất một loại hình thanh tra thay vì tách biệt hành chính và chuyên ngành. Điều này nhằm thiết lập cơ chế thanh tra đồng bộ về trình tự, thủ tục, phương pháp, hướng tới xây dựng cơ quan thanh tra chuyên nghiệp, hiệu quả. Việc hợp nhất quy trình thanh tra giúp tăng cường tính công khai, minh bạch, hạn chế hiện tượng lạm dụng quyền lực hoặc trùng lặp trong kiểm tra, giám sát.

Song song với việc thiết lập hệ thống tổ chức hợp lý, Dự thảo Luật cũng đặt trọng tâm vào quy định về trách nhiệm thực hiện kết luận thanh tra. Cụ thể, khoản 3 Điều 53 quy định: “Đối tượng thanh tra có trách nhiệm thực hiện việc khắc phục sai phạm về kinh tế, xử lý cán bộ, công chức, viên chức vi phạm pháp luật nêu trong kết luận thanh tra; báo cáo kết quả đến cơ quan ban hành kết luận. Trường hợp có vướng mắc thì báo cáo cơ quan ban hành kết luận để trình Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp xem xét, xử lý”. Quy định này có ý nghĩa then chốt nhằm khắc phục tình trạng “kết luận thanh tra không được thực thi”, đây là một hiện tượng phổ biến và gây bức xúc trong dư luận.

Về xử lý trùng lặp, chồng chéo giữa thanh tra và kiểm toán, kiểm tra chuyên ngành, Dự thảo Luật đã có điều chỉnh tại khoản 1 Điều 56: “Khi phát hiện chồng chéo, trùng lặp, cơ quan thanh tra phối hợp với kiểm toán nhà nước để xử lý, bảo đảm một nội dung hoạt động chỉ là đối tượng của một cơ quan thanh tra hoặc kiểm toán”. Đây là bước tiến quan trọng trong việc cải cách thể chế kiểm soát quyền lực, tránh lạm dụng quyền kiểm tra, gây phiền hà cho đối tượng chịu thanh tra, kiểm tra, một vấn đề tồn tại lâu dài trong quá trình thực hiện cải cách hành chính.

Đặc biệt, vấn đề thanh tra nội bộ cũng được Dự thảo Luật bổ sung tại Điều 61. Theo đó, thanh tra nội bộ được tổ chức nhằm kiểm soát rủi ro, phòng ngừa sai phạm trong nội bộ cơ quan, tổ chức, đơn vị sự nghiệp công lập, đảm bảo hoạt động đúng chức năng, quyền hạn được giao. Dự thảo Luật đưa ra nguyên tắc hoạt động của thanh tra nội bộ bảo đảm không trùng lặp chức năng với cơ quan thanh tra nhà nước, đồng thời gắn kết chặt chẽ với cơ chế giám sát nội bộ theo hướng hiệu quả, tiết kiệm.

Trong bối cảnh xây dựng chính quyền số, xã hội số như định hướng tại Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024, hoạt động thanh tra cũng cần được chuyển đổi theo hướng số hóa quy trình, nâng cao tính minh bạch, hiệu quả, đặc biệt là trong việc xây dựng cơ sở dữ liệu thanh tra thống nhất toàn quốc, ứng dụng trí tuệ nhân tạo, phân tích dữ liệu lớn trong phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Số liệu từ Thanh tra Chính phủ cho thấy, trong năm 2024, các cơ quan thanh tra đã tiến hành gần 6.000 cuộc thanh tra hành chính và trên 180.000 cuộc thanh tra chuyên ngành, phát hiện sai phạm về kinh tế trên 80.000 tỷ đồng, kiến nghị xử lý hành chính hơn 9.000 tập thể, cá nhân vi phạm. Tuy nhiên, tỷ lệ thực hiện kết luận thanh tra mới đạt khoảng 82%, cho thấy còn khoảng trống đáng kể về thực thi, yêu cầu phải có cơ chế giám sát thực hiện kết luận chặt chẽ hơn.

Như vậy, việc hoàn thiện thể chế pháp luật về thanh tra phải đặt trong tổng thể cải cách tổ chức bộ máy chính quyền địa phương hai cấp theo Luật Tổ chức chính quyền địa phương và tinh thần các Kết luận 126-KL/TW, 127-KL/TW, 134-KL/TW của Bộ Chính trị. Đây không chỉ là yêu cầu kỹ thuật về hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn là nhiệm vụ chính trị cấp bách nhằm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, liêm chính và phục vụ Nhân dân. Việc rà soát, sửa đổi Luật Thanh tra cần hoàn tất theo đúng tiến độ Bộ Chính trị yêu cầu, chậm nhất vào ngày 30/6/2025, bảo đảm hệ thống thanh tra hoạt động chuyên nghiệp, thống nhất, hiện đại, lấy người dân và pháp quyền làm trung tâm của quản trị công.

2. Vai trò của thanh tra trong cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước Việt Nam hiện nay

Kiểm soát quyền lực nhà nước là một nguyên tắc cốt lõi trong xây dựng và vận hành Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quan điểm này đã được Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định một cách nhất quán trong các văn kiện nền tảng như Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XII và XIII. Trong đó, Đảng nhấn mạnh vai trò thiết yếu của cơ chế kiểm soát quyền lực nhằm bảo đảm quyền lực nhà nước được thực thi đúng mục tiêu, không bị tha hóa, lạm dụng, góp phần phòng, chống quan liêu, tham nhũng, tiêu cực, đảm bảo tính liêm chính và hiệu quả của bộ máy công quyền.

Với chủ trương nêu trên, Hiến pháp năm 2013 đã hiến định hóa nguyên tắc kiểm soát quyền lực nhà nước tại khoản 3 Điều 2, theo đó: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến nước ta, vấn đề kiểm soát quyền lực được chính thức ghi nhận như một nguyên tắc tổ chức và vận hành nhà nước. Điều này không chỉ có ý nghĩa về mặt pháp lý mà còn mang tính định hướng chiến lược, xác lập cơ sở chính trị pháp lý cho việc tiếp tục hoàn thiện hệ thống thiết chế và cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước theo hướng dân chủ, hiệu lực và hiệu quả.

Trong bối cảnh hiện nay, yêu cầu kiểm soát quyền lực nhà nước càng trở nên cấp thiết khi quá trình chuyển đổi số, cải cách hành chính, tinh gọn bộ máy và xây dựng chính phủ điện tử, chính quyền số đang diễn ra mạnh mẽ. Đặc biệt, theo tinh thần các Kết luận số 126-KL/TW ngày 14/02/2025, 127-KL/TW ngày 28/02/2025 và 134-KL/TW ngày 28/3/2025 của Bộ Chính trị, các nhiệm vụ về sắp xếp lại tổ chức bộ máy hệ thống chính trị, trong đó có hệ thống cơ quan thanh tra, được xác định là nội dung trọng yếu cần triển khai khẩn trương, toàn diện và đồng bộ, bảo đảm yêu cầu “tinh gọn, mạnh, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả”, gắn với cải cách thể chế và đổi mới phương thức kiểm soát quyền lực.

Trong hệ thống các thiết chế kiểm soát quyền lực nhà nước bên trong bộ máy hành chính, cơ quan thanh tra đóng vai trò đặc biệt quan trọng, giữ vị trí là thiết chế hành pháp thực hiện chức năng thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ công vụ của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong khu vực công. Hoạt động thanh tra góp phần kịp thời phát hiện sai phạm, kiến nghị xử lý, ngăn ngừa tái phạm và chấn chỉnh những bất cập trong điều hành quản lý nhà nước, từ đó bảo đảm quyền lực nhà nước được thực thi trong khuôn khổ pháp luật, vì lợi ích quốc gia, dân tộc và quyền lợi chính đáng của nhân dân.

Tính đến năm 2024, theo báo cáo của Thanh tra Chính phủ, toàn ngành đã triển khai hơn 6.300 cuộc thanh tra hành chính, gần 160.000 cuộc thanh tra, kiểm tra chuyên ngành; phát hiện sai phạm kinh tế hơn 54.000 tỷ đồng và gần 3.000 ha đất; kiến nghị xử lý trách nhiệm gần 2.000 tập thể, cá nhân và chuyển cơ quan điều tra 417 vụ việc có dấu hiệu hình sự. Những con số này phần nào phản ánh vai trò thực tiễn không thể thay thế của hoạt động thanh tra trong cơ chế kiểm soát quyền lực ở nước ta.

Tuy nhiên, thực tiễn cũng cho thấy còn không ít bất cập trong tổ chức và hoạt động của cơ quan thanh tra, như tình trạng chồng chéo, trùng lặp trong hoạt động thanh tra với kiểm toán, kiểm tra chuyên ngành; sự thiếu nhất quán trong quy trình, thẩm quyền, phạm vi giữa các cơ quan thanh tra; sự phụ thuộc về tổ chức, nhân sự vào cơ quan hành chính cùng cấp... Những hạn chế này nếu không được khắc phục kịp thời sẽ làm suy giảm hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước, đồng thời ảnh hưởng đến niềm tin của người dân đối với công lý, pháp luật và bộ máy công quyền.

Xuất phát từ yêu cầu đó, việc xây dựng và hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về tổ chức, hoạt động của cơ quan thanh tra đang được đặt ra như một ưu tiên lập pháp cấp thiết. Trong thời gian qua, thực hiện nhiệm vụ được giao tại các Kết luận 126-KL/TW, 127-KL/TW và 134-KL/TW, Thanh tra Chính phủ đã chủ trì, phối hợp với các cơ quan hữu quan xây dựng dự thảo Luật Thanh tra (sửa đổi), với nhiều nội dung quan trọng nhằm thể chế hóa các chủ trương lớn của Đảng, đồng thời khắc phục những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn thi hành pháp luật hiện hành.

Một trong những nội dung trọng tâm của Dự thảo là việc tái cấu trúc hệ thống tổ chức thanh tra theo hướng tinh gọn, hiệu quả. Theo Điều 7 dự thảo Luật Thanh tra sửa đổi, hệ thống cơ quan thanh tra nhà nước bao gồm: (1) Thanh tra Chính phủ; (2) Thanh tra tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; (3) Các cơ quan thanh tra thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan thanh tra khác do Chính phủ quy định; (4) Thanh tra Cơ yếu; (5) Các cơ quan thanh tra thành lập theo điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Cấu trúc này cơ bản đáp ứng yêu cầu tổ chức lại hệ thống thanh tra theo hai cấp (Trung ương và địa phương), đúng theo tinh thần chỉ đạo tại Kết luận 134-KL/TW.

Đáng chú ý, dự thảo Luật cũng đưa ra nhiều cải tiến về kỹ thuật lập pháp như: quy định thống nhất một loại hình hoạt động thanh tra thay vì phân biệt thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành như hiện nay; chuẩn hóa trình tự, thủ tục tiến hành thanh tra; xác định rõ trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước trong việc thực hiện kết luận thanh tra; thiết lập cơ chế phối hợp hiệu quả giữa thanh tra và kiểm toán nhằm tránh trùng lặp, lãng phí nguồn lực; quy định rõ ràng về thanh tra nội bộ trong các thiết chế tư pháp và kiểm toán nhằm đảm bảo nguyên tắc phân quyền và độc lập trong giám sát nội bộ.

Đặc biệt, dự thảo Luật bổ sung quy định cụ thể về trách nhiệm thi hành kết luận thanh tra (khoản 3 Điều 53), theo đó: "Đối tượng thanh tra có trách nhiệm thực hiện việc khắc phục sai phạm, xử lý cán bộ, công chức, viên chức vi phạm, báo cáo kết quả đến cơ quan thanh tra; nếu có khó khăn thì báo cáo để trình cấp có thẩm quyền xem xét, xử lý". Quy định này bảo đảm tính bắt buộc, ràng buộc pháp lý trong khâu thi hành, tránh tình trạng “kết luận để đấy”, làm suy giảm tính nghiêm minh của pháp luật.

Song song với quá trình hoàn thiện thể chế, việc sắp xếp, tinh gọn bộ máy cơ quan thanh tra tại địa phương theo Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019) và các chỉ đạo mới của Đảng cần được triển khai chặt chẽ, đồng bộ, bảo đảm phù hợp với đặc điểm tổ chức hành chính hai cấp (cấp tỉnh và cấp xã). Theo đó, tổ chức thanh tra cần được định vị là thiết chế trọng yếu trong bộ máy hành chính địa phương, vừa có tính độc lập trong chuyên môn, nghiệp vụ, vừa chịu sự chỉ đạo về chính trị, điều hành về hành chính của cấp ủy và chính quyền địa phương. Việc phân định rạch ròi giữa chức năng thanh tra và kiểm tra nội bộ trong các sở, ngành, phòng ban là điều kiện cần để tránh trùng lặp, xung đột thẩm quyền, đồng thời củng cố tính khách quan, công minh trong hoạt động kiểm soát quyền lực.

Kiểm soát việc thực hiện quyền hành pháp là một trong những nội dung cốt lõi nhằm bảo đảm nguyên tắc thượng tôn pháp luật và hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Trong bối cảnh tiếp tục sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy theo tinh thần các Kết luận số 126-KL/TW, 127-KL/TW và 134-KL/TW của Bộ Chính trị, đồng thời gắn với yêu cầu chuyển đổi số và nâng cao hiệu quả công vụ được xác định tại Nghị quyết số 57-NQ/TW và Nghị quyết số 66-NQ/TW, vai trò của các cơ quan thanh tra hành chính càng trở nên trọng yếu trong việc thực hiện cơ chế kiểm soát quyền lực trong lĩnh vực hành pháp.

Trước hết, kiểm soát quyền hành pháp được thực hiện thông qua hoạt động thanh tra, đây được xem là một cơ chế tự kiểm tra nội bộ của hệ thống hành chính nhà nước. Theo quy định tại Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2019), các cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương đều có trách nhiệm tổ chức thực hiện và giám sát việc thi hành pháp luật. Trong đó, hoạt động thanh tra là công cụ chủ yếu để phát hiện, xử lý vi phạm, điều chỉnh kịp thời sai phạm trong thi hành công vụ, từ đó góp phần hoàn thiện cơ chế, chính sách pháp luật.

Kết luận số 134-KL/TW ngày 28/3/2025 đặc biệt nhấn mạnh yêu cầu sắp xếp hệ thống cơ quan thanh tra "tinh, gọn, mạnh, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả". Trên cơ sở đó, cần thiết kế lại tổ chức và chức năng của cơ quan thanh tra theo hướng nâng cao tính độc lập, bảo đảm tính chuyên nghiệp và tăng cường năng lực dự báo, phân tích, đánh giá chính sách. Các cơ quan thanh tra cần được trao quyền hạn đầy đủ để thực hiện chức năng giám sát, kiểm tra việc thực thi pháp luật và đánh giá mức độ tuân thủ, hiệu quả thi hành chính sách, pháp luật tại các cấp chính quyền.

Theo báo cáo của Thanh tra Chính phủ năm 2022, toàn ngành đã triển khai 8.514 cuộc thanh tra hành chính và 222.629 cuộc thanh tra, kiểm tra chuyên ngành. Qua đó, đã phát hiện sai phạm về kinh tế hơn 85.998 tỷ đồng và 8.777 ha đất, kiến nghị thu hồi 26.654 tỷ đồng và 574 ha đất, xử phạt vi phạm hành chính với tổng số tiền 5.641 tỷ đồng. Đồng thời, 451 vụ việc và 295 đối tượng đã được chuyển sang cơ quan điều tra để xem xét, xử lý theo quy định pháp luật. Những con số này cho thấy vai trò ngày càng rõ nét của thanh tra trong việc kiểm soát quyền lực hành pháp, bảo đảm tính liêm chính trong bộ máy công quyền.

Tiếp theo, một hình thức kiểm soát quyền lực quan trọng khác là hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo. Hiến pháp năm 2013 quy định rõ tại Điều 30 rằng công dân có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về các hành vi vi phạm pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Thực tiễn cho thấy, hoạt động tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo không chỉ góp phần bảo vệ quyền lợi chính đáng của người dân mà còn là kênh thông tin phản ánh hiệu quả công tác thi hành công vụ, là công cụ giám sát từ xã hội đối với quyền lực hành pháp.

Cơ quan thanh tra các cấp thực hiện nhiệm vụ tiếp công dân, xác minh, kết luận và xử lý theo quy định của pháp luật. Theo Thanh tra Chính phủ, trong năm 2022, thông qua giải quyết khiếu nại, tố cáo, đã kiến nghị thu hồi 8,5 tỷ đồng, 8,3 ha đất; trả lại cho cá nhân, tổ chức 42,7 tỷ đồng, 17 ha đất; bảo đảm quyền lợi cho 559 cá nhân, 22 tổ chức; kiến nghị xử lý hành chính 516 người, trong đó có 428 cán bộ, công chức; đồng thời chuyển cơ quan điều tra 32 vụ, 31 đối tượng. Những số liệu này cho thấy hiệu quả thiết thực của công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo trong việc thực thi quyền kiểm soát quyền lực hành pháp.

Bên cạnh đó, kiểm soát quyền hành pháp còn được thực hiện thông qua hoạt động quản lý nhà nước đối với công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng. Để bảo đảm hiệu quả hoạt động của hệ thống thanh tra, cần hoàn thiện thể chế, nâng cao chất lượng ban hành văn bản quy phạm pháp luật, tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật, đặc biệt là trong bối cảnh chuyển đổi số và cải cách hành chính toàn diện. Việc áp dụng công nghệ thông tin trong hoạt động thanh tra, xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu quản lý thống nhất, tích hợp với hệ thống quản trị quốc gia số là những yêu cầu cấp thiết hiện nay.

Tuy nhiên, bên cạnh các kết quả tích cực, hoạt động kiểm soát quyền hành pháp của cơ quan thanh tra vẫn còn tồn tại những hạn chế, yếu kém. Cụ thể, hoạt động thanh tra chưa có tính dự báo, còn tập trung nhiều vào xử lý vi phạm mà chưa chú trọng vào đề xuất hoàn thiện chính sách, pháp luật. Việc xem xét, đánh giá việc thi hành công vụ chưa kịp thời, thiếu tính thường xuyên. Hoạt động tự kiểm tra trong nội bộ cơ quan thanh tra còn yếu, tính độc lập trong hoạt động chưa cao do phụ thuộc vào thủ trưởng cơ quan hành chính cùng cấp về tổ chức, nhân sự, tài chính...

Nguyên nhân của các hạn chế nêu trên được xác định là do bất cập trong hệ thống pháp luật về tổ chức và hoạt động của cơ quan thanh tra; hạn chế trong nhận thức của thủ trưởng các cơ quan hành chính nhà nước về vai trò của cơ quan thanh tra; chất lượng đội ngũ công chức làm công tác thanh tra chưa cao; điều kiện bảo đảm cho hoạt động thanh tra chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ.

Trong bối cảnh đó, Kết luận số 126-KL/TW và Kết luận 127-KL/TW yêu cầu tiếp tục đổi mới tổ chức bộ máy hành chính nhà nước theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Cần thiết phải rà soát, sắp xếp lại hệ thống cơ quan thanh tra theo hướng chuyên nghiệp, tinh giản biên chế, gắn với đổi mới cơ chế tài chính và tổ chức bộ máy. Đồng thời, Luật Tổ chức chính quyền địa phương và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan cần tiếp tục được sửa đổi, bổ sung nhằm xác lập địa vị pháp lý độc lập tương đối cho các cơ quan thanh tra, tăng cường năng lực kiểm soát quyền lực trong nội bộ hệ thống hành chính.

Đặc biệt, trong bối cảnh đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia theo tinh thần Nghị quyết số 57-NQ/TW và Nghị quyết số 66-NQ/TW, hoạt động thanh tra cần áp dụng công nghệ hiện đại như trí tuệ nhân tạo, phân tích dữ liệu lớn, hệ thống cảnh báo sớm để nâng cao khả năng dự báo, phát hiện vi phạm. Việc hình thành cơ sở dữ liệu quốc gia về thanh tra, khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng có tính liên thông, đồng bộ là giải pháp mang tính đột phá trong kiểm soát quyền lực nhà nước.

Để tiếp tục phát huy vai trò trọng yếu và không thể thay thế của cơ quan thanh tra trong cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, đặc biệt trong bối cảnh Đảng và Nhà nước đang đẩy mạnh công cuộc cải cách hành chính, xây dựng bộ máy chính quyền tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cần xác lập và hoàn thiện một khuôn khổ thể chế đồng bộ, thống nhất, hiện đại về tổ chức và hoạt động thanh tra. Yêu cầu cấp thiết đặt ra là phải đổi mới căn bản tổ chức, nâng cao năng lực thể chế, bảo đảm tính khách quan, chuyên nghiệp, và tăng cường tính độc lập tương đối của cơ quan thanh tra nhà nước theo hướng chuyên sâu, chuyên nghiệp, không chồng chéo chức năng, nhiệm vụ với các cơ quan kiểm tra, kiểm toán, giám sát khác trong hệ thống chính trị.

Bên cạnh đó, cần chủ động tích hợp mạnh mẽ công nghệ số trong toàn bộ quy trình thanh tra, kiểm tra, xử lý và giám sát việc thực hiện kết luận thanh tra; bảo đảm tính công khai, minh bạch, thuận lợi trong tiếp cận thông tin và kiểm tra chéo từ phía công chúng, đồng thời củng cố cơ chế trách nhiệm giải trình đối với hoạt động thanh tra hành chính. Việc đẩy mạnh chuyển đổi số, xây dựng hệ thống thanh tra điện tử thống nhất, liên thông trong phạm vi cả nước là giải pháp có tính đột phá, góp phần nâng cao hiệu quả giám sát quyền hành pháp trong điều kiện chuyển đổi số quốc gia.

Triển khai nghiêm túc và đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp nêu trong các Kết luận số 126-KL/TW, 127-KL/TW, 134-KL/TW, Nghị quyết số 57-NQ/TW và Nghị quyết số 66-NQ/TW của Bộ Chính trị sẽ là nền tảng pháp lý và chính trị vững chắc để củng cố vai trò nòng cốt của cơ quan thanh tra trong bảo vệ tính liêm chính, công lý và pháp chế xã hội chủ nghĩa của quyền lực nhà nước, đồng thời góp phần hiện thực hóa mục tiêu xây dựng nền hành chính phục vụ, kiến tạo phát triển, minh bạch và hiện đại trong giai đoạn mới.

3. Vai trò của thanh tra trong cơ chế phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay

Vai trò của cơ quan thanh tra trong công tác phòng, chống tham nhũng và yêu cầu sửa đổi, hoàn thiện pháp luật về thanh tra

Tham nhũng, với bản chất là sự lạm dụng quyền lực nhằm thu lợi cá nhân, gây tổn hại nghiêm trọng đến lợi ích chung của Nhà nước và xã hội, là một trong những nguy cơ lớn nhất đe dọa sự ổn định và phát triển bền vững của đất nước. Do vậy, công tác phòng, chống tham nhũng phải được đặt ở vị trí trung tâm trong chiến lược xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh và củng cố niềm tin của nhân dân đối với các thiết chế nhà nước. Trong bối cảnh đó, vai trò của cơ quan thanh tra, với chức năng là thiết chế chuyên trách thực hiện hoạt động kiểm tra, giám sát, phát hiện và xử lý các hành vi tham nhũng, tiêu cực, có ý nghĩa then chốt và không thể thay thế trong cơ chế phòng, chống tham nhũng quốc gia.

Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) đã khẳng định vai trò chủ động của cơ quan thanh tra trong việc phát hiện hành vi tham nhũng thông qua hoạt động thanh tra, kiểm toán. Theo quy định tại Điều 60, cơ quan thanh tra, kiểm toán nhà nước chịu trách nhiệm phát hiện, xử lý hoặc kiến nghị xử lý các hành vi tham nhũng theo thẩm quyền và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về các quyết định của mình. Tiếp nối quan điểm này, Luật Thanh tra năm 2022 quy định rõ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn, cơ quan thanh tra có trách nhiệm thực hiện công tác thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, đồng thời chủ động tham gia phòng, chống tham nhũng, tiêu cực theo quy định của pháp luật (Điều 5).

Vai trò của thanh tra trong phòng, chống tham nhũng thể hiện không chỉ ở việc phát hiện và xử lý hành vi vi phạm, mà còn ở khả năng kiến nghị hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách nhằm phòng ngừa và ngăn chặn tham nhũng một cách toàn diện. Qua hoạt động thanh tra, các sơ hở, bất cập trong quản lý nhà nước, trong tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật được phát hiện kịp thời, từ đó đề xuất các biện pháp sửa đổi, bổ sung để tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước và nâng cao trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.

Công tác thanh tra phòng, chống tham nhũng còn góp phần quan trọng trong việc kiểm soát quyền lực nhà nước, hạn chế nguy cơ lạm dụng quyền lực, đây là căn nguyên của tham nhũng. Khi thanh tra được tổ chức hiệu quả, đúng quy định pháp luật, cơ quan thanh tra trở thành cơ quan giám sát quyền lực công, phát hiện các hành vi vi phạm, buộc các chủ thể có chức trách phải chịu trách nhiệm, đồng thời góp phần xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh, tạo niềm tin trong nhân dân.

Nhận thức rõ tầm quan trọng này, Bộ Chính trị, Ban Bí thư trong Kết luận số 126-KL/TW ngày 14/02/2025 về một số nội dung, nhiệm vụ tiếp tục sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy hệ thống chính trị năm 2025, Kết luận số 127-KL/TW ngày 28/02/2025 về triển khai nghiên cứu, đề xuất tiếp tục sắp xếp tổ chức bộ máy hệ thống chính trị, và đặc biệt Kết luận số 134-KL/TW ngày 28/03/2025 về đề án sắp xếp hệ thống cơ quan thanh tra tinh, gọn, mạnh, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, đã chỉ rõ yêu cầu trọng tâm trong việc rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật nhằm xây dựng tổ chức bộ máy cơ quan thanh tra phù hợp với yêu cầu đổi mới, đáp ứng nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng trong giai đoạn mới. Đồng thời, Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia cũng nhấn mạnh sự cần thiết ứng dụng công nghệ hiện đại trong hoạt động thanh tra, góp phần nâng cao hiệu quả, minh bạch và giảm thiểu tiêu cực, tham nhũng trong bộ máy nhà nước.

Theo đó, công tác hoàn thiện hệ thống pháp luật về thanh tra cần được thực hiện theo hướng vừa đảm bảo tính khoa học, khả thi, vừa phù hợp với yêu cầu tinh gọn tổ chức bộ máy theo quy định tại Luật tổ chức chính quyền địa phương hai cấp và các kết luận của Bộ Chính trị. Việc sửa đổi, bổ sung Luật Thanh tra phải hướng đến mục tiêu xây dựng một hệ thống thanh tra thống nhất, hiệu lực, hiệu quả, đủ năng lực phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở các cấp, các ngành.

Cụ thể, dự thảo Luật Thanh tra sửa đổi cần quy định rõ và đồng bộ về cơ cấu tổ chức bộ máy thanh tra gồm Thanh tra Chính phủ, Thanh tra tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các cơ quan thanh tra chuyên ngành khác theo phân cấp, phân quyền phù hợp, nhằm tạo nên hệ thống thanh tra tỉnh tinh, gọn, mạnh, hiệu năng, hiệu lực và hiệu quả, tránh chồng chéo, trùng lặp không cần thiết. Ví dụ, Điều 7 dự thảo đã phân định rõ các cơ quan thanh tra như: Thanh tra Chính phủ, Thanh tra tỉnh/thành phố, các cơ quan thanh tra trong Quân đội, Công an, Ngân hàng Nhà nước, Thanh tra Cơ yếu và các cơ quan thanh tra được thành lập theo điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.

Về phạm vi, nội dung hoạt động thanh tra, cần sửa đổi, hoàn thiện khái niệm “thanh tra” theo hướng thống nhất hoạt động thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành thành một khái niệm duy nhất để tránh sự chồng chéo trong thực tiễn. Theo đó, dự thảo quy định: “Thanh tra là hoạt động xem xét, đánh giá, kết luận, kiến nghị xử lý của cơ quan thanh tra đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định.”. Việc này tạo thuận lợi trong thực thi, giúp nâng cao tính chuyên nghiệp, đồng bộ trong công tác thanh tra, qua đó nâng cao hiệu quả phát hiện và xử lý tham nhũng.

Quan trọng không kém là sửa đổi, bổ sung quy định về trách nhiệm của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước trong việc thực hiện kết luận thanh tra, đặc biệt trong xử lý các sai phạm về kinh tế, tham nhũng. Khoản 3 Điều 53 của dự thảo Luật quy định rõ: đối tượng thanh tra có trách nhiệm nghiêm túc thực hiện các kiến nghị khắc phục sai phạm, xử lý cán bộ, công chức vi phạm, đồng thời báo cáo kết quả thực hiện đến cơ quan thanh tra có thẩm quyền; trong trường hợp có khó khăn, vướng mắc thì phải báo cáo để được hỗ trợ xử lý kịp thời. Quy định này nhằm đảm bảo tính khả thi, hiệu lực của các kết luận thanh tra, tránh tình trạng các sai phạm, hành vi tham nhũng không được xử lý dứt điểm, gây mất lòng tin trong xã hội.

Bên cạnh đó, dự thảo Luật cũng cần hoàn thiện các quy định nhằm giải quyết triệt để tình trạng chồng chéo, trùng lặp giữa hoạt động thanh tra và kiểm toán nhà nước, tránh lãng phí nguồn lực và gây khó khăn trong thực thi. Khoản 1 Điều 56 dự thảo quy định, khi phát hiện chồng chéo, các cơ quan thanh tra và kiểm toán phối hợp chặt chẽ để xử lý, bảo đảm mỗi nội dung chỉ do một cơ quan chịu trách nhiệm kiểm tra, giám sát. Đây là giải pháp thực tiễn nhằm tăng hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng, đồng thời góp phần tinh gọn bộ máy, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước.

Ngoài ra, việc hoàn thiện quy định về thanh tra nội bộ cũng được đặt ra nhằm đảm bảo thống nhất với các quy định pháp luật hiện hành, cũng như bám sát Kết luận số 134-KL/TW về sắp xếp hệ thống cơ quan thanh tra tinh, gọn, mạnh. Khoản 2 Điều 61 dự thảo quy định rõ tổ chức và hoạt động thanh tra nội bộ tại các cơ quan như Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước phải tuân thủ quy định pháp luật, qua đó tăng cường tính minh bạch, kỷ cương trong nội bộ các cơ quan này, góp phần nâng cao hiệu quả phòng, chống tham nhũng.

Việc hoàn thiện các quy định về căn cứ ban hành quyết định thanh tra, thời gian công bố quyết định, thẩm định và ban hành kết luận thanh tra, nhiệm vụ, quyền hạn của người tiến hành thanh tra, trách nhiệm của đối tượng thanh tra và quy trình giải quyết khiếu nại trong hoạt động thanh tra cũng là những nội dung cần được sửa đổi, bổ sung nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thanh tra, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân đồng thời tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình trong hoạt động thanh tra.

Tổng thể, việc sửa đổi, hoàn thiện Luật Thanh tra theo hướng tăng cường vai trò phòng, chống tham nhũng của cơ quan thanh tra không chỉ góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác thanh tra mà còn là bước đi quan trọng trong chiến lược xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, góp phần phát triển kinh tế - xã hội bền vững, nâng cao niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị. Việc này cần được thực hiện đồng bộ, toàn diện, có lộ trình rõ ràng theo đúng yêu cầu của các Kết luận 126-KL/TW, 127-KL/TW, 134-KL/TW và Nghị quyết 66 của Bộ Chính trị, đồng thời tận dụng các thành tựu khoa học công nghệ, chuyển đổi số theo Nghị quyết 57-NQ/TW nhằm xây dựng hệ thống thanh tra hiện đại, chuyên nghiệp, đáp ứng yêu cầu trong giai đoạn phát triển mới của đất nước.

Thanh tra giữ vị trí chiến lược trong hệ thống quản lý nhà nước và là công cụ quan trọng trong công tác phòng, chống tham nhũng, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, bảo đảm quyền lợi và sự công bằng trong xã hội. Tại khoản 1 Điều 2 Dự thảo Luật Thanh tra sửa đổi năm 2025, “thanh tra” được khái quát là hoạt động xem xét, đánh giá, kết luận, kiến nghị xử lý của cơ quan thanh tra đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Việc thống nhất khái niệm và quy trình thanh tra theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, không phân biệt thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành nhằm tăng cường sự hiệu lực, hiệu quả và khả năng phát hiện, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, đặc biệt là hành vi tham nhũng.

Theo Kết luận số 126-KL/TW ngày 14/02/2025 và Kết luận số 127-KL/TW ngày 28/02/2025 của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về việc tiếp tục sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, trong đó có hệ thống cơ quan thanh tra, Bộ Chính trị xác định rõ: việc xây dựng hệ thống cơ quan thanh tra tinh gọn, mạnh, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả là nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách nhằm nâng cao năng lực kiểm soát, giám sát và phát hiện sai phạm, tham nhũng, qua đó góp phần xây dựng chính quyền kiến tạo, phục vụ người dân và doanh nghiệp. Kết luận số 134-KL/TW ngày 28/03/2025 nhấn mạnh chủ trương sắp xếp tổ chức bộ máy hệ thống cơ quan thanh tra theo mô hình hai cấp (Trung ương và địa phương), bảo đảm tính đồng bộ, xuyên suốt, tạo sự liên kết chặt chẽ giữa các cơ quan thanh tra nhằm tăng cường công tác thanh tra phòng, chống tham nhũng.

Bên cạnh đó, Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia xác định rõ chuyển đổi số trong lĩnh vực thanh tra, trong đó có việc ứng dụng công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo và dữ liệu lớn (Big Data) để nâng cao hiệu quả hoạt động phát hiện vi phạm, xử lý vụ việc tham nhũng, tạo bước đột phá trong công tác phòng, chống tham nhũng. Việc này không những giúp cơ quan thanh tra phát hiện kịp thời các dấu hiệu tham nhũng mà còn nâng cao tính minh bạch, công khai trong hoạt động thanh tra.

Nghị quyết số 66 của Bộ Chính trị năm 2025 về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật cũng nhấn mạnh vai trò không thể thiếu của thanh tra trong chu trình quản lý nhà nước, từ việc phát hiện các sơ hở, thiếu sót trong thực thi pháp luật đến kiến nghị sửa đổi, hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về phòng, chống tham nhũng, góp phần xây dựng nền pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Việt Nam.

Thực tiễn công tác thanh tra thời gian qua đã cho thấy, qua hơn 7.800 cuộc thanh tra hành chính và hơn 195.000 cuộc thanh tra, kiểm tra chuyên ngành trong năm 2022, ngành thanh tra đã phát hiện sai phạm kinh tế lên tới hơn 79 nghìn tỷ đồng, diện tích đất vi phạm hơn 10 nghìn ha; kiến nghị thu hồi trên 227 nghìn tỷ đồng, đồng thời đề xuất xử lý kỷ luật hành chính trên 9.800 tổ chức, cá nhân; chuyển cơ quan điều tra xử lý hình sự 538 vụ với 306 đối tượng. Đây là những con số minh chứng cho vai trò quan trọng và hiệu quả của cơ quan thanh tra trong phòng, chống tham nhũng và quản lý nhà nước nói chung.

Tuy nhiên, Bộ Chính trị cũng thẳng thắn chỉ ra rằng, vai trò của thanh tra trong phòng, chống tham nhũng vẫn chưa phát huy hết hiệu quả, còn tồn tại nhiều hạn chế do còn chồng chéo, phân tán giữa các cơ quan thanh tra, chưa đồng bộ về chức năng, nhiệm vụ và thiếu công cụ pháp lý đồng bộ để phát hiện, xử lý tham nhũng kịp thời, nghiêm minh. Để khắc phục, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã giao cho Đảng ủy Chính phủ, Đảng ủy Quốc hội, Đảng ủy Thanh tra Chính phủ phối hợp với các cơ quan liên quan khẩn trương rà soát, hoàn thiện các luật, quy định liên quan, trong đó có Luật Thanh tra, Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Xử lý vi phạm hành chính để đảm bảo các chức năng thanh tra, xử lý vi phạm hành chính được thống nhất, hiệu quả, minh bạch và thực sự có sức răn đe mạnh mẽ.

Dự thảo Luật Thanh tra sửa đổi năm 2025 đã được xây dựng theo định hướng đó, trong đó:

Sửa đổi quy định về tổ chức bộ máy thanh tra nhằm xây dựng hệ thống cơ quan thanh tra hai cấp tại Trung ương và địa phương, bảo đảm tính chuyên nghiệp, phối hợp chặt chẽ và tránh trùng lắp, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác phát hiện và xử lý tham nhũng kịp thời. Các cơ quan thanh tra trong các ngành, lĩnh vực trọng yếu như Quân đội, Công an, Ngân hàng, Cơ yếu cũng được tổ chức theo mô hình tinh gọn, hiệu quả.

Hoàn thiện khái niệm và phạm vi hoạt động thanh tra, không phân biệt thanh tra hành chính và chuyên ngành, đồng thời quy định chặt chẽ quy trình, thủ tục thanh tra, đảm bảo tính pháp lý minh bạch, công khai, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân bị thanh tra.

Tăng cường quy định về trách nhiệm của thủ trưởng các cơ quan, tổ chức trong việc thực hiện kết luận thanh tra, đặc biệt trong xử lý các vi phạm liên quan đến tham nhũng; đồng thời quy định rõ chế tài xử lý nếu không thực hiện hoặc cố tình trì hoãn việc khắc phục hậu quả.

Bổ sung quy định về vai trò của cơ quan thanh tra trong công tác kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn theo quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng 2018 (sửa đổi 2020). Việc kiểm soát này là một trong những công cụ quan trọng nhất để phòng ngừa và phát hiện hành vi tham nhũng, thông qua đó bảo đảm sự minh bạch, công khai và tăng cường niềm tin của nhân dân vào bộ máy nhà nước.

Đề cao vai trò của công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật phòng, chống tham nhũng, coi đây là nhiệm vụ trọng yếu của các cơ quan thanh tra nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, công chức và người dân trong việc thực hiện pháp luật, góp phần xây dựng văn hóa liêm chính trong xã hội.

Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong hoạt động thanh tra theo hướng số hóa hồ sơ, dữ liệu, xử lý thông tin và báo cáo kết quả thanh tra, giúp cơ quan thanh tra nâng cao năng lực phát hiện hành vi tham nhũng, rút ngắn thời gian xử lý, đồng thời công khai minh bạch các kết quả thanh tra để xã hội giám sát.

Quy định chế tài xử lý nghiêm minh các hành vi cản trở hoạt động thanh tra, gây khó khăn cho việc phát hiện tham nhũng, đồng thời bảo đảm quyền lợi, bảo vệ cán bộ thanh tra khi thực hiện nhiệm vụ, tránh bị đe dọa, trù dập.

Việc sửa đổi, hoàn thiện Luật Thanh tra theo các định hướng nêu trên là nhiệm vụ cấp bách, cấp thiết để nâng cao vai trò, vị trí của cơ quan thanh tra trong phòng, chống tham nhũng, phù hợp với tinh thần chỉ đạo của Bộ Chính trị tại các Kết luận 126-KL/TW, 127-KL/TW, 134-KL/TW và Nghị quyết 66-NQ/TW năm 2025. Đồng thời, đây cũng là bước chuẩn bị pháp lý quan trọng để hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật về xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách phòng, chống tham nhũng trong kỷ nguyên chuyển đổi số, phát triển khoa học, công nghệ hiện đại, góp phần xây dựng bộ máy nhà nước liêm chính, hiệu lực, hiệu quả, phục vụ nhân dân và phát triển đất nước bền vững.

Thanh tra giữ vị trí trung tâm trong hệ thống kiểm soát quyền lực nhà nước, đồng thời là công cụ quan trọng để phát hiện, ngăn chặn, xử lý các hành vi tham nhũng, tiêu cực, góp phần tăng cường minh bạch, trách nhiệm và hiệu lực quản lý của bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, trong thực tiễn triển khai công tác thanh tra tại Việt Nam hiện nay, vẫn tồn tại một số hạn chế ảnh hưởng đến hiệu quả phòng, chống tham nhũng, trong đó nổi bật là cơ chế phối hợp giữa các cơ quan chuyên trách phòng, chống tham nhũng, gồm hệ thống Đảng và các cơ quan nhà nước còn thiếu thống nhất, đồng bộ và chưa có quy định pháp luật rõ ràng, nhất là về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn. Đây chính là một trong những nguyên nhân cơ bản làm giảm hiệu quả giám sát, kiểm tra, xử lý tham nhũng trong thời gian qua.

Tại Kết luận số 126-KL/TW ngày 14/02/2025, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã chỉ rõ nhiệm vụ tiếp tục sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị năm 2025, trong đó nhấn mạnh việc rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật liên quan đến tổ chức bộ máy, trong đó có công tác thanh tra, nhằm bảo đảm hiệu lực, hiệu quả trong phòng, chống tham nhũng. Tiếp đó, Kết luận số 127-KL/TW ngày 28/02/2025 và Kết luận số 134-KL/TW ngày 28/03/2025 đã nhấn mạnh chủ trương sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy hệ thống cơ quan thanh tra ở cả Trung ương và địa phương theo mô hình 2 cấp nhằm nâng cao năng lực, hiệu quả thanh tra, tránh chồng chéo, trùng lặp trong hoạt động kiểm soát quyền lực và phòng, chống tham nhũng.

Những nội dung trên đã tạo tiền đề quan trọng để sửa đổi, hoàn thiện Luật Thanh tra theo hướng nâng cao vai trò thanh tra trong phòng, chống tham nhũng, đồng thời khắc phục những bất cập hiện có. Theo đó, dự thảo Luật Thanh tra sửa đổi có những điểm cốt lõi như sau:

Hoàn thiện tổ chức bộ máy cơ quan thanh tra theo mô hình tinh, gọn, mạnh, hiệu lực, hiệu quả Điều 7 của dự thảo Luật Thanh tra quy định thống nhất các cơ quan thanh tra bao gồm Thanh tra Chính phủ, Thanh tra tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các cơ quan thanh tra trong Quân đội, Công an, Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan thanh tra thành lập theo điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Việc quy định rõ và tập trung lực lượng thanh tra theo mô hình 2 cấp vừa tạo sự thống nhất trong tổ chức, quản lý vừa nâng cao khả năng phối hợp, chuyên môn hóa, giảm thiểu sự phân tán nguồn lực, góp phần tăng cường hiệu quả hoạt động thanh tra, nhất là trong lĩnh vực phòng, chống tham nhũng.

Sửa đổi, hoàn thiện khái niệm và phạm vi hoạt động thanh tra Khoản 1 Điều 2 dự thảo Luật quy định rõ “Thanh tra là hoạt động xem xét, đánh giá, kết luận và kiến nghị xử lý của cơ quan thanh tra đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định”. Việc không phân biệt thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành giúp thống nhất quy trình, thủ tục, tạo thuận lợi cho sự phối hợp giữa các cơ quan thanh tra và các cơ quan liên quan trong phát hiện, xử lý vi phạm, đặc biệt trong lĩnh vực phòng, chống tham nhũng.

Hoàn thiện trách nhiệm của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước trong thực hiện kết luận thanh tra Khoản 3 Điều 53 dự thảo Luật quy định rõ đối tượng thanh tra phải thực hiện khắc phục sai phạm về kinh tế, xử lý cán bộ, công chức, viên chức vi phạm theo kết luận thanh tra; đồng thời báo cáo kết quả thực hiện đến cơ quan ban hành kết luận thanh tra. Nếu có khó khăn, vướng mắc, phải báo cáo kịp thời để Thủ trưởng cơ quan quản lý cùng cấp xem xét, xử lý. Quy định này nhằm tăng cường tính ràng buộc, trách nhiệm của các đơn vị, cá nhân bị thanh tra, đồng thời tạo cơ sở pháp lý để các cơ quan thanh tra có thể giám sát chặt chẽ việc thực thi kết luận, từ đó tăng cường phòng ngừa và xử lý tham nhũng.

Giải quyết chồng chéo, trùng lặp giữa hoạt động thanh tra và kiểm toán nhà nước Theo khoản 1 Điều 56 dự thảo Luật, khi phát hiện chồng chéo, trùng lặp trong hoạt động thanh tra và kiểm toán nhà nước, các cơ quan liên quan phải phối hợp để xử lý, đảm bảo một đối tượng không bị kiểm tra, thanh tra nhiều lần với cùng nội dung. Đây là giải pháp thiết thực nhằm tăng hiệu quả công tác kiểm tra, tránh lãng phí nguồn lực và giảm thiểu sự phức tạp trong công tác phối hợp phòng, chống tham nhũng. Đồng thời, quy định về phối hợp giữa thanh tra với kiểm tra chuyên ngành và giám sát cũng được làm rõ nhằm tạo sự thống nhất trong hệ thống kiểm soát quyền lực.

Hoàn thiện quy định về thanh tra nội bộ Khoản 2 Điều 61 dự thảo Luật quy định rõ tổ chức và hoạt động thanh tra nội bộ tại các cơ quan như Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước phải tuân thủ các quy định pháp luật hiện hành. Đây là bước tiến quan trọng trong việc xây dựng hệ thống thanh tra toàn diện, từ bên ngoài đến nội bộ, góp phần tăng cường hiệu quả phát hiện và xử lý sai phạm, tham nhũng ngay từ trong nội bộ các cơ quan trọng yếu của nhà nước.

Hoàn thiện các quy định về thủ tục và quyền hạn trong hoạt động thanh tra Dự thảo Luật hoàn thiện quy định về căn cứ ban hành quyết định thanh tra, thời gian công bố quyết định thanh tra, thẩm định dự thảo kết luận thanh tra, ban hành kết luận thanh tra, nhiệm vụ, quyền hạn của người tiến hành thanh tra, trách nhiệm của đối tượng thanh tra, giải quyết khiếu nại trong hoạt động thanh tra. Những quy định này nhằm bảo đảm tính minh bạch, khách quan, công bằng trong hoạt động thanh tra, góp phần nâng cao niềm tin của xã hội đối với công tác phòng, chống tham nhũng.

Tăng cường cơ chế phối hợp giữa các cơ quan chuyên trách phòng, chống tham nhũng Một trong những điểm mấu chốt của dự thảo Luật Thanh tra là thiết lập cơ chế phối hợp hiệu quả giữa các cơ quan có thẩm quyền trong phòng, chống tham nhũng, nhất là trong việc kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn. Hiện nay, theo Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018, sửa đổi, bổ sung năm 2020 và Nghị định số 130/2020/NĐ-CP, việc phối hợp này chưa được quy định rõ, gây ra sự chồng chéo trong kiểm soát tài sản, thu nhập của các đối tượng giữ nhiều chức vụ tại tổ chức Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Dự thảo Luật Thanh tra sẽ bổ sung quy định cụ thể về phối hợp liên ngành, bảo đảm việc kiểm soát tài sản, thu nhập được thực hiện đồng bộ, hiệu quả, tránh bỏ lọt vi phạm, đồng thời tạo thuận lợi cho công tác thanh tra, kiểm tra.

Ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển đổi số trong hoạt động thanh tra Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia cũng được lồng ghép trong sửa đổi Luật Thanh tra. Việc ứng dụng công nghệ số, hệ thống thông tin điện tử trong quản lý, giám sát hoạt động thanh tra sẽ giúp tăng tính minh bạch, giảm thiểu tiêu cực và tham nhũng, đồng thời nâng cao hiệu năng, hiệu lực hoạt động thanh tra. Đây là xu hướng tất yếu, phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên số và tinh gọn bộ máy theo các Kết luận 126-KL/TW, 127-KL/TW, 134-KL/TW.

Phương hướng, tiến độ và trách nhiệm sửa đổi hoàn thiện pháp luật về thanh tra Theo chỉ đạo tại Kết luận số 126-KL/TW và các Kết luận liên quan, việc sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật liên quan đến thanh tra phải được thực hiện nghiêm túc, có lộ trình rõ ràng, báo cáo Bộ Chính trị theo tiến độ chung và hoàn thành chậm nhất ngày 30/6/2025. Công tác này do Đảng ủy Chính phủ, Đảng ủy Quốc hội, Đảng ủy Thanh tra Chính phủ chủ trì phối hợp với các cơ quan liên quan thực hiện, bảo đảm quy định pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính được thực thi hiệu quả, đồng bộ trong hệ thống cơ quan thanh tra hai cấp.

Việc sửa đổi, hoàn thiện Luật Thanh tra theo tinh thần các Kết luận và Nghị quyết của Bộ Chính trị là một bước đột phá quan trọng để nâng cao vai trò, hiệu quả của thanh tra trong phòng, chống tham nhũng. Điều này không chỉ góp phần khắc phục những hạn chế, bất cập trong cơ chế phối hợp và tổ chức bộ máy hiện hành mà còn giúp xây dựng hệ thống cơ quan thanh tra tinh, gọn, mạnh, hiệu năng, hiệu lực và hiệu quả, phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế và chuyển đổi số toàn diện. Đây cũng là giải pháp pháp lý quan trọng để thực hiện thành công các chủ trương lớn về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật, nâng cao năng lực quản lý nhà nước và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới.

4. Kết luận và đề xuất

Để bảo đảm sự tương thích và nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong thực thi nhiệm vụ kiểm soát quyền lực nhà nước và phòng, chống tham nhũng, từ đó phục vụ mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực chất, hiện đại, vững mạnh, đòi hỏi cần thiết phải sửa đổi, hoàn thiện toàn diện Luật Thanh tra năm 2022 theo tinh thần đổi mới tổ chức bộ máy và phương thức hoạt động của hệ thống thanh tra nhà nước. Trên cơ sở các chỉ đạo chiến lược tại Kết luận số 126-KL/TW, 127-KL/TW, 134-KL/TW và Nghị quyết số 66-NQ/TW, việc sửa đổi pháp luật về thanh tra không chỉ nhằm mục tiêu tinh gọn tổ chức bộ máy, mà còn tạo dựng cơ sở pháp lý vững chắc cho việc tái cấu trúc chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công vụ và trách nhiệm giải trình của cơ quan thanh tra, qua đó khẳng định vai trò then chốt của thiết chế này trong hệ thống kiểm soát quyền lực và phòng, chống tham nhũng quốc gia.

Trước hết, cần khẳng định rõ vai trò của thanh tra không chỉ giới hạn trong việc kiểm tra tính hợp pháp, hợp lý của hoạt động quản lý hành chính, mà còn phải được nâng lên thành một thiết chế trung tâm trong cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, đặc biệt là quyền lực hành chính, theo tinh thần đổi mới thể chế kiểm soát quyền lực nội tại trong bộ máy chính quyền địa phương hai cấp. Luật tổ chức chính quyền địa phương và các văn bản hướng dẫn thi hành đã xác lập quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình cao hơn cho chính quyền cấp tỉnh, cấp huyện, nhưng chính điều này cũng đòi hỏi thiết lập một cơ chế thanh tra mạnh mẽ, độc lập hơn để đối trọng quyền lực. Trong bối cảnh đó, việc giữ nguyên mô hình cơ quan thanh tra “phụ thuộc” vào thủ trưởng cơ quan hành chính cùng cấp đang làm giảm mạnh hiệu quả thực thi chức năng giám sát, điều tra và xử lý sai phạm của hệ thống thanh tra.

Theo số liệu thống kê của Thanh tra Chính phủ, năm 2023 toàn ngành đã tiến hành hơn 6.400 cuộc thanh tra hành chính và gần 260.000 cuộc thanh tra, kiểm tra chuyên ngành; phát hiện sai phạm về kinh tế trên 83.000 tỷ đồng và 5.100 ha đất, kiến nghị xử lý kỷ luật hành chính đối với hơn 2.300 tập thể, cá nhân; chuyển cơ quan điều tra 673 vụ việc có dấu hiệu hình sự. Tuy nhiên, trong các vụ án tham nhũng nghiêm trọng được Tòa án nhân dân tối cao xét xử sơ thẩm cùng năm, chỉ có khoảng 15% được phát hiện khởi nguồn từ hoạt động thanh tra, còn lại là do phản ánh của báo chí, tố cáo từ công dân hoặc điều tra độc lập của cơ quan công an. Điều này cho thấy cơ chế phát hiện từ hệ thống thanh tra tuy rộng về số lượng nhưng còn hạn chế về chất lượng, chiều sâu và khả năng tiếp cận các vụ việc nghiêm trọng, phức tạp. Đặc biệt, trong điều kiện chuyển đổi số và xã hội ngày càng đòi hỏi minh bạch, vai trò của thanh tra càng phải được tái định hình theo hướng chủ động kiểm tra, giám sát rủi ro, thay vì chỉ thụ động “vào cuộc” sau khi sự việc đã xảy ra.

Vì vậy, một trong những yêu cầu cấp bách đặt ra là hoàn thiện mô hình tổ chức và cơ chế vận hành của hệ thống thanh tra theo hướng tinh gọn, chuyên nghiệp, hoạt động độc lập, có năng lực xử lý vi phạm và phòng, chống tham nhũng thực chất. Trên cơ sở đó, cần sửa đổi Luật Thanh tra theo một số định hướng lập pháp chính sau:

Thứ nhất, xác lập tính độc lập tương đối của cơ quan thanh tra nhà nước:

Luật sửa đổi cần quy định rõ cơ quan thanh tra nhà nước không trực thuộc cơ quan hành chính cùng cấp về mặt tổ chức và hành chính, mà chịu sự chỉ đạo về chuyên môn, nghiệp vụ thống nhất của hệ thống thanh tra cấp trên, bảo đảm nguyên tắc thanh tra không bị chi phối bởi đối tượng bị thanh tra. Theo mô hình này, Chánh Thanh tra cấp tỉnh, cấp huyện cần được Quốc hội hoặc Hội đồng nhân dân cùng cấp phê chuẩn và bổ nhiệm, miễn nhiệm theo đề xuất của cơ quan thanh tra cấp trên trực tiếp, thay vì do Chủ tịch UBND bổ nhiệm như hiện nay. Cơ chế này vừa tạo sự độc lập, vừa gia tăng tính trách nhiệm giải trình trước cơ quan dân cử địa phương, đây là một nguyên tắc cơ bản trong quản trị minh bạch hiện đại.

Thứ hai, hợp nhất các lực lượng thanh tra theo hướng chuyên trách, hai cấp đồng bộ:

Thực hiện Kết luận 134-KL/TW về việc tổ chức lại hệ thống thanh tra nhà nước thành hai cấp (Trung ương và địa phương), Luật sửa đổi cần cụ thể hóa chủ trương hợp nhất các đơn vị thanh tra chuyên ngành tại địa phương vào cơ quan thanh tra cấp tỉnh, qua đó bảo đảm tính thống nhất về tổ chức, giảm chồng chéo, nâng cao hiệu quả hoạt động. Mô hình “cơ quan thanh tra hai cấp đồng bộ” sẽ xóa bỏ hiện tượng thanh tra dàn trải, thiếu phối hợp và bị phân mảnh như hiện nay, đồng thời thúc đẩy việc chuyên môn hóa công chức thanh tra theo lĩnh vực (kinh tế, đất đai, đầu tư công, nội vụ...), từ đó tăng cường năng lực phát hiện sai phạm chuyên sâu.

Thứ ba, tái cấu trúc quan hệ công vụ, trách nhiệm giải trình và quyền hạn của cơ quan thanh tra:

Luật sửa đổi cần quy định rõ quyền hạn của cơ quan thanh tra trong việc yêu cầu cung cấp thông tin, tạm đình chỉ công tác cán bộ khi cần thiết để bảo đảm quá trình xác minh, điều tra, cũng như quyền chuyển hồ sơ cho cơ quan điều tra mà không cần thông qua thủ trưởng cơ quan hành chính. Cùng với đó, trách nhiệm giải trình kết quả thanh tra phải được quy định minh bạch: kết luận thanh tra có tính chất bắt buộc thực hiện, công khai toàn bộ trên nền tảng số quốc gia, trừ trường hợp đặc biệt theo luật định. Việc thực hiện kết luận thanh tra phải được Hội đồng nhân dân, Quốc hội giám sát trực tiếp để tăng cường trách nhiệm của cả cơ quan thanh tra và cơ quan bị thanh tra.

Thứ tư, phát triển năng lực số và chuyển đổi số trong hoạt động thanh tra:

Theo tinh thần Nghị quyết 57-NQ/TW và Nghị quyết 66-NQ/TW, Luật sửa đổi cần bổ sung các quy định về xây dựng cơ sở dữ liệu thanh tra toàn quốc, tích hợp dữ liệu từ các hệ thống tài chính, đất đai, đầu tư công, tài sản cán bộ, kết quả giám sát từ các bộ ngành để phục vụ cảnh báo sớm và phát hiện vi phạm. Cơ quan thanh tra phải trở thành một trung tâm phân tích dữ liệu quản trị công hiện đại, vận hành trên nền tảng số, với khả năng tự động hóa việc giám sát, phân tích rủi ro và đưa ra khuyến nghị chính sách. Đây là bước đột phá cần thiết nhằm phù hợp với yêu cầu quản lý nhà nước trong kỷ nguyên số và hiện thực hóa mục tiêu “chính phủ liêm chính, kiến tạo, hành động”.

Thứ năm, cơ chế giám sát đối với chính cơ quan thanh tra:

Thanh tra có quyền lực, và nơi có quyền lực thì cần kiểm soát quyền lực. Do đó, cần quy định cơ chế giám sát chéo đối với hoạt động của chính cơ quan thanh tra, ví dụ như thanh tra chuyên đề của Thanh tra Chính phủ đối với thanh tra địa phương; giám sát thường xuyên của Ủy ban Tư pháp Quốc hội; báo cáo công khai kết quả hoạt động định kỳ trước Quốc hội, Hội đồng nhân dân, nhân dân địa phương. Các quy định về công khai tài sản, thu nhập của cán bộ thanh tra cũng cần chặt chẽ hơn các ngành khác để phòng ngừa xung đột lợi ích.

Thứ sáu, xây dựng thiết chế thanh tra dân cử (Ombudsman) ở cấp trung ương và địa phương:

Kết luận 127-KL/TW đã nhấn mạnh yêu cầu nâng cao vai trò kiểm soát quyền lực từ bên trong hệ thống chính trị. Vì vậy, có thể nghiên cứu quy định trong Luật sửa đổi một thiết chế thanh tra độc lập do Quốc hội hoặc HĐND thành lập, tương đương Thanh tra Quốc hội ở một số nước phát triển, làm đầu mối tiếp nhận phản ánh, khiếu nại về lạm quyền, tham nhũng của công chức, cán bộ nhà nước. Đây sẽ là kênh kiểm soát quyền lực từ góc độ dân chủ nhân dân, giúp củng cố niềm tin của người dân đối với hệ thống kiểm soát nội tại của nhà nước.

Tóm lại, để thực hiện hiệu quả các định hướng lớn của Đảng theo Kết luận 126-KL/TW, 127-KL/TW, 134-KL/TW và Nghị quyết 66-NQ/TW, việc sửa đổi toàn diện Luật Thanh tra là đòi hỏi cấp bách, bảo đảm cho hệ thống cơ quan thanh tra trở thành thiết chế kiểm soát quyền lực mạnh, minh bạch, chuyên nghiệp, phục vụ hữu hiệu cho công cuộc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và thúc đẩy cải cách hành chính, phát triển bền vững chính quyền địa phương hai cấp trong bối cảnh hội nhập và chuyển đổi số. Luật mới cần không chỉ là văn bản điều chỉnh kỹ thuật thanh tra, mà còn là đạo luật nền tảng định hình lại cơ chế kiểm soát quyền lực trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện đại.


[1] Kết luận số 126-KL/TW ngày 14/02/2025 của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về một số nội dung, nhiệm vụ tiếp tục sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị năm 2025.
[2] Kết luận 127-KL/TW của Bộ Chính trị, Ban Bí thư ngày 28/2/2025 về triển khai nghiên cứu, đề xuất tiếp tục sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị.
[3] Kết luận số 134-KL/TW, ngày 28/3/2025 của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về Đề án sắp xếp hệ thống cơ quan thanh tra tinh, gọn, mạnh, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả.
[4] Kết luận số 126-KL/TW ngày 14/02/2025 của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về một số nội dung, nhiệm vụ tiếp tục sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị năm 2025.
[5] Kết luận 127-KL/TW của Bộ Chính trị, Ban Bí thư ngày 28/2/2025 về triển khai nghiên cứu, đề xuất tiếp tục sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị.
[6] Kết luận số 134-KL/TW, ngày 28/3/2025 của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về Đề án sắp xếp hệ thống cơ quan thanh tra tinh, gọn, mạnh, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả.