1. Mười nguyên lý kinh tế học phân tích cơ sở hiệu chỉnh chính sách thuế và chi tiêu công cho bảo vệ môi trường
Nhà kinh tế học Mankiw đã đưa ra 10 nguyên lý kinh tế học sau đây:
- Con người đối mặt với đánh đổi;
- Chi phí của một thứ là giá phải trả để có được thứ đó;
- Con người hợp lý suy nghĩ điểm cận biên;
- Con người phản ứng các kích thích;
- Thị trường luôn là phương thức tốt để tổ chức các hoạt động kinh tế;
- Đôi khi chính phủ có thể được các trục trặc của thị trường;
- Mức sống của mỗi quốc gia phụ thuộc vào năng lực sản xuất hàng hóa và dịch vụ của chính quốc gia đó;
- Thương mại làm cho mọi người đều có
- Lạm phát sẽ tăng khi chính phủ phát hành quá nhiều tiền;
- Xã hội luôn phải đối mặt với sự đánh đổi ngắn hạn giữa lạm phát và thất nghiệp.
Mankiw đã lấy lập luận về sự đánh đổi giữa bảo vệ môi trường và cái giá phải trả của nó: “Để bảo vệ môi trường, chúng ta yêu cầu doanh nghiệp cắt giảm lượng ô nhiễm. Tuy nhiên, để giảm ô nhiễm các doanh nghiệp đều phải chi phí tốn kém hơn và đẩy chi phí sản xuất lên cao. Do chi phí cao hơn, nên cuối cùng các doanh nghiệp kiếm được ít lợi nhuận hơn trả lương thấp hơn, định giá cao hơn. Như vậy, mặc dù các quy định về chống ô nhiễm môi trường đem lại lợi ích cho chúng ta là làm cho môi trường trong sạch hơn, sức khỏe tốt hơn, nhưng để thu được mối lợi đó, chúng ta phải chấp nhận thiệt hại, thể hiện ở sự suy giảm thu nhập của các chủ doanh nghiệp và công nhân, hoặc ở giá cả cao hơn mà người tiêu dùng phải gánh chịu”.
Trong quá trình ra quyết định hiệu chỉnh chính sách, chúng ta thường phải so sánh giữa chi phí và lợi ích của các quyết định. Trong nhiều trường hợp, chi phí và lợi ích không phải lúc nào cũng rõ ràng và có thể đo được bằng tiền. Ví dụ, có thể tính được bằng tiền chi phí đầu tư công cho các dự án bảo vệ môi trường nhưng không thể tính được lợi ích bằng tiền của các dự án đó vì lợi ích mà chúng mang lại là sự giảm thải ô nhiễm, là sự bảo vệ và nâng cao sức khỏe con người, bảo vệ môi trường môi sinh...
Khi phân tích bất kỳ chính sách nào, chúng ta không những phải xem xét hậu quả trực tiếp, mà còn phải chú ý tới những tác động gián tiếp do các kích thích tạo ra. Nếu chính sách làm thay đổi các kích thích, nó sẽ làm cho con người thay đổi hành vi.
Mặc dù thị trường thường là phương thức tốt để tổ chức các hoạt động kinh tế, nhưng chính phủ đôi khi có thể can thiệp vào nền kinh tế một cách hiệu quả, hoặc để bảo đảm sự công bằng. Tuy nhiên, sự can thiệp của chính phủ có thể tác động tiêu cực tới quá trình phân bổ nguồn lực, chẳng hạn thuế làm biến dạng giá cả và do vậy, làm biến dạng quyết định của các doanh nghiệp và hộ gia đình.
2. Một số khái niệm
- Tác động ngoại ứng (Tác động ngoại ứng là tác động ảnh hưởng tới bên thứ ba khi giao dịch giữa người mua và người bán).
Các tác động ngoại ứng tiêu cực như ô nhiễm môi trường khiến cho lượng tối ưu đối với xã hội trên thị trường nhỏ hơn lượng cân bằng của thị trường. Các tác động ngoại ứng tích cực như việc thu gom rác thải khiến cho lượng tối ưu đối với xã hội trên thị trường lớn hơn lượng cân bằng của thị trường.
- Giải quyết các tác động ngoại ứng
Các bên chịu tác động ngoại ứng có thể tự giải quyết vấn đề này qua thương lượng, hợp nhất hoặc ký kết hợp đồng. Theo định đề Coase, nếu có thể thương lượng mà không tốn phí thì mọi người luôn đạt được sự thỏa thuận mà nhờ đó, các nguồn lực được phân bổ hiệu quả. Tuy nhiên điều này khó có thể đạt được trên thực tế.
Khi các tác nhân tư nhân không thể giải quyết được triệt để các tác động ngoại ứng tiêu cực, ví dụ như ô nhiễm, chính phủ thường xuất hiện ngăn cản các hoạt động không hiệu quả về mặt xã hội này bằng cách điều chỉnh hành vi, hoặc dùng thuế Pigou hoặc ban hành một lượng có hạn giấy phép gây ô nhiễm cho những người gây ô nhiễm.
Nếu một nhà máy hóa chất không phải chịu tất cả chi phí cho lượng khí thải mà nó gây ra, thì có thể nó sẽ thải ra rất nhiều khí thải. Nếu chính phủ đánh thuế vào khí thải, ban hành các quy định về môi trường, chính phủ có thể làm tăng phúc lợi kinh tế. Việc phát hành một số lượng nhất định giấy phép sẽ có tác dụng như chuẩn mức thải, bảo đảm cho các doanh nghiệp không thải nhiều hơn mức cho phép. Bên cạnh đó, giá giấy phép trên thị trường sẽ có tác dụng như một mức phí thống nhất, là cơ sở để tối thiểu hóa chi phí xã hội của việc giảm thải do bảo đảm nguyên tắc cân bằng chi phí cận biên của việc giảm thải.
Đối với khái niệm về ô nhiễm môi trường: khi xét theo quan điểm kinh tế học, ô nhiễm môi trường chính là một tác động ngoại ứng tiêu cực, nó phụ thuộc vào hai yếu tố: Tác động vật lý của chất thải (ảnh hưởng tới gen, giảm đa dạng sinh học hoặc ảnh hưởng tới sức khỏe con người) và phản ứng của con người với chất thải ấy (sự không hài lòng, buồn phiền lo lắng hoặc những thay đổi liên quan tới lợi ích).
Đối với khái niệm về chi phí giảm chi phí kiểm soát môi trường được hiểu là những chi phí để làm giảm chất gây ô nhiễm được thải vào môi trường hoặc làm giảm nồng độ các chất gây ô nhiễm ở môi trường xung quanh.
Đối với khái niệm ô nhiễm tối ưu được hiểu là mức ô nhiễm mà lượng thải w* ứng với vị trí tổng chi phí môi trường (TEC) {bằng tông chi phí giảm thải ô nhiễm (TAC- được đo bởi diện tích của hình tam giác ADWX) và tông chi phí thiệt hại do ô nhiễm (EDC- được đo bằng diện tích của hình tam giác OCW2)} là nhỏ nhất. Tại mức thải w* tối ưu chi phí giảm thải ô nhiễm cận biên (MAC) bằng chi phí thiệt hại ô nhiễm cận biên (MDC).
Đối với khái niệm về chính sách kinh tế trong xây dựng và hoạch định chính sách thuế bảo vệ môi trường được hiểu là chính sách tác động tới các hoạt động kinh tế công cộng, nó bao hàm ba cấp độ: những lựa chọn hiện tại của chính phủ, sự lựa chọn các thể chế ở cấp độ cao hơn (tức là “thể chế kinh tế của xã hội) và xác định những ưa thích hay là các mục tiêu mang tính xã hội.
Các chính sách kinh tế mang tính số lượng là những chính sách liên quan đến việc thay đổi giá trị của một công cụ hiện tại (ví dụ như thay đổi mức chi tiêu chính phủ).
Các chính sách kinh tế mang tính chất lượng là những chính sách giới thiệu một công cụ mới hoặc xoá bỏ công cụ hiện tại nhưng không làm thay đổi nhiều trong hệ thống kinh tế (ví dụ, áp dụng quy định một mức trần đối với các khoản vay ngân hàng hoặc một mức thuế mới).
Các chính sách kinh tế mang tính cải cách (hay còn gọi là những cuộc cải cách) bao gồm việc ban hành những công cụ mới hay việc xoá bỏ những chính sách cũ đã gây ra một sự thay đổi lớn trong hệ thống kinh tế và các quy định điều chỉnh các hoạt động của nền kinh tế.
Có 3 loại chính sách kinh tế phổ biến là chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ, và chính sách tỷ giá.
Đối với các biện pháp thận trọng trong quá trình xây dựng chính sách thuế bảo vệ môi trường được hiểu là các công cụ chính sách có thể được điều chỉnh bởi sự thận trọng của nhũng nhà hoạch định chính sách trong từng trường hợp cụ thể.
Khái niệm về các quy chế được hiểu là các công cụ chính sách hoạt động không cần theo dõi và quyết định trong từng trương hợp cụ thể. Chẳng hạn như các kiến nghị của Friedman nhằm tăng lượng cung tiền lên một lượng phần trăm nhất định hằng năm chứ không phải đánh giá tình hình theo từng giai đoạn và quyết định các biện pháp để thực hiện.