Từ năm 1993 trở về trước, nguồn viện trợ nước ngoài cho Việt Nam chủ yếu từ Liên Xô và các nước Đông Âu, từ năm 1985 có thêm Phần Lan, UNDP và một số nước và tổ chức đa phương khác. Phần lớn viện trợ này là viện trợ không hoàn lại, phần còn lại là vốn vay ưu đãi (lãi suất thấp, thời gian vay dài và ân hạn), làm cho nhiều người từ các cơ quan trung ương đến địa phương coi ODA là của “cho không”, quà “biếu tặng”, vì vậy đã sử dụng vốn ODA một cách thiếu trách nhiệm, không có kế hoạch, quy hoạch cụ thể. Việc mua bán máy móc, thiết bị của nước ngoài trong các dự án ODA, nhất là dự án kết cấu hạ tầng kinh tế còn nhiều sơ hở, gây ra nạn tham ô, lãng phí và hậu quả là không có khả năng thu hồi vốn, để lại gánh nặng nợ nần cho quốc gia. Bên cạnh đó, cũng do nhận thức ODA là “của chùa” hoặc là nguồn vốn nhiều ưu đãi nên có tâm lý càng nhận được nhiều vốn càng tốt, mà không lường hết các điều kiện ràng buộc kèm theo. Việc đàm phán, ký kết chưa chu đáo, dẫn đến chất lượng nguồn vốn không đảm bảo.
Chính vì vậy, cần làm cho các cơ quan chủ quản, chủ đầu tư, các ban quản lý dự án và nhân dân hiểu được bản chất của ODA, ODA chỉ mang lại kết quả mong đợi nếu nó có các ưu đãi thực sự và được sử dụng một cách có hiệu quả. Ngược lại, đất nước sẽ phải gánh chịu nợ nần nếu nguồn vốn này bị sử dụng một cách lãng phí.
Phải thấy rằng ODA là một khoản vay nợ nước ngoài của chính phủ nhằm phục vụ các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Vì vậy, việc vận động nguồn vốn này phải đạt được những ưu đãi càng cao càng tốt và giảm thiểu tới mức thấp nhất các ràng buộc làm giảm hiệu quả sử dụng vốn.
Cần quản lý tập trung ODA, coi như là một nguồn thu của ngân sách nhà nước dành cho đầu tư phát triển và được quản lý theo luật ngân sách. Mọi khoản ODA phải có địa chỉ sử dụng cụ thể, rõ ràng, tuyệt đối không vay cho chi thường xuyên.
Chỉ vay ODA cho những dự án phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế quy mô lớn, kỹ thuật phức tạp, mà khả năng tài chính, công nghệ, kỹ thuật trong nước chưa thể thực hiện được. Việc huy động ODA phải gắn với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chiến lược kinh tế đối ngoại của đất nước trong từng giai đoạn và phải thực hiện được các nhiệm vụ của chính sách tài chính quốc gia; chi tiêu tiết kiệm, có hiệu quả và lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm thước đo chủ yếu.
Xây dựng cơ chế hiệu quả cho việc vận động, đàm phán các điều ước quốc tế về ODA để có được nguồn vốn ODA có chất lương phục vụ thiết thực các mục tiêu phát triển đất nước. Việc nâng cao nhận thức đúng về ODA và đề cao trách nhiệm trước đất nước trong vận động thu hút ODA là cần thiết, song chưa đủ. Trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền, cần phải có những cơ chế, chế tài đủ mạnh để điều chỉnh những hành vi kinh tế - xã hội có liên quan. Bởi vậy, việc xây dựng một cơ chế hiệu quả cho việc vận động, đàm phán các điều ước quốc tế về ODA là thực sự cần thiết. Cơ chế này, ở một khía cạnh nào đó là “công cụ” nhằm giúp Chính phủ thay mặt nhân dân giám sát hoạt động của các ban, ngành chức năng, những cơ quan được Chính phủ giao trọng trách trong công tác vận động, đàm phán ODA; ở một khía cạnh khác, nó là căn cứ để các bộ, ngành chức năng có liên quan điều chỉnh hành vi của mình trong công tác vận động, đàm phán ODA để sao cho mỗi đồng vốn ODA được tiếp nhận đều đưa lại hiệu quả kinh tế - xã hội.
Cơ chế này cần gồm hai phần cơ bản:
- Phần thứ nhất là những nguyên tắc cơ bản mang tính chất bắt buộc cho mọi cuộc vận động, đàm phán ODA. Những nguyên tắc này hương tới mục tiêu có được ODA, nhưng không phải bằng mọi giá mà phải phục vụ thiết thực cho các nhu cầu đầu tư phát triển của đất nước, không phục vụ chi thường xuyên, không chấp nhận những khoản vay không đạt yếu tố ưu đãi thích đáng về lãi suất và thời gian trả nợ, không vay bằng các loại tiền có rủi ro lớn về tỷ giá hối đoái, không đầu tư vào các dự án kết cấu hạ tầng kinh tế không có khả năng thu hồi vốn hay thu hồi vốn chậm, hoặc những dự án được nhà tài trợ lựa chọn nhưng không phù hợp với hướng ưu tiên sử dụng ODA của nước ta. Nghĩa là nguyên tắc chất lượng nguồn vốn ODA phải được coi trọng hàng đầu, các ràng buộc kinh tế, chính trị đi kèm chỉ được chấp nhận khi các ràng buộc đó không ảnh hưởng hoặc ảnh hưởng không đáng kể tới định hướng chiến lược phát triển quốc gia và hiệu quả kinh tế - xã hội.
- Phần thứ hai là những quy định đối với cá nhân, các bộ, ban, ngành chức năng chịu trách nhiệm thay mặt Chính phủ để vận động, đàm phán các điều ước quốc tế về ODA. Các quy định này đề cập rõ nghĩa vụ, quyền lợi và trách nhiệm của những cá nhân và tổ chức tham gia vào việc thu hút và sử dụng ODA.
Các quy định trong cơ chế phải có nội dung sao cho công tác vận động, đàm phán đạt yêu cầu thích đáng về lãi suất, thời hạn vay, thẩm định giá, định mức chi tiêu, phí tư vấn, chính sách đối với chuyên gia trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi, chú trọng khâu lập dự án, nghiên cứu khả thi trước khi đàm phán vay vốn ODA.
Tổ chức tốt hơn các Hội nghi nhóm vấn các nhà tài trợ theo phương châm đổi mới căn bản vệ nội dung và phương thức vận động ODA,
Đến nay Việt Nam đã tổ chức được 15 Hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ (CG) cho Việt Nam. Sáng kiến tổ chức Hội nghị như vậy đã góp phần gia tăng ODA năm sau cao hơn năm trước, đặc biệt từ năm 2005 đến nay năm nào Hội nghị cũng thành công vượt dự kiến, cam kết ODA liên tục lập các kỷ lục mới qua từng năm tài khoá. Hội nghị năm 2004 đánh dấu mức cam kết kỷ lục 3,74 tỷ USD cho năm 2005; Hội nghị năm 2005 đạt mức cam kết 4,457 tỷ USD cho năm 2006; Hội nghị năm 2006 cam kết đạt mức 5,426 tỷ USD cho năm 2007; Hội nghị năm 2007 cam kết đạt mức 5,400 tỷ USD cho năm 2008 và tại Hội nghị tháng 12 năm 2008 cam kết ODA đạt 5,014 tỷ USD cho năm 2009… . Đây là sự khích lệ to lớn để Ghính phủ và nhân dân Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh công cuộc cải cách kinh tế, xóa đói giảm nghèo, nhằm đạt được nhiều thành tựu cao hơn nữa trong tương lai. Những kết quả trên cho thấy hiệu quả của việc tổ chức các Hội nghị CG làm cho các nhà tài trợ hiểu Việt Nam hơn, thấy được các thành tựu mà vốn ODA mang lại cho Việt Nam. Tại đây chúng ta đã đưa ra quy hoạch thu hút vốn ODA của mỗi năm, vào các ngành, vùng cụ thể và trên cả nước, đưa ra chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, giúp các nhà tài trợ hiểu và ngày càng tin tưởng. Họ biết rằng vốn của họ đã được sử dụng đúng mục đích, giúp Việt Nam tăng trưởng kinh tế, phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống. Mặt khác, cũng qua các Hội nghị này, những ách tắc, bất đồng được khai thông và ngày càng hài hòa hơn, các giải pháp được đưa ra nhằm giúp Việt Nam thu hút, sử dụng vốn ODA ngày càng tốt hơn. Để xây dựng được mối quan hệ ngày càng thân thiết, thông cảm và giúp đỡ Việt Nam, cần phát huy cách thức tổ chúc Hội nghị, chuẩn bị chu đáo về nội dung, tuyên truyền, quảng bá bức tranh kinh tế Việt Nam, nâng cao vai trò của các nhà tài trợ vì những gì họ đã giúp đỡ chúng ta.
Tuy nhiên, để Việt Nam có thể hài hoà thủ tục một cách tốt hơn nhằm tạo được cơ hội tiếp nhận ODA nhiều hơn và tăng hiệu quả sử dụng của mỗi đồng vốn, thì Hội nghị CG cần được cải tiến:
- Nội dung các Hội nghị CG cần: (i) Giảm bớt các báo cáo mà tăng cường đối thoại giữa các bên về các vấn đề cùng quan tâm; (ii) Tăng thêm thời lượng cho các cuộc họp kỹ thuật; (iii) Kỷ yếu và các tư liệu, thông tin liên quan đến Hội nghị cần được phát hành, phổ biến rộng rãi trong các cơ quan của Việt Nam và các nhà tài trợ.
+ Tăng cường vận động ODA ở cấp địa phương, tổ chức Hội nghị vận động ODA theo cấp vùng thay cho cấp tỉnh nhằm tạo cho các nhà tài trợ cái nhìn tổng hợp hơn và phối hợp tốt hơn các nguồn lực.
+ Ban hành hệ thống các tiêu chí làm cơ sở vận động ODA cho các tỉnh và thành phố; bảo đảm công bằng, công khai, minh bạch trong vận động và thu hút ODA.
+ Tạo thuận lợi cho các nhà tài trợ tiếp xúc với thực tế, nhất là tới các địa phương có nhiều khó khăn, những nơi nảy sinh các vấn đề bức xúc về kinh tế và xã hội.
- Phương châm chính trong giải quyết các vấn đề của Hội nghị mà các nhà tài trợ được khuyến nghị hướng tới là:
+ Các quy trình thủ tục cần linh hoạt, mềm dẻo hơn.
+ Có sự cảm thông và chia sẻ với những khó khăn của các ban quản lý dự án vì dù sao các ban quản lý này còn thiếu kinh nghiệm, bỡ ngỡ và lúng túng trong quá trình hội nhập.
+ Các nhà tài trợ giúp đỡ cung cấp thông tin và tổ chức đào tạo kỹ năng nhằm nâng cao khả năng quản lý và thực hiện dự án cho các ban quản lý dự án.
Nhìn chung, để tăng cường sự hài hoà, cả Việt Nam và các nhà tài trợ cần đề cao việc chia sẻ trách nhiệm chung từ khâu hình thành và chuẩn bị chương trình, dự án ODA cho tới khâu theo dõi và đánh giá dự án thông qua những hoạt động phân tích và đánh giá chung, cung cấp đầy đủ và công khai những thông tin liên quan tối viện trợ và tạo điều kiện để nhân dân cả hai phía có thể tham gia, giám sát quá trình cung cấp, thực hiện và thụ hưởng viện trợ.
Xác định hạn mức vay, dự kiến tổng dư nợ phải trả và chuẩn bị phương án trả nợ
Theo kinh nghiệm quốc tế, ODA chỉ thực sự hiệu quả khi quốc gia đi vay xác định được mức vay cần thiết và biết sử dụng một cách tiết kiệm, hợp lý nguồn vốn vay. Khi đã xác định được định mức vay, có nghĩa là người đi vay biết được mình cần vốn sử dụng vào đâu và mức sử dụng là bao nhiêu, từ đó tránh tình trạng lãng phí. Mặt khác, người đi vay chủ động trong việc sử dụng vốn vay cũng như tự chủ trong việc lựa chọn nguồn vốn, sẽ có phương án trả nợ đúng hạn.
Ở Việt Nam, việc xác định hạn mức vay nợ ODA được xác lập trong kế hoạch 5 năm. Thế nhưng, việc thực hiện hạn mức này rất hạn chế do phụ thuộc vào sự cam kết từ các nhà tài trợ và phần ODA được ký kết chính thức thường chưa đạt được lượng cần thiết. Bởi vậy, việc xác định hạn mức vay hiện tại mới chỉ có ý nghĩa về mặt văn bản, và phương án trả nợ thường chưa tỏ tường. Hiện tại, Vụ Ngân sách thuộc Bộ Tài chính đã lập chiến lược tài chính quốc gia, song chiến lược nợ vẫn đang trong quá trình xây dựng.
Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế và so với chỉ tiêu Nợ/GDP được quy định trong chiến lược tài chính quốc gia thì nợ nước ngoài của Việt Nam so với GDP chưa tới giới hạn cảnh báo, nhưng nếu tính tổng dư nợ của quốc gia/GDP thì khả năng trả nợ của Việt Nam không cao như nhiều người vẫn lạc quan. Theo bảng dự toán ngân sách năm 2006 thì tính đến 31-12-2005, tổng dư nợ vay trong nước chiếm 35,1% GDP, tổng dư nợ vay nước ngoài chiếm 30,9% GDP (chủ yếu là nợ ODA). Tổng cộng dư nợ vay chiếm tới 66% GDP, số tuyệt đối khoảng 30 tỷ USD, trong đó 11 tỷ USD sẽ bắt đầu tới hạn trả nợ kể từ năm 2006.
Nếu chỉ tính riêng khoản nợ vay nước ngoài của Việt Nam, mà chủ yếu là ODA, thì số tuyệt đối của nó đã là 19 tỷ USD tính đến cuối năm 2005 và Việt Nam mới chỉ hoàn trả được 2 tỷ USD mỗi năm, ước đạt 3 tỷ USD vào năm 2008. Như vậy, cho đến cuối năm 2008, mức vay nợ ODA của Việt Nam so với GDP vẫn nằm trong giới hạn an toàn nếu nền kinh tế vẫn giữ được tốc độ tăng trưởng 7,5-8% mỗi năm và tổng nợ nước ngoài bằng 31% GDP và bằng 30% kim ngạch xuất khẩu như hiện nay. Tuy nhiên, với lượng vốn ODA được ký kết ngày một tăng, nợ đến hạn trả ngày một nhiều, song phương án trả nợ lại chưa rõ ràng thì đây chính là vấn đề mà các cấp lãnh đạo, các bộ, ngành chức năng cần quan tâm, để đảm bảo trả nợ đúng hạn thì mối tiếp tục được vay các khoản ODA cần thiết cho chiến lược phát triển đất nước và mới đảm bảo sự bền vững trong hoạt động của tài chính quốc gia.
Từ những nhận thức trên, cần chú ý tới các vấn đề sau:
- Xây dựng một hạn mức vay ODA thường niên làm căn cứ điều tiết việc ký kết các điều ước quốc tế về ODA của các bộ, ngành, địa phương nhằm bảo đảm an toàn nợ quốc gia.
- Căn cứ vào hạn mức vay ODA đã được Bộ Tài chính công bố, các bộ, ngành và địa phương xây dựng quy hoạch sử dụng vốn ODA phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế của đơn vị mình.
- Xác định rõ trách nhiệm trả nợ, phương án trả nợ và thời gian trả nợ đối với từng dự án cụ thể ngay khi mới bắt đầu vận động hoặc đang trong quá trình thẩm định. Với những dự án đã và đang trong giai đoạn hoàn thành, Chính phủ cần rà soát lại phương án trả nỢ phù hợp để đảm bảo trả nợ đúng hạn.
- Kết cấu hạ tầng kinh tế là lĩnh vực sử dụng nhiều vốn ODA, nên cần nghiên cứu chính sách huy động và hoàn trả nợ trong từng giai đoạn, đảm bảo đầu tư sinh lời và có phương án thu một phần phí để hoàn trả nợ nước ngoài.