Thứ hai, 21 Tháng 5 2018 09:44

BÁO CHÍ VỚI VIỆC THỰC HIỆN CHỨC NĂNG QUẢN LÝ, GIÁM SÁT VÀ PHẢN BIỆN XÃ HỘI

Trong hoạt động của mình, báo chí đóng vai trò quan trọng trong việc tham gia quản lý, giám sát và phản biện xã hội. Có thể thấy rằng, vai trò tham gia quản lý xã hội của báo chí trước hết bảo đảm việc xuyên suốt thông tin hai chiều giữa chủ thể và khách thể quản lý, bảo đảm cho các quyết định quản lý được thông suốt và thực thi trong thực tế. Theo chiều từ chủ thể quản lý đến khách thể, báo chí truyền bá các chủ trương, chính sách và quyết định quản lý - lãnh đạo, làm cho các quyết tâm chính trị của lãnh đạo và nhà quản lý thành quyết tâm của toàn dân...; ngược lại, phản hồi từ khách thể tới chủ thể quản lý, là thông tin đúng đắn, khách quan nhất có thể về những gì đang diễn ra trước và sau chủ trương lãnh đạo, quyết định quản lý ban hành. Muốn có quyết sách, chủ trương đúng, người lãnh đạo phải nắm được tình hình, bản chất các vấn đề đang diễn ra, chứ không phải tình hình đã được “mông má”, nhào nặn chủ quan. Một trong những kênh thông tin quan trọng và khách quan nhất, kịp thời và phong phú nhất là báo chí. Báo chí không chỉ là cơ quan ngôn luận của Đảng và Nhà nước mà còn là tiếng nói, diễn đàn, là tai mắt của nhân dân. Báo chí thông tin một chiều, phụ họa và xa rời (hoặc không dám thông tin) những vấn đề then chốt, chủ yếu và bức xúc của nhân dân thì không thể tham gia vào hoạt động quản lý xã hội một cách hiệu quả.

Giám sát có thể được hiểu là theo dõi, kiểm tra lại xem có thực hiện đúng các quy định của Đảng, pháp luật không. Trong hoạt động quản lý xã hội, giám sát có vai trò rất quan trọng nhằm kiểm tra và đôn đốc việc thực hiện mục tiêu, kế hoạch, chương trình, chính sách…. Giám sát phải được tiến hành bởi lực lượng độc lập, khác với chủ thể đang tiến hành hoạt động được giám sát, giám sát có chuyên môn, hiểu biết... mới bảo đảm tính khách quan và hiệu quả.

Phản biện là việc đánh giá, phân tích thông tin theo một chiều hướng khác nhằm khẳng định hoặc xác định lại tính đúng đắn của vấn đề. Theo đó, phản biện có nhiệm vụ khẳng định những kết quả đạt được, những thành công nổi trội của công trình; đồng thời nêu ra những hạn chế, khiếm khuyết để tiếp tục hoàn thiện, và cuối cùng, khẳng định rằng công trình đó có đạt được những tiêu chí khoa học cần thiết không. Như vậy, phản biện khác với phản bác. Phản bác là dùng lý lẽ và lập luận để bác bỏ ý kiến hay công trình của người khác.

Phản biện xã hội có thể hiểu là sự tham gia rộng rãi, công khai, minh bạch của xã hội - các tầng lớp xã hội, nhân dân trong việc góp ý kiến cho các chủ trương, quyết sách lớn của Đảng và Nhà nước trong các lĩnh vực kinh tế - văn hóa - xã hội. Người thực hiện phản biện xã hội thông thường là những người có kiến thức am hiểu rộng và chuyên sâu về các lĩnh vực của đời sống, có bản lĩnh bảo vệ chính kiến và tâm huyết vì sự phát triển bền vững cộng đồng.

Theo đó, phản biện xã hội trong quá trình chuẩn bị ban hành quyết sách lớn là quá trình khai thác và sử dụng trí tuệ và cảm xúc của nhân dân thẩm định xã hội về tính hợp lý, hợp hiến và khả năng thực thi cũng như tính hiệu quả của nó.

Phản biện xã hội trong quá trình thực hiện quyết sách là khẳng định những mặt tích cực, chỉ ra những mặt hạn chế, khiếm khuyết đã và đang bộc lộ trong ý đồ và trong thực tiễn để có thể tìm kiếm giải pháp điều chỉnh bổ sung nhằm tăng cường hiệu quả thực tế của quyết sách ấy.

Thực hiện chức năng phản biện xã hội là báo chí góp phần khơi thức, tập hợp nguồn lực trí tuệ và cảm xúc của toàn dân, đặc biệt là các chuyên gia về các lĩnh vực khác nhau, góp ý cho các quyết sách lớn của Nhà nước trong quá trình xây dựng và thực hiện nhằm bảo đảm sự phát triển bền vững vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Trí thức thực thụ là những người có chuyên môn sâu, hiểu biết rộng và nhất là có quan điểm, chính kiến độc lập và có bản lĩnh bảo vệ các quan điểm chính kiến ấy, trí thức không phải là người phụ họa, nịnh hót để mưu lợi cá nhân. Đó là quá trình quán triệt quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam “dân là gốc”, là tư tưởng về nhà nước dân chủ nhân dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Theo đó, giám sát và phản biện xã hội bằng và thông qua báo chí là thể hiện sinh động nhất của việc phát huy dân chủ xã hội, tăng cường lắng nghe ý kiến phản hồi của nhân dân với thái độ cầu thị.

Nghị quyết Đại hội X của Đảng đã chỉ rõ: “Xây dựng quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách, quyết định lớn của Đảng và việc tổ chức thực hiện, kể cả đối với công tác tổ chức và cán bộ”.

Trong xã hội tư bản, giám sát và phản biện xã hội của báo chí trong đã hội tụ được sức mạnh của cộng đồng và bởi thế, người ta coi báo chí là quyền lực thứ tư. Quyền lực thứ tư, thực chất là quyền lực của công luận, quyền lực của nhân dân. Khái niệm quyền lực thứ tự ra đời ở Anh từ cuối thế kỷ XVIII. Thời kỳ đó, ở Anh có hai loại báo chí. Loại báo dành cho tầng lớp quý tộc được in trên trên giấy tốt, chuyên phản ánh đời sống quý tộc, bán giá đắt. Báo chí bình dân in trên giấy xấu, chủ yếu phản ánh đời sống đông đảo cư dân lao động thợ thuyền, bán giá rẻ và với số lượng ít ỏi. Bởi vì lúc ấy, ở tầng lớp thấp không nhiều người biết chữ. Nhưng xã hội càng phát triển, càng quan tâm đến giáo dục con người, nâng cao trình độ dân trí, số người biết chữ ngày càng đông. Và “công chúng báo rẻ tiền” ngày càng lớn mạnh, đông đảo. Chính nguồn lực lượng người lao động đông đảo này đã ngày càng quan tâm đến đời sống chính trị, tiếp nhận thông tin báo chí và hình thành DLXH, rồi DLXH của người lao động trở thành áp lực đối trọng với Nhà nước... Quá trình kết nối với DLXH, báo chí trở thành sức mạnh thực tế và khái niệm quyền lực thứ tự xuất hiện. Do đó, ở các nước dân chủ phương Tây, chức năng này mặc dù chưa có văn bản pháp lý ghi nhận trực tiếp, nhưng nó được đề cao với đầy đủ mọi ý nghĩa từ công luận, cho nên trong thực tế, báo chí được coi là quyền lực thứ tư, giám sát cả quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Chính thể chế phân chia quyền lực của nhà nước tư sản, tam quyền phân lập cùng với sự giám sát của báo chí và công luận đã hạn chế việc lạm dụng quyền lực.

Ở Việt Nam, lần đầu tiên trong văn kiện chính thức của mình, trong Nghị quyết Trung ương 6 (lần hai) khoá VIII, Đảng Cộng sản Việt Nam đã ghi nhận, khẳng định báo chí và truyền thông đại chúng là một trong bốn hệ thống giám sát xã hội. Đây là bước phát triển quan trọng về lý luận, nhận thức của Đảng về vai trò xã hội của báo chí và truyền thông đại chúng.Đó là quá trình giám sát mọi nơi, mọi lúc. Chức năng giám sát xã hội của báo chí trong quá trình thực hiện chủ trương, chính sách, pháp luật là để kịp thời phát hiện những nơi làm đúng, làm hay để biểu dương khích lệ và tổng kết kinh nghiệm thực tiễn; đồng thời cũng để sớm phát hiện những khó khăn, những sai sót, những nơi làm dở, làm sai, những nơi vi phạm chủ trương, chính sách và luật pháp để đấu tranh. Vai trò và sức mạnh giám sát xã hội của báo chí trước hết là xã hội hoá những việc làm tốt và những sai phạm của các tổ chức hoặc cá nhân nào đó để khơi nguồn và định hướng dư luận xã hội theo hướng ủng hộ hoặc chỉ trích, tạo áp lực dư luận và buộc các cơ quan công quyền giải quyết, giải thích và giải đáp trước nhân dân, trước công luận. Trong cuộc đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng trong những năm gần đây, phần lớn những vụ việc lớn đều do báo chí phát hiện, phanh phui và cơ quan chức trách vào cuộc (ví dụ vụ điện kế điện tử tại

Xã hội càng phát triển thì quyền lực của nhân dân càng được tăng cường, đặc biệt là quyền giám sát các cơ quan công quyền của nhân dân nhằm hạn chế lạm dụng quyền lực. Do đó, để thực hiện tốt chức năng giám sát xã hội của mình, hoạt động báo chí cần đảm bảo các điều kiện như:

Thứ nhất, không ngừng mở rộng tính công khai và dân chủ hoá đời sống xã hội, trước hết là dân chủ về kinh tế, tài chính và công tác tổ chức cán bộ, thực hiện một tiến trình dân chủ thật sự. Tính công khai và dân chủ hoá xã hội được mở rộng đến đâu thì vai trò và năng lực giám sát xã hội của báo chí tăng lên đến đấy. Quy chế dân chủ cơ sở với quyết tâm mở rộng và nâng cao chất lượng dân chủ cơ sở, nhưng trong thực tế kết quả chưa đạt được như mong muốn. Mở rộng tính công khai và dân chủ hoá là một quá trình, một cuộc đấu tranh phức tạp, quyết liệt đòi hỏi bản lĩnh chính trị của lãnh đạo, sự kiên trì và kiên định mục tiêu và phải biết dựa vào dân lấy dân làm gốc.

Thứ hai, nâng cao trình độ dân trí, trước hết và quan trọng nhất là trình độ hiểu biết của người dân về các văn bản quy phạm pháp luật và thiết chế phân chia quyền lực của Nhà nước. Dân trí là trình độ tổng hợp của người dân, nhưng trước hết, liên quan đến vấn đề giám sát xã hội, quan trọng là trình độ am hiểu pháp luật. Dân trí cao, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật chặt chẽ là những yếu tố bảo đảm cho nền dân chủ xã hội đạt chất lượng cao. Hiện nay, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật của chúng ta đã được xây dựng mới và nhanh chóng được bổ sung, nhưng sự hiểu biết của nhân dân kể cả cán bộ trong bộ máy công quyền, về luật pháp còn rất nhiều hạn chế, ý thức chấp hành luật lại càng bất cập. Do đó, muốn nâng cao năng lực giám sát của mình, báo chí - truyền thông cần tích cực tuyên truyền, giải thích để nhân dân nhận thức đầy đủ và đúng đắn các chủ trương, chính sách và pháp luật của Đảng và Nhà nước, động viên khích lệ nhân dân không chỉ tích cực thực hiện mà còn tham gia giám sát quá trình thực hiện ấy.

Thứ ba, không ngừng nâng cao năng lực, trình độ, phẩm chất đạo đức và văn hoá chính trị của đội ngũ cán bộ công chức trong bộ máy công quyền các cấp, như DLXH đặt ra. Thái độ trách nhiệm của cán bộ công chức đối với các vấn đề báo chí và DLXH nêu ra không chỉ thể hiện trách nhiệm pháp lý trước nhân dân, trước Đảng mà còn thể hiện văn hoá chính trị, đạo đức, lối sống và lương tâm của con người. Nâng cao văn hóa chính trị đòi hỏi đổi mới tư duy chính trị. Đó là tư duy và văn hóa chính trị vì dân, lấy dân là gốc. Giám sát và phản biện xã hội của báo chí thực chất là giám sát và phản biện của nhân dân, từ nhân dân, bằng trí tuệ và cảm xúc của nhân dân. Do đó, quá trình giám sát này góp phần chống lạm dụng quyền lực, chống tha hóa quyền lực và bảo đảm quá trình phát triển bền vững. Thực tế chứng minh rằng thời kỳ nào và nơi nào tính chiến đấu, tính đảng của tổ chức đảng mạnh thì thời kỳ đó, nơi đó vai trò và sức mạnh của nhân dân được đề cao thật sự và tính chiến đấu, giám sát phản biện của báo chí được phát huy. Phản biện xã hội theo đó cũng có thể hiểu là những ý kiến góp ý chân thành, thẳng thắn và có cơ sở khoa học - thực tiễn của nhân dân.

Thứ tư, không ngừng hoàn thiện môi trường pháp lý, xây dựng nhà nước pháp quyền - xã hội công dân, hướng tới làm lành mạnh hoá các quan hệ xã hội bằng thiết chế phân chia quyền lực một cách khoa học, chặt chẽ, có cơ chế kiểm soát và giám sát độc lập để chống lạm dụng quyền lực - cách thức quan trọng nhất có thể hạn chế tha hóa quyền lực và tha hóa chế độ xã hội.

Thứ năm, không ngừng nâng cao trình độ về mọi mặt, năng lực tác nghiệp, đạo đức nghề nghiệp, bản lĩnh nghề nghiệp cũng như cải thiện điều kiện làm việc cho đội ngũ cán bộ báo chí - truyền thông. Cùng với đòi hỏi về trình độ, năng lực chuyên môn, bản lĩnh chính trị và bản lĩnh hành nghề, cần trang bị cho các nhà báo, nhà truyền thông những phương tiện kỹ thuật - nghiệp vụ hiện đại, cơ chế cung cấp thông tin công khai, minh bạch... để họ có thể tác nghiệp thuận lợi trong quá trình thực hiện chức năng giám sát xã hội, nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Song song với điều đó, cần có hành lang pháp lý, cần có chế tài tạo điều kiện và bảo vệ nhà báo tác nghiệp trong điều kiện xã hội ngày càng phức tạp. Mặt khác, bản lĩnh nghề nghiệp, năng lực điều tra, phân tích sự kiện và vấn đề pháp lý cũng như khả năng kết nối các nguồn lực xã hội của nhà báo ngày càng trở nên quan trọng trong việc nâng cao chất lượng phản biện xã hội.

Thứ sáu, cần thống nhất nhận thức sử dụng báo chí như công cụ hữu ích hàng đầu trong việc mở rộng tính công khai và dân chủ hoá đời sống xã hội, đặc biệt trong thời đại truyền thông số hoá và sự tác động của công nghệ tin học cùng với trình độ dân trí được nâng cao và thời kỳ hội nhập, mở cửa trong bối cảnh toàn cầu hoá. Coi báo chí không chỉ là diễn đàn rộng rãi nhất để mọi người dân bày tỏ chính kiến, bàn luận những vấn đề quốc kế dân sinh, phản ánh với Đảng và Nhà nước những mong đợi... mà còn là công cụ thể hiện và nâng cao năng lực, trình độ dân trí, chất lượng dân chủ và bảo đảm tính công khai, minh bạch, góp phần quan trọng trong việc chống lạm dụng quyền lực, bảo đảm sự phát triển bền vững của hệ thống.

Thực hiện tốt chức năng giám sát, phản biện xã hội, tức là báo chí thể hiện tính độc lậptương đối của mình. Tính độc lập không có nghĩa là báo chí độc lập với chính trị. Ở phương diện nào đó, báo chí là công cụ thể hiện quyền lực chính trị, “là tiếng nói của Đảng, Nhà nước và diễn đàn của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng”. Tính độc lập ở đây có nghĩa là, khi thực hiện chức năng giám sát và phản biện xã hội của báo chí.

Bản chất của chức năng giám sát, phản biện xã hội của báo chí là dùng báo chí như phương tiện và phương thức quan trọng và cơ bản để chống lạm dụng quyền lực; bởi lạm dụng quyền lực sẽ dẫn đến tha hóa quyền lực và tha hóa chế độ xã hội. Vấn đề này có ý nghĩa sống còn đối với Việt Nam trong bối cảnh hiện nay.

Sửa đổi lần cuối Thứ tư, 13 Tháng 2 2019 10:12

Đăng ký nhận email

Đăng ký email để có thể có được những cập nhật mới nhất về tải liệu được đăng tải trên website

Tập san đã phát hành