In trang này
Thứ sáu, 20 Tháng 7 2018 03:30

Giới thiệu về chương trình giáo dục phổ thông của Liên bang Nga

1. Vài nét về hệ thống giáo dục phổ thông Liên bang Nga

Nền giáo dục Nga là một hệ thống liên tục các cấp học kế tiếp nhau, mỗi cấp học có các cơ sở giáo dục công lập, ngoài công lập, địa phương thuộc các loại hình khác nhau: Các trường mẫu giáo; Các trường phổ thông; Các trường dành cho trẻ em mồ côi và trẻ em không nơi nương tựa; Các trường dạy nghề (sơ cấp, trung cấp chuyên nghiệp, đại học...); Các trường bổ túc; Các trường cung cấp dịch vụ giáo dục khác được quy định cụ thể trong Luật giáo dục Liên Bang Nga.

Đối với giáo dục phổ thông, nước Nga áp dụng chế độ giáo dục phổ thông bắt buộc và miễn phí, 11 năm với các cấp học kế tiếp nhau từ Tiểu học, Trung học cơ sở đến Trung học phổ thông hoàn chỉnh, bao gồm ba giai đoạn: cấp Tiểu học từ lớp 1 đến lớp 4; cấp Trung học cơ sở từ lớp 5 đến lớp 9; và Trung học phổ thông từ lớp 10 đến lớp 11.

Liên Xô trước đây áp dụng hệ thống giáo dục phổ thông 10 năm, gồm ba cấp: Tiểu học: 4 năm với học sinh 7 tuổi vào học lớp 1; Trung học cơ sở: 4 năm; Trung học phổ thông hoàn chỉnh: 2 năm. Học sinh học xong lớp 10, tức là lớp cuối của chương trình phổ thông khi mới 16 - 17 tuổi. Chương trình giảng dạy là thống nhất, không phân ban, cơ chế quản lí tập trung vào trung ương.

Liên bang Nga đã cải cách hệ thống giáo dục phổ thông chuyển từ mô hình nhà trường Xố viết (cũ) sang mô hình trường phổ thông mới 11 năm, đa dạng loại hình và thực hiện phân ban (đối với các lớp lớn), thực hiện quản lí phi tập trung.

Hiện nay ở Nga có hơn 101.100 cơ sở giáo dục. Số lượng Học sinh phổ thông năm học 2015 - 2016 là 14,1 triệu, trong đó Học sinh lớp 1 là 1,6 triệu.

Có 77,07% trường học một ca; hơn 22,74% trường học 2 ca; vẫn còn 0,19% trường học 3 ca, so với năm học 2014 - 2015 là 73% học 1 ca, gần 25% trường học 2 ca, 0.27% (83 trường) học 3 ca.

Hầu như tất cả các trường được kết nối Internet (99,9%). Các trường học được trang bị mạng Internet tốc độ cao: khoảng 70% ở các thành phố và 20% ở khu vực nông thôn.

Việc chuyển đổi giáo dục theo Chuẩn liên bang ở tất cả các cấp giáo dục phổ thông sẽ được hoàn thành vào năm 2021.

Đến đầu năm học 2015 - 2016 đã có 6000 tổ chức giáo dục tạo điều kiện giáo dục hoà nhập cho trẻ khuyết tật. 124 cơ sở giáo dục thuộc 24 chủ thể Liên bang Nga tiếp tục thử nghiệm chuẩn giáo dục cho trẻ em khuyết tật.

Số lượng đội ngũ cán bộ cơ sở giáo dục là 1.278.000 người, trong đó có 1.048.000 giáo viên. Theo Bộ Giáo dục Nga, còn thiếu 0,8% cán bộ giảng dạy trong tổng số cán bộ làm việc tại cơ sở giáo dục. Thiếu GV chủ yếu ở các môn: Toán, Tiếng Nga và Văn học và giáo viên tiểu học. Hai năm trở lại đây số lượng giáo viên trong độ tuổi từ 25 và 35 tăng ở 59 chủ thể Nga, với hơn 5% ở 47 khu vực. Theo Thời báo Nga, mức lương trung bình của giáo viên phổ thông ở Liên bang Nga trong quý 1/2015 là 31.200 rúp (98,7% so với mức trung bình của kinh tế Liên bang Nga so với cùng kì). 70 chủ thể Liên bang nâng mức lương trung bình của giáo viên phổ thông lên cùng với mức lương trung bình trong khu vực. Mức lương trung bình của giáo viên trong quý I năm 2014 là 29.800 rúp (99,1% so mức bình quân của nền kinh tế so với cùng kì).

2. Một số vấn đề về quá trình đổi mới giáo dục phổ thông

Sau khi Liên Xô tan rã, nhà nước Liên bang Nga đã xây dựng và ban hành Luật Giáo dục Liên bang Nga năm 1992, sửa đổi bổ sung 1996. Giáo dục Trung học phổ thông là bộ phận trung tâm của hệ thống giáo dục Liên bang Nga, bao gồm: các trường Trung học phổ thông; trường chuyên sâu về một số môn học riêng; trường trung học gimnazia, trường trung học litsey; các trường buổi tối; các loại hình trường nội trú; các trường đặc biệt dành cho trẻ em khuyết tật về cơ thể và tâm lí; các cơ sở giáo dục ngoài nhà trường (các trường âm nhạc, mĩ thuật, nghệ thuật, vũ đạo, thể thao... dành cho thiếu nhi, các trung tâm giải trí...). Giáo dục THPT được xem xét trong mối liên hệ với giáo dục đại học, vốn giữ một vị trí hết sức quan trọng trong hệ thống giáo dục của nước Nga. HS tốt nghiệp các trường Trung học phổ thông là nguồn cung cấp chủ yếu cho lực lượng sinh viên các trường đại học.

Năm 1999, Bộ trưởng Filippov chính thức đề xuất ý tưởng thí điểm xây dựng nhà trường phổ thông mới 12 năm. Ý tưởng về mô hình giáo dục phổ thông 12 là để phù hợp với hệ thống trường phổ thông các nước phát triển: HS 6 tuổi vào học lớp1, kéo dài tuổi học phổ thông đến 17 - 18 tuổi, vừa để giảm tải cho HS phổ thông, vừa tăng thời lượng giúp HS được học sớm ngoại ngữ từ lớp 2, dạy tin học và giáo dục hướng nghiệp, dạy môn công nghệ tại cả 3 cấp học, tăng cường các môn xã hội và nhân văn. Nhưng rốt cuộc, xã hội Nga chỉ tán thành mô hình 11 năm trong đó ủng hộ giải pháp: Lớp 1 được tuyển HS 6 tuổi; Hệ thống giáo dục phổ thông mới là 4 + 5 + 2 (từ lớp 1 đến lớp 11); tiến hành phân ban sơ bộ (không phổ cập) tại hai lớp 8 và 9 (cấp THCS), phân ban đầy đủ tại cả hai lớp 10 và 11.

Nội dung chương trình học có ba phần: (1) Kiến thức theo chuẩn giáo dục quốc gia với 2 mức cơ bản và chuyên sâu. Bên cạnh đó còn phần "mềm" dành cho các địa phương quy định. Phần mềm chiếm 20 - 30% khối lượng chung các môn như Văn học, Lịch sử, Địa lí, Sinh học, Giáo dục thể chất, Công nghệ. Kiến thức này sẽ được thể hiện trong đề thi quốc gia hay kì kiểm tra, đánh giá (KTĐG) thường niên do địa phương tiến hành; (2) Phần nội dung dành cho trường lựa chọn để bố trí thành kiến thức bổ sung của trường; (3) Phần do từng HS lựa chọn như nội dung chuyên sâu học cá nhân (không thi quốc gia hay vùng).

Từ 1/9/2007, nước Nga áp dụng chế độ giáo dục bắt buộc và miễn phí ở bậc học phổ thông 11 năm (tuy nhiên, chế độ miễn phí chỉ áp dụng đối với HS trường công lập), đến tuổi 18 phải hoàn thành Chương trình giáo dục phổ thông 11 năm. Điều này thể hiện chính sách ưu tiên cho giáo dục, bởi lẽ hiện nay trên thế giới đa số các nước mới quy định giáo dục bắt buộc 9 năm.

3. Nền tảng triết lí và tư tưởng xây dựng Chương trình giáo dục phổ thông

Hiến pháp Liên bang Nga thừa nhận giá trị, quyền con người và sự tự do của con người trong đó có quyền được học, được giáo dục. Điều này phù hợp với Công ước Liên hợp quốc về Quyền trẻ em trong đó nhấn mạnh quyền học, được phát triển văn hoá, phát triển năng lực bản thân để trở thành một công dân có ích cho xã hội.

Đặc điểm phát triển của nước Nga giai đoạn hiện nay là những thay đổi kinh tế xã hội trùng với xu hướng thế giới chuyển từ xã hội công nghiệp sang xã hội thông tin (tin học), xã hội tri thức. Những yếu tố chính ảnh hưởng đến phát triển giáo dục ngày nay là phát triển nhân cách người được giáo dục ( phát triển nhân cách đó là tư duy và mục đích của giáo dục hiện đại), là tiến trình toàn cầu hoá. Đối với nước Nga còn một yêu cầu mới đó là hình thành một xã hội thông tin đối với hệ thống giáo dục.

Điu này đòi hỏi phải thay đổi cách nhìn nhận về bản chất về tính sẵn sàng của con người trong việc thực hiện các chức năng nghề nghiệp và thực hiện vai trò xã hội. Ngày nay về mặt nguyên tắc hoạt động của con người đã phần lớn trở nên sáng tạo. Thực chất đó là việc giảm bớt vai trò thu hẹp phạm vi của các hoạt động "ghi nhớ" "lặp lại’, đồng thời tăng cường tính tích cực sáng tạo trong tất cả các lĩnh vực hoạt động. Quá trình và xu thế này chỉ có thể thực hiện trong điều kiện hình thành một hệ thống giáo dục sáng tạo, một hệ thống hướng tới những kết quả giáo dục mới.

Trong điều kiện hiện nay của nước Nga, trong điều kiện nhân loại đang chuyển sang xã hội hậu công nghiệp, sang thời đại tin học hoá trong đó nền kinh tế dựa trên cơ sở kĩ thuật thông tin thì giáo dục trở thành nguồn tài nguyên quan trọng nhất của sự phát triển KT - XH, chính trị và văn hoá của đất nước. Đầu thế kỉ XXI thế giới đi vào giai đoạn thay đổi toàn cầu trên bình diện văn hoá. Việc chuyển sang xã hội hậu công nghiệp đẩy nhanh tiến trình toàn cầu hoá, thúc đẩy sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia và các nền văn hoá, thúc đẩy tiến trình hợp tác quốc tế và phân công lao động giữa các nước. Trong điều kiện cuộc sống thường xuyên thay đổi, thường xuyên phải đối mặt và giải quyết những nhiệm vụ mới, những vấn đề bất thường thì những tiêu chuẩn mới luôn đặt ra. Cuộc sống trong những điều kiện của một xã hội đa văn hoá đặt ra những yêu cầu rất cao đối với sự giao lưu, hợp tác và tính khoan dung.

Nâng cao động cơ nghề nghiệp chính là một dấu hiệu của thời đại. Con người trong xã hội hiện đại, trong đời sống của mình không chỉ thay đổi một lần lĩnh vực học tập và nghề nghiệp (họ cần phải biết những nghề nghiệp mới). Điều đó dẫn tới sự thay đổi căn bản trong xây dựng và phát triển hệ thống giáo dục, đó là chuyển từ phương châm "Giáo dục vì cuộc sống" sang phương châm "Giáo dục suốt đời".

Hoạt động xã hội quan trọng nhất đó là sự đảm bảo khả năng của hệ thống giáo dục đáp ứng một cách linh hoạt với những đòi hỏi của cá nhân với sự thay đổi của các nhu cầu kinh tế và việc xây dựng một xã hội mới. Hiệu quả xã hội quan trọng nhất mà giáo dục đem lại đó là sự đồng thuận xã hội, hình thành bản sắc công dân (dân tộc Nga và công dân thế giới), làm giảm đi những khủng hoảng tâm lí xã hội căng thẳng xã hội giữa những nhóm cư dân và vùng miền khác nhau. Hiệu quả thứ hai đó là nâng cao nhận thức xã hội và đạt được công bằng xã hội giữa các cá nhân với những xuất phát điểm khác nhau. Một xã hội phát triển cần phải có những con người có học vấn hiện đại, có đạo đức, đầu óc sáng tạo, những con người có thể tự giải quyết các vấn đề và đồng thời dự đoán được những khả năng có thể xảy ra của những vấn đề đó, những con người tư duy uyển chuyển, có khả năng hợp tác, có tinh thần trách nhiệm với số phận và sự thịnh vượng của đất nước. Vì vậy, giáo dục cần phải trở thành một thể chế xã hội quan trọng nhất của thế hệ trẻ, có tính cạnh tranh cao, là định hướng để đạt được những lí tưởng công bằng xã hội và đoàn kết giữa các công dân, là định hướng để đạt được phúc lợi xã hội, sự ổn định và sự thịnh vượng của nước Nga.

Khi tuyên bố về các mục tiêu phát triển dân chủ trong các điều kiện của nền kinh tế thị trường, nước Nga đề ra cho các HS tốt nghiệp những yêu cầu mới được khẳng định theo tuyên bố của tổng thống Nga Putin: "(Hình thành) con người tự do trong một đất nước tự do".

4. Các hướng ưu tiên của giáo dục Liên bang Nga trong giai đoạn hiện nay

Theo nguyên Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Khoa học Liên bang Nga D.V. Livanov, giáo dục phổ thông Nga cần tiếp tục giải quyết vấn đề nâng cao chất lượng, trong đó tập trung vào các hướng ưu tiên sau:

Thứ nhất, căn cứ vào chuẩn giáo dục các cấp học (chuẩn liên bang) và mô hình Chương trình quốc gia đã được ban hành, mỗi trường phát triển chương trình của riêng mình.

Thứ hai, vsách giáo khoa điện tử: Tất cả sách giáo khoa nằm trong danh mục được cấp phép của Bộ Giáo dục liên bang, đều có một phiên bản điện tử. Các trường có thể sử dụng cả sách giấy và sách điện tử hoặc sử dụng đồng thời cả hai. Viện nghiên cứu về đào tạo và bồi dưỡng GV chịu trách nhiệm điều phối công tác bồi dưỡng giáo viên về sách giáo khoa điện tử.

Thứ ba, đổi mới về nội dung và phương pháp dạy học các môn học. Từ 1 tháng 9 năm 2015, các trường sẽ sử dụng sách giáo khoa Lịch sử mới, được viết trên cơ sở tiêu chuẩn lịch sử - văn hoá. Sẽ xuất bản những tập phụ lục (sách mỏng) về các vấn đề còn gặp khó khăn trong đánh giá của lịch sử dân tộc.

Thực hiện chiến lược giáo dục Toán học tại Liên bang Nga - với thông điệp chính là "Không có trẻ em nào là không thể học được toán" - mỗi giáo viên Toán được bồi dưỡng cập nhật các vấn đề về đổi mới cấu trúc và nội dung giáo dục toán học. Kì thi quốc gia thống nhất (EGE) về toán tiếp tục được tổ chức ở mức cơ bản và phân hoá là một nội dung trong chiến lược nói trên.

Thực hiện chiến lược giáo dục ngôn ngữ, một trong các biện pháp là nâng cao chất lượng dạy học và nghiên cứu tiếng Nga, cải tiến phương pháp giảng dạy môn tiếng Nga và Văn học. Đặc biệt ở các khu vực có nhiều khó khăn như vùng Bắc Caucasus đã nhận được các hỗ trợ đặc biệt với những học sinh học yếu và bồi dưỡng giáo viên nâng cao kĩ năng của họ. Đồng thời tiến hành đúc rút phân tích và phổ biến các kinh nghiệm tốt, các phương pháp cải tiến trong việc giảng dạy tiếng Nga.

Kết quả kì thi EGE về Ngôn ngữ và Toán học đã cho thấy có một số cải thiện trong chất lượng học tập các môn này. Các công nghệ và phương pháp mới trong tiến hành kỳ thi đánh giá sẽ được tiếp tục thử nghiệm, bao gồm phần thi nói trong môn Ngoại ngữ.

Năm học 2015 - 2016, lần đầu tiên tiếng Trung Quốc, Tây Ban Nga và Tiếng Ý nằm trong danh sách các môn thi Olympic.

Xây dựng kế hoạch cho đến năm 2020 về hệ thống đào tạo công dân Nga về nghĩa vụ quân sự. Quy định về khu phức hợp thể thao toàn Nga "Sẵn sàng lao động và bảo vệ Tổ quốc” (TTO).

Thứ tư, giáo viên đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng giáo dục. Tuy rằng chuẩn nghề nghiệp của GV được lùi thời gian thực hiện đến 1 tháng 1 năm 2017, nhưng để chuẩn bị cho việc thực hiện chuẩn này, đã tổ chức nhiều hội thảo thảo luận về chủ đề này. Chuẩn nghề nghiệp là một yếu tố thiết yếu để kí hợp đồng lao động với người giáo viên. Giáo viên phải đáp ứng được các yêu cầu về chuẩn mới có thể được cấp giấy chứng nhận hành nghề. Điều này sẽ cho phép kết nối việc tăng lương với việc nâng cao chất lượng giáo dục.

Thứ năm, trả lương cho giáo viên. Bộ Giáo dục đã đạt được thoả thuận với Bộ Lao động và Bộ Phát triển kinh tế, về việc tăng lương cho giáo viên. Ví dụ: trong năm 2015, mức lương trung bình của cả vùng khoảng 30.000 rúp, giá cả tăng trong năm 2016 được dự báo ở mức 5%, thế thì, lương giáo viên trong năm 2016 sẽ vào khoảng 31500 rúp. Cách tiếp cận này sẽ loại bỏ phần lớn sự rủi ro.

Thứ sáu, soạn thảo chương trình “Giáo dục lòng yêu nước”. Bộ Giáo dục giới thiệu một kế hoạch hành động của liên bang trong thực hiện chương trình giaó dục lòng yêu nước. Cung cấp đầy đủ tài liệu để tổ chức chương trình "Giáo dục lòng yêu nước" khó có thể thực hiện, nhưng mỗi trường có thể tổ chức các sự kiện thú vị cho trẻ em và cha mẹ học sinh.

Bộ Giáo dục lên kế hoạch và thông báo cho các địa phương lịch tổ chức "Các sự kiện giáo dục cho năm 2016". Ví dụ, Ngày thống nhất dân tộc, ngày nước Nga và các ngày đáng nhớ khác.

Thứ bảy, đánh già chất lượng giáo dục. Kết quả kì thi quốc gia thống nhất (EGE) là cơ sở để hoàn thiện phương pháp gỉang dạy, nâng cao trình độ của giáo viên. Thông qua hệ thống đánh giá đảm bảo sự thống nhất của không gian giáo dục và nâng cao chất lượng giáo dục.

Một trong những hình thức mới của đánh giá chất lượng giáo dục là tiến hành công tác kiểm tra toàn Nga, nhằm đánh gía sự phù hợp của học sinh với yêu cầu của chuẩn giáo dục.

Đánh giá chất lượng giáo dục không chỉ là GIA, EGE và công tác kiểm tra, mà còn là nghiên cứu quốc gia về chất lượng giáo dục - NUKO.

Thứ tám, đảm bảo tiếp cận giáo dục. Liên bang Nga hỗ trợ mạnh mẽ cho các khu vực về vấn đề đảm bảo tiếp cận giáo dục. Có các chương trình như: Hiện đại hoá giáo dục Mầm non; Thực hiện chương trình "môi trường tiếp cận" và xây dựng cơ sở giáo dục tại khu vực; Phát triển cơ sở hạ tầng thể thao trong các trường học nông thôn; Trợ cấp theo chương trình mục tiêu liên bang về phát triển giáo dục; Kinh phí đảm bảo nhà ở cho trẻ em mồ côi.

Thứ chín, phổ cập giáo dục Mầm non. Ngày 01 tháng 6 năm 2015 số liệu trung bình cho thấy gần 96 % trong số 29 khu vực đảm bảo trẻ trong độ tuổi 3-7 tuổi đến trường mẫu giáo. Nhưng vẫn còn 9 chủ thể liên bang có chỉ số ít hơn 90 %, đặc biệt là một số vùng khó khăn.

Thứ mười, tạo thêm chỗ học trong nhà trường (Dự án MPCO -2). Quy định của Chính phủ về giai đoạn mới của hiện đại hoá hệ thống GDPT khu vực đang được thực hiện đồng bộ với gần 2 tỉ rúp từ quỹ liên bang cộng với tiền tài trợ của khu vực. Số tiền này sẽ chỉ chi cho sửa chữa và xây dựng trường học mới.

Chuẩn bắt buộc 25 học sinh/lớp đã thay đổi - tuy nhiên chuẩn này vẫn được khuyến nghị. Nếu nhà trường có khả năng đảm bảo các điều kiện giáo dục quy chuẩn thì quy mô lớp học sẽ có đôi chút thay đổi.

Ngoài ra, hướng nghiệp và dạy nghề cũng được đánh giá là quan trọng. Trong vài năm tới sẽ có một số thay đổi về cấp chứng chỉ quốc gia cho học sinh lớp 9. Yêu cầu đối với học sinh tốt nghiệp sẽ tăng mức khó và tỉ lệ không nhận được giấy chứng nhận trình độ giáo dục phổ thông cơ bản tăng lên. Hiện nay số học sinh này là ít hơn 1 %.

Học sinh không có giấy chứng nhận trình độ giáo dục phổ thông cơ bản, phải có cơ hội để xây dựng cuộc sống thành công. Nhóm học sinh này phải được tham gia các chương trình đào tạo - học nghề, và các chương trình này có thể được đăng kí mà không cần bằng tốt nghiộp giáo dục phổ thông cơ bản. Học sinh được học cách làm việc với các thiết bị cụ thể, công nghệ và được xếp hạng trình độ. Từ năm học 2015 - 2016, các khu vực xây dựng mạng lưới các cơ sở giáo dục cung cấp chương trình đào tạo nghề.

Thêm một chương trình đặc biệt cho 5 năm tới là môn "Tiếng Nga". Lần đầu tiên các khu vực có thể nhận được các khoản trợ cấp dành cho phát triển nội dung, hình thức, phương pháp nâng cao năng lực giáo viên tiếng Nga và những người nghiên cứu tiếng Nga. Trong 5 năm qua, 825 triệu rúp đã được chi cho vấn đề này và đã đào tạo được hơn 16.000 chuyên gia.