Việt Nam là một trong những nước có nền nông nghiệp phát triển trong khu vực Đông Nam Á, có vai trò tăng cường hỗ trợ an ninh lương thực cho các quốc gia khác. Thời gian qua, Chính phủ đã triển khai thực hiện tốt nhiệm vụ bảo đảm an ninh lương thực trong thời gian dịch Covid-19 nhưng vẫn là một thách thức lớn đối với an ninh lương thực quốc gia. Do đặc điểm về địa lý và khí hậu của Việt Nam, bên cạnh đặc điểm dân số với hơn 80% sống phụ thuộc vào nông nghiệp cần phải có chiến lược vừa đảm bảo an ninh lương thực dài hạn, vừa đáp ứng các lợi ích về kinh tế xã hội của quốc gia.
Chính phủ đã có những giải pháp kịp thời khôi phục và phát triển sản xuất, kinh doanh nông, lâm, thủy sản trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt, tình trạng xâm nhập mặn và dịch bệnh kéo dài nhằm đảm bảo các phương án sản xuất phù hợp để đảm bảo nguồn cung cấp lương thực, thực phẩm cho 100 triệu dân.
Căn cứ vào quy hoạch đất lúa và sản xuất lúa gạo nhằm đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia và chính sách bảo đảm lợi ích cho người trồng lúa, địa phương và vùng trồng lúa; Quốc hội đã ban hành Nghị quyết về quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020[1], theo đó xác định rõ diện tích đất trồng lúa cần bảo vệ, điều tiết phân bổ nguồn lực để đảm bảo lợi ích giữa các địa phương có điều kiện phát triển công nghiệp với các địa phương giữ đất trồng lúa, tăng đầu tư hạ tầng, xây dựng cơ sở bảo quản chế biến, tiêu thụ hàng hóa tại các địa phương giữ nhiền đất trồng lúa; có chính sách, biện pháp để giảm chi phí sản xuất, tăng thu nhập để người trồng lúa yên tâm sản xuất. Thời gian qua, Chính phủ đã quan tâm chỉ đạo đánh giá toàn diện về khả năng thích nghi, dự báo về diện tích, năng suất, sản lượng lúa theo các kịch bản biến đổi khí hậu (BĐKH) phù hợp với 7 vùng kinh tế - xã hội. Để thích ứng với điều kiện thực tế, Chính phủ đề nghị quốc hội điều chỉnh quy hoạch đất, theo đó tại Nghị quyết số 134/2016/QH13 về “Điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng đất kỳ cuối (2016 - 2020) cấp Quốc gia” đã điều chỉnh giảm đến năm 2020 còn 3,76 triệu ha, trong đó điều chỉnh giảm diện tích đất canh tác 2 vụ từ 3,2 triệu ha xuống 3,13 triệu ha, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và xuất khẩu. Năm 2016, Bộ Nông nghiệp và PTNT đã phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp đến năm 2020 là 27,038 triệu ha, trong đó đất trồng lúa cần giữ và bảo vệ là 3,760 triệu ha[2]. Trên thực tế, diện tích đất lúa hiện nay vẫn ở mức 4,12 triệu ha (năm 2018).
Chính phủ đã chỉ đạo xây dựng, hoàn thiện các quy hoạch sản xuất lúa theo quy hoạch tổng thể sử dụng đất lúa toàn quốc; Quy hoạch phát triển sản xuất lúa Thu Đông vùng ĐBSCL[3]; Đề án phát triển sản xuất lúa vùng ĐBSCL trong điều kiện biến đổi khí hậu[4]; Quy hoạch hệ thống dự trữ 4 triệu tấn lúa tại vùng ĐBSCL. Các quy hoạch này được xây dựng đảm bảo sự thống nhất và phù hợp về quy mô và địa bàn bố trí diện tích đất trồng lúa với quy hoạch sử dụng đất trên phạm vi toàn quốc. Trên cơ sở đó, đến nay sản xuất lúa vẫn đảm bảo quy mô diện tích và mục tiêu an ninh lương thực quốc gia.
Cùng với đó, Chính phủ đã tính toán các phương án để khi cần có thể tận dụng cơ hội về giá và nhu cầu lương thực trên thế giới để tăng xuất khẩu lương thực ở mức hợp lý, đây có thể coi là cơ hội chuyển mình theo hướng tích cực của nền nông nghiệp Việt Nam trong giai đoạn hiện tại.
Có thể điểm qua các chính sách của Đảng và Nhà nước về thực hiện an ninh lương thực trong thời gian qua để thấy được vai trò không thể thay thế của nền nông nghiệp hiện nay. Trong vòng 10 năm từ 2009 -2019 sản lượng lúa của cả nước từ 39,17 triệu tấn lên 43,4 triệu tấn, bình quân lương thực đầu người tăng từ 497kg/năm lên trên 525kg/năm, đưa Việt Nam vào nhóm 6 nước hàng đầu về chỉ số này và vai trò của Việt Nam trong hỗ trợ an ninh lương thực cho các quốc gia khác ngày càng tăng.
Trong năm 2020 do tình hình về thời tiết khắc nghiệp, hạn mặn nặng nề ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, dịch tả lợn châu Phi trên cả nước, dịch cúm gia cầm chưa kiểm soát, đặc biệt trong bối cảnh dịch Covid-19 trên toàn cầu vẫn diễn biến phức tạp nhưng Việt Nan vẫn duy trì được sản lượng các loại nông sản ổn định và tăng so với năm 2019.
Bên cạnh đó, kế hoạch thực hiện quy hoạch chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi trên đất trồng lúa đã đáp ứng được những đòi hỏi của thị trường và thực tiễn sản xuất; nhằm mục tiêu vừa nâng cao hiệu quả sử dụng đất, vừa duy trì quỹ đất trồng lúa, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, tăng thu nhập cho người dân, góp phần xóa đói giảm nghèo, ổn định chính trị xã hội, bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu; Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành cơ chế, chính sách quản lý và sử dụng đất lúa linh hoạt hơn, cho phép người dân chủ động chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất lúa để lựa chọn phương án sản xuất hiệu quả nhất[5] (ngân sách Trung ương hỗ trợ ngân sách địa phương trên 40 tỷ đồng/năm). Bộ Nông nghiệp và PTNT đã phê duyệt Quy hoạch chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất lúa giai đoạn 2014 - 2020 (Quyết định số 3367/QĐ-BNN-TT ngày 31/7/2014), phê duyệt Kế hoạch chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất trồng lúa đến năm 2020 (Quyết định số 586/QĐ-BNN-TT ngày 12/02/2018); trong đó, quy hoạch chuyển dịch cơ cấu cây trồng, mùa vụ, giống phù hợp, thích ứng với BĐKH của các vùng sinh thái. Giai đoạn 2013 - 2019, các địa phương đã chuyển đổi khoảng 405 ngàn ha gieo trồng lúa kém hiệu quả sang nuôi trồng thủy sản, cây ăn quả và các cây màu, cây làm thức ăn chăn nuôi có hiệu quả kinh tế cao hơn, rõ nhất là ở vùng ĐBSCL và vùng ĐBSH (mục tiêu đến năm 2020 cả nước chuyển đổi 700 ngàn ha). Năm 2018, Chính phủ trình Quốc hội ban hành Luật Trồng trọt; trong đó luật hóa những quy định làm cơ sở để điều chỉnh, hoàn thiện khung pháp lý đầy đủ hơn cho vấn đề ANLT quốc gia trong tình hình mới.
Từ những chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước trong suốt 10 năm qua, có thể đánh giá về kết quả phát triển sản xuất nông nghiệp trong lĩnh vực an ninh lương thực của Việt Nam đạt được nhiều thành tựu. Đầu tiên phải kể đến các kết quả trong lĩnh vực nông nghiệp đã phát huy các lợi thế nhiệt đới, nguồn nước và từng vùng, miền; sản xuất hàng hóa chuyển dịch theo hướng hiện đại, nâng cao giá trị gia tăng và bền vững, năng suất và chất lượng ngày càng cao[6]; vận hành theo cơ chế thị trường, đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia; giảm nghèo bền vững; tiếp tục khẳng định được vị thế quan trọng trong nền kinh tế, đặc biệt khi kinh tế - xã hội có khó khăn. Giai đoạn 2009 - 2019, tốc độ tăng trưởng GDP toàn ngành đạt 2,61%/năm[7], tốc độ tăng giá trị sản xuất toàn ngành đạt 3,64%/năm; giá trị sản xuất lĩnh vực trồng trọt tăng 2,9%/năm, lĩnh vực chăn nuôi tăng 5,2%/năm, lĩnh vực thủy sản tăng 3,91%/năm. Chất lượng tăng trưởng được cải thiện; giá trị và sản lượng nhiều nông sản tăng mạnh, sản xuất nông nghiệp sạch, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, an toàn vệ sinh thực phẩm được ưu tiên.
Từ năm 2013, thực hiện Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp, xây dựng nền nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp chuyển dịch theo hướng phát huy lợi thế, phù hợp thị trường và thích ứng với biến đổi khí hậu. Cơ cấu lương thực thực phẩm xuất khẩu thể hiện rõ kết quả tăng tỷ trọng các ngành, sản phẩm có lợi thế và thị trường như: thủy sản, rau quả, gạo chất lượng cao[8]... So sánh với giai đoạn trước, tốc độ tăng trưởng của các ngành hàng này cao hơn. Đây là kết quả tích cực trong quá trình cơ cấu lại lĩnh vực trồng trọt, thủy sản.
Đối với các ngành sản xuất lương thực thực phẩm tăng trưởng khá ổn định, đặc biệt lĩnh vực chăn nuôi, thủy sản cũng thu được nhiều thành quả cao, góp phần vào đảm bảo an ninh lương thực và thức đẩy kinh tế xã hội phát triển, tiến kịp với hội nhập kinh tế thế giới, đặc biệt là giai đoạn đầu năm 2020, khi dịch bệnh Covid 19 hoành hành ở nhiều nước trên thế giới. Các thành quả cụ thể như sau:
Thứ nhất, trong lĩnh vực trồng trọt thu được sản lượng lương thực, thực phẩm dồi dào, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Giá trị sản phẩm thu được trên 01 ha đất trồng trọt năm 2018 đạt 91,9 triệu đồng, gấp 2,02 lần năm 2009[9]. Sản lượng lúa gạo tăng từ 39,2 triệu tấn năm 2009 lên 43,45 triệu tấn năm 2019 (tăng 12,2%), sản lượng nhóm rau quả có mức tăng trưởng nhanh: rau các loại tăng từ 9,75 triệu tấn năm 2009 lên 17,6 triệu tấn năm 2019 (tăng 80,5%), trái cây tăng từ 6 triệu tấn[10] năm 2009 lên 12,6 triệu tấn giai đoạn 2009 - 2019[11]. Nhiều mặt hàng còn được xuất khẩu với giá trị cao, đã có 07 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 01 tỷ USD/năm[12]. Đặc biệt, kim ngạch xuất khẩu nhóm cây ăn quả và rau đã tăng rất nhanh, từ 0,4 tỷ USD năm 2009 lên 3,7 tỷ USD năm 2019 (tăng 8,7 lần).
Không chỉ đẩy mạnh áp dụng công nghệ nhằm tăng năng suất, chất lượng sản phẩm mà còn đẩy mạnh áp dụng quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt, sử dụng nhà lưới, nhà kính; phát triển sản xuất nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp sạch để nâng cao chất lượng, giá trị sản phẩm và đảm bảo an toàn thực phẩm. Kết quả điều tra nông nghiệp, nông thôn 2016 cho thấy tại thời điểm điều tra cả nước có 1.495 đơn vị được cấp chứng nhận VietGAP và tương đương, trong đó trồng trọt có 1.200 đơn vị chiếm 80,2% tổng số đơn vị VietGAP; 5.897,5 ha nhà lưới nhà kính nhà màng, trong đó 2.144,6 ha trồng rau, 2.854,3 ha trồng hoa, 661,1 ha trồng cây giống.
Thứ hai, đối với lĩnh vực chăm nuôi cũng có sự chuyển biến rõ nét khi các sản phẩm chăn nuôi không chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước, góp phần đa dạng dinh dưỡng mà bước đầu đã xuất khẩu được sang các thị trường có yêu cầu cao. Nhờ chuyển đổi sang phát triển chăn nuôi tập trung theo phương thức công nghiệp và bán công nghiệp, sản lượng thịt, trứng, sữa tăng mạnh: thịt hơi các loại tăng từ 3,91 triệu tấn năm 2009 lên 5,02 triệu tấn năm 2019; thịt gia cầm tăng 2,1 lần; sữa các loại tăng 3,36 lần; trứng tăng 2,13 lần.
Thứ ba, trong lĩnh vực thủy sản đã chú trọng đến phát triển không chỉ đáp ứng được xu hướng ngày càng cần bổ sung nhiều protein, chất béo omega-3... từ thủy hải sản cho người dân mà còn xuất khẩu sang các nước khác. Giá trị sản xuất tăng 3,91%/năm. Đã phát triển toàn diện cả khai thác, nuôi trồng và bảo vệ nguồn lợi. Trong nuôi trồng, tập trung chủ yếu vào nuôi trồng các sản phẩm có lợi thế và giá trị cao; phát triển nuôi thâm canh, công nghiệp, áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến và nuôi theo các tiêu chuẩn chứng nhận (GAPs). Giá trị sản phẩm thu được/ha đất nuôi trồng đạt 226,3 triệu đồng, gấp 2,6 lần năm 2009. Sản lượng thuỷ sản đã tăng từ 4,85 triệu tấn năm 2009 (khai thác 2,28 tấn, nuôi trồng 2,57 triệu tấn) lên 8,2 triệu tấn năm 2019 (khai thác 3,8 triệu tấn, nuôi trồng 4,4 triệu tấn), tăng 69,1%.
[1]Nghị quyết số 17/2011/QH13 về Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và Kế hoạch sử dụng đất 5 năm ( 2011 - 2015) và Nghị quyết số 134/2016/ QH13 ngày 09/4/2016 về điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và Kế hoạch sử dụng đất cuối kì (2016 -2020 ) cấp quốc gia.
[2] Nghị quyết số 134/2016/QH13 ngày 09/4/2016 của Quốc hội về điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2016-2020) cấp quốc gia
[3] Quyết định số 101/QĐ/BNN-TT ngày 15/01/2015 của Bộ Nông nghiệp và PTNT phê duỵệt Quy hoạch phát triến sản xuất lúa Thu đông vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030.
[4] Quyết định số 1915/QĐ/BNN-KH ngày 25/5/2018 của Bộ Nông nghiệp và PTNT phê duyệt Đề án sản xuất lúa vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030 trong điều kiện biển đổi khí hậu.
[5]các Nghị định: số 01/2017/NĐ-CP ngày 06/01/2017, số 62/2019/NĐ-CP ngày 01/7/2019; các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ: số 580/QĐ-TTg ngày 22/4/2014, số 915/QĐ-TTg ngày 27/5/2016;
[6] Nhiều mặt hàng có năng suất cao, chi phí sản xuất thấp, có lợi thế cạnh tranh cao và đang từng bước chiếm lĩnh thị trường thế giới. Năng suất lúa gạo cao nhất trong khu vực Đông Nam Á đạt 5,6 tấn/ha, gần gấp đôi so với Thái Lan và gấp 1,5 lần so với Ấn Độ; năng suất cà phê đạt 2,6 tấn nhân xô/ha, cao gấp 1,5 lần so với Brazil, gấp 3 lần so với Colombia, Indonesia; năng suất hồ tiêu đạt 2,6 tấn/ha, gấp 3 lần so với Indonesia và 1,3 lần của Ấn Độ; năng suất cá tra bình quân đạt 209 tấn/ha, có ao nuôi đạt 300 - 400 tấn/ha, cao nhất thế giới; năng suất tôm sú đạt 0,45 tấn/ha, tôm thẻ chân trắng đạt 3.91 tấn/ha, cao hơn so với Ấn Độ (tôm thẻ chân trắng năng suất 3,5 tấn/ha) và Thái Lan (tôm thẻ chân trắng năng suất 3,6 tấn/ha).
[7] Năm 2008 tốc độ tăng GDP ngành là 4,68%; giai đoạn 5 năm (2009 - 2013) GDP ngành tăng bình quân 2,9%/năm, giai đoạn 4 năm (2014 - 2018) GDP ngành tăng 2,60%/năm, năm 2019 tăng 2,01%.
[8] Các loại cây có lợi thế (rau quả, điều và tiêu) không chỉ tăng diện tích, sản lượng mà kim ngạch xuất khẩu cũng tăng khá cao: rau quả tăng 43,36%/năm, hạt điều tăng 24,36%/năm và hạt tiêu tăng 8,94%/năm.
[9] Giá trị sản phẩm trồng trọt/ha năm 2009 là 45,5 triệu đồng/ha
[10] Một số loại trái cây chính như cam, quýt, dứa, chuối, xoài, nhãn, vải, chôm chôm, dừa, bưởi, thanh long
[11] Tính toán từ số liệu của Tổng cục Thống kê năm 2019 là 10,93 triệu tấn
[12] gồm: rau quả, gạo, cao su, cà phê, hạt điều, hạt tiêu, sắn và sản phẩm từ sắn